Hình ảnh Greyscale Galileo Galileo của Amalthea, cho thấy miệng núi lửa Pan | |||||||||
Khám phá | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Khám phá bởi | E.E. Barnard | ||||||||
Ngày phát hiện | ngày 9 tháng 9 năm 1892 | ||||||||
Tên định danh | |||||||||
Phiên âm | /æməlˈθiːə/[1] | ||||||||
Đặt tên theo | Ἀμάλθεια Amaltheia | ||||||||
Tính từ | Amalthean /æməlˈθiːən/[2][3] | ||||||||
Đặc trưng quỹ đạo | |||||||||
Cận điểm quỹ đạo | 181 150 km[4] | ||||||||
Viễn điểm quỹ đạo | 182 840 km[4] | ||||||||
Bán kính quỹ đạo trung bình | 181 365,84 ± 0,02 km (2,54 RJ)[5] | ||||||||
Độ lệch tâm | 0,003 19 ± 0,000 04[5] | ||||||||
0,498 179 43 ± 0,000 000 07 ngày (11 giờ 57 phút 23 giây)[5] | |||||||||
Tốc độ vũ trụ cấp 1 trung bình | 26,57 km/s[4] | ||||||||
Độ nghiêng quỹ đạo | 0,374 ± 0,002° (từ xích đạo của Sao Mộc)[5] | ||||||||
Vệ tinh của | Sao Mộc | ||||||||
Đặc trưng vật lý | |||||||||
Kích thước | 250 × 146 × 128 km[6] | ||||||||
Bán kính trung bình | 83,5 ± 2,0 km[6] | ||||||||
Thể tích | (2,43 ± 0,22)×106 km³[7] | ||||||||
Khối lượng | 2,08 ± 0,15×1018 kg[7] | ||||||||
Mật độ trung bình | 0,857 ± 0,099 g/cm³[7] | ||||||||
~0,020 m/s2 (~0,002 g)[4] | |||||||||
~0,058 km/s[4] | |||||||||
đồng bộ[6] | |||||||||
0[6] | |||||||||
Suất phản chiếu | 0,090 ± 0,005[8] | ||||||||
| |||||||||
14,1[10] | |||||||||
Amalthea (phát âm /ˌæməlˈθiːə/ AM-əl-THEE-ə, hoặc trong tiếng Hy Lạp là Αμάλθεια) là vệ tinh thứ ba của Sao Mộc theo thứ tự khoảng cách từ hành tinh này. Nó được Edward Emerson Barnard phát hiện ngày 9 tháng 9 năm 1892, và sau đó được đặt theo tên Amalthea, một mỹ nhân trong thần thoại Hy Lạp.[11] Nó cũng được gọi là Jupiter V.
Amalthea có quỹ đạo kép kính bay quanh Sao Mộc và nằm trong rìa ngoài của vành đai Sao Mộc, vành đai này được hình thành từ bụi bị phóng thích từ bề mặt của nó.[12] Amalthea là vệ tinh vòng trong lớn nhất của Sao Mộc. Hình dạng bất thường và có màu đỏ, nên người ta cho rằng nó có nhiều lỗ rỗng chứa nước ở dạng băng với khối lượng các vật liệu khác chưa biết được. Bề mặt của chúng gồm các hố lớn và các núi cao.[6]
Amalthea được phi thuyền Voyager 1 và 2 chụp hình năm 1979 và 1980, và sau đó được phi thuyền Galileo chụp ảnh chi tiết hơn vào thập niên 1990.[6]