Giới tính xã hội

Biểu tượng của giới thuộc hệ nhị phân. Trong đó, vòng tròn đỏ chỉ cho phái nữ (Venus), vòng tròn xanh chỉ phái nam (Mars).
Biểu tượng của phi nhị giới.

Giới tính xã hội (tiếng Anh: gender), giới, hay phái tính,[1] là các đặc điểm liên quan đến sự khác biệt giữa nam tínhnữ tính. Tùy thuộc vào văn cảnh, những đặc điểm này có thể bao gồm giới tính sinh học (tức là giới tính nam, giới tính nữ hoặc Liên giới tính), các cơ cấu xã hội dựa trên giới tính (gồm vai trò giới và các vai trò xã hội khác), hay bản dạng giới.[2][3][4] Hầu hết các nền văn hóa đều sử dụng hệ nhị phân để phân loại giới là nam và nữ;[5] những người có giới nằm ngoài hệ nhị phân này đều nằm trong nhóm phi nhị nguyên giới hoặc đa dạng giới. Một số xã hội có một hay nhiều giới khác ngoài nam và nữ, như là hijra của người Ấn Độ và Two-Spirit của thổ dân châu Mỹ; những người này nằm trong nhóm giới thứ ba.

Giới của một người hình thành trong quá trình trưởng thành của người đó. Khái niệm này do John Money đề xuất vào năm 1955, đề cập tới giới tính theo phương diện là một vai trò xã hội để phân biệt với giới tính sinh học.[2][3] Tuy nhiên, định nghĩa của Money không được biết tới rộng rãi cho tới những năm 1970s, khi mà thuyết nữ quyền phát triển khái niệm về sự khác biệt giữa giới tính sinh học và giới xã hội. Ngày nay, sự khác biệt này được sử dụng trong nhiều văn cảnh, đặc biệt là trong khoa học xã hội[6][7] cũng như những tài liệu được viết bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).[4]

Trong các văn cảnh khác, bao gồm một số vùng của khoa học xã hội, giới thường bao gồm giới tính hoặc thay thế luôn.[2][3] Ví dụ, ở những nghiên cứu về các loài động vật không phải con người, giới thường được dùng để chỉ giới tính sinh học của động vật.[3] Sự thay đổi về nghĩa của giới này được tìm thấy tại những năm 1980s. Vào năm 1993, Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) sử dụng "giới" thay vì "giới tính".[8] Sau đó, vào năm 2011, FDA đảo ngược lại vị trí của hai thuật ngữ và bắt đầu sử dụng "giới tính" là thuật ngữ để phân loại các đặc điểm sinh học và giới theo nghĩa "cách một người thể hiện bản thân là nam hay nữ, hoặc cách một người được nhận dạng bởi thiết chế xã hội dựa vào thể hiện giới của họ".[9]

Khoa học xã hội có một nhánh chuyên nghiên cứu về giới. Một số các bộ môn khoa học khác, như tình dục họckhoa học thần kinh, cũng quan tâm tới chủ đề này. Khoa học xã hội coi giới là một sự kiến tạo xã hội, và bộ môn nghiên cứu giới cũng vậy, trong khi nghiên cứu của khoa học tự nhiên đang tìm hiểu rằng liệu sự khác biệt sinh học giữa giống đực và cái có ảnh hưởng tới sự phát triển giới của con người; tất cả đều dẫn tới những tranh luận rằng liệu những sự khác biệt sinh học có ảnh hưởng tới bản dạng giới đến mức nào.[3]

Từ nguyên và cách sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc từ giới gender trong tiếng Anh hiện đại bắt nguồn từ tiếng Anh Trung Cổ gennder, gendre, một từ vay mượn từ tiếng Anglo-NormanPháp trung Cổ gendre. Từ này xuất xứ từ tiếng Latinh. Cả hai từ đều có nghĩa là "loại" hoặc "sắp xếp". Chúng bắt nguồn từ một gen gốc đã được biết đến rộng rãi của tiếng Ấn Âu nguyên thủy, Proto-Indo-châu Âu (PIE) gen-,[10][11] cũng là nguồn gốc của từ họ hàng, loại, vua, và nhiều từ tiếng Anh khác.[12] Nó xuất hiện trong tiếng Pháp hiện đại trong từ genre (loại, cũng như genre sexuel) và có liên quan đến từ gốc Hy Lạp gen- (sản xuất), xuất hiện trong gen, genesisoxygen. Từ điển Từ nguyên học tiếng Anh của Oxford năm 1882 đã định nghĩa giới (gender) là loại, giống, giới tính, bắt nguồn từ cách viết tắt tiếng Latinh của chi (genus), như genere natus, dùng để chỉ sự sinh đẻ.[13] Ấn bản đầu tiên của Từ điển tiếng Anh Oxford (OED1, Tập 4, 1900) ghi nhận ý nghĩa ban đầu của gender là "loại" đã trở nên lỗi thời.

Lịch sử của khái niệm

[sửa | sửa mã nguồn]

Khái niệm giới, theo nghĩa hiện đại, là một phát minh gần đây trong lịch sử loài người.[14] Thế giới cổ đại không có cơ sở để hiểu về giới như nó đã được hiểu trong khoa học xã hội và nhân văn trong vài thập kỷ qua.[14] Thuật ngữ giới đã gắn liền với ngữ pháp trong hầu hết lịch sử và chỉ bắt đầu hướng tới việc nó trở thành một cấu trúc văn hóa linh hoạt trong những năm 1950 và 1960.[15]

Chuyên gia về tính dục học John Money đã đưa ra sự phân biệt theo thuật ngữ giữa giới tính sinh học và giới tính như một vai trò vào năm 1955. Trước đó, việc sử dụng từ giới (gender) các phạm trù ngữ pháp là không phổ biến.[16][17] Ví dụ, trong một thư mục gồm 12.000 tài liệu tham khảo về hôn nhân và gia đình từ năm 1900–1964, thuật ngữ giới thậm chí không xuất hiện một lần nào.[16] Một phân tích với hơn 30 triệu tiêu đề bài báo học thuật từ năm 1945–2001 cho thấy việc sử dụng thuật ngữ "giới", hiếm hơn nhiều so với việc sử dụng "giới tính", thường được sử dụng như một phạm trù ngữ pháp vào đầu thời kỳ này. Vào cuối thời kỳ này, "giới" được sử dụng nhiều hơn "giới tính" trong khoa học xã hội, nghệ thuật và nhân văn.[17] Vào những năm 1970, các học giả nữ quyền đã sử dụng thuật ngữ giới như một cách để phân biệt các khía cạnh "kiến tạo xã hội" của sự khác biệt giữa nam và nữ (giới) với các khía cạnh "được xác định về mặt sinh học" (giới tính).[17]

Trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ 20, việc sử dụng từ giới giới trong học thuật đã tăng lên rất nhiều, nhiều hơn việc sử dụng giới tính trong khoa học xã hội. Trong khi sự phổ biến của từ này trong các ấn phẩm khoa học có thể là do ảnh hưởng của chủ nghĩa nữ quyền, việc sử dụng nó như một từ đồng nghĩa với giới tính được cho là do không nắm bắt được sự khác biệt trong lý thuyết nữ quyền, và sự phân biệt đôi khi trở nên mờ nhạt với chính lý thuyết; David Haig tuyên bố, "Trong số những lý do mà các nhà khoa học đưa ra cho tôi để chọn giới (gender) hơn là giới tính (sex) trong bối cảnh sinh học là mong muốn báo hiệu sự đồng cảm với các mục tiêu nữ quyền, sử dụng một thuật ngữ học thuật hơn, hoặc để tránh hàm ý của sự giao cấu".[17]

Trong các trường hợp pháp lý cáo buộc phân biệt đối xử, giới tính (sex) thường được ưu tiên làm yếu tố quyết định hơn là giới (gender) vì nó đề cập đến sinh học hơn là các chuẩn mực xã hội mà có thể quy ra cách diễn giải và tranh cãi.[18] Julie Greenberg viết rằng mặc dù giới tính (sex) và giới (gender) là những khái niệm riêng biệt, chúng có mối liên hệ với nhau ở chỗ sự phân biệt giới thường xuất phát từ những định kiến dựa trên những gì được mong đợi ở các thành viên của mỗi giới tính.[19] Trong JEB v. Alabama ex rel. T.B, Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ Antonin Scalia đã viết:

Từ 'giới' (gender) đã có được hàm ý mới và hữu ích của các đặc điểm văn hóa hoặc cơ địa (trái ngược với các đặc điểm thể chất) khác biệt giữa các giới. Có nghĩa là, giới (gender) đối với giới tính (sex) giống như sự nữ tính đối với nữ giới và sự nam tính đối với nam giới.[20]

Là một phạm trù ngữ pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy nhiên, từ này vẫn được sử dụng rộng rãi với ý nghĩa cụ thể về giới ngữ pháp (việc gán danh từ cho các mục như nam tính, nữ tínhvô tính). Theo Aristotle, khái niệm này được đưa ra bởi nhà triết học Hy Lạp Protagoras.[21] Năm 1926, Henry Watson Fowler tuyên bố rằng định nghĩa của từ gắn liền với nghĩa liên quan đến ngữ pháp này:

"Giới (gender)... chỉ là một thuật ngữ ngữ pháp. Để nói về những người... thuộc nam tính hoặc nữ tính g[ender], nghĩa là giới tính nam hoặc nữ, là một sự đùa cợt (tùy theo ngữ cảnh) hoặc sai lầm."[22]

Là một vai trò xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyên gia về tính dục học John Money đã đặt ra thuật ngữ vai trò giới và là người đầu tiên sử dụng nó trong bản in trên một tạp chí chuyên ngành khoa học. Trong một bài báo năm 1955, ông đã định nghĩa nó là "tất cả những điều mà một người nói hoặc làm để tiết lộ về bản thân họ là có tư cách là con trai hay đàn ông, con gái hay phụ nữ".[23]

Nghĩa học thuật hiện đại của từ này, trong bối cảnh vai trò xã hội của nam và nữ, xuất hiện từ năm 1945,[24] và được phổ biến và phát triển bởi phong trào nữ quyền từ những năm 1970 trở đi (xem § Thuyết nữ quyền và nghiên cứu về giới), giả thuyết rằng bản chất con người về cơ bản là epicene (trung tính) và sự khác biệt xã hội dựa trên giới tính được xây dựng một cách tùy tiện. Trong bối cảnh này, các vấn đề liên quan đến quá trình lý thuyết về kiến tạo xã hội này được dán nhãn là các vấn đề về giới.

Việc sử dụng phổ biến từ giới (gender) chỉ đơn giản là một sự thay thế cho giới tính (sex) (như một phạm trù sinh học) cũng phổ biến, mặc dù vẫn có những nỗ lực để giữ sự khác biệt. Từ điển Di sản Hoa Kỳ (2000) sử dụng hai câu sau để minh họa sự khác biệt, lưu ý rằng sự khác biệt "về nguyên tắc là hữu ích, nhưng nó không có nghĩa là được tuân theo và sự khác biệt đáng kể trong cách sử dụng xảy ra ở mọi cấp độ".[25]

Hiệu quả của thuốc dường như phụ thuộc vào giới tính (không phải giới) của bệnh nhân.
Trong tầng lớp nông dân, vai trò giới (gender) (không phải giới tính) có thể được xác định rõ ràng hơn.

Bản dạng giới và vai trò giới

[sửa | sửa mã nguồn]
Giới được miêu tả như một hiện tượng gây mơ hồ, bởi một diễn viên trẻ người Thụy Điển.

Bản dạng giới là nhận dạng cá nhân của một người đối với một giới nhất định và vai trò giới trong xã hội. Trong lịch sử cụm từ phụ nữ (woman) có thể được dùng để chỉ cơ thể phụ nữ, mặc dù gần đây cách sử dụng này được xem là khá tranh cãi bởi các nhà nữ quyền.[26]

Các nhà nữ quyền thách thức hệ tư tưởng thống trị này liên quan đến vai trò giới và giới tính sinh học mặc dù có những phân tích định tính cái mà khám phá và trình bày các thể hiện giới. Giới tính sinh học của một người liên kết trực tiếp với các vai trò xã hội và sự mong đợi nhất định. Judith Butler cân nhắc là một người phụ nữ gặp nhiều khó khăn hơn, không chỉ do xã hội coi phụ nữ là một phạm trù xã hội mà còn là cảm nhận về bản thân, một bản dạng chủ quan được điều chỉnh hoặc xây dựng về mặt văn hóa.[27] Bản dạng xã hội đề cập đến sự gắn kết với một tập thể hoặc một phạm trù xã hội tạo ra một nền văn hóa chung giữa những người tham gia.[28] Theo lý thuyết bản dạng xã hội,[29] một thành phần quan trọng của định nghĩa bản thân có nguồn gốc từ tư cách thành viên trong các nhóm và phạm trù xã hội; diều này được thể hiện bằng các quy trình nhóm và mối quan hệ giữa các nhóm tác động đáng kể đến nhận thức và hành vi của cá nhân như thế nào. Các nhóm mà mọi người thuộc về định nghĩa các thành viên họ là ai và họ nên cư xử như thế nào trong phạm vi xã hội của họ.[30]

Một người biểu tình cầm một tờ giấy với dòng chữ "Giới giống như là bộ áo liền quần của anh/chị họ tôi. Nó được trao cho tôi và không vừa với tôi" ở một cuộc biểu tình cho quyền bình đẳng của người chuyển giới ở Washington D.C. vào 2013

Việc phân loại nam và nữ vào các vai trò xã hội tạo ra một vấn đề, bởi vì các cá nhân cảm thấy họ phải ở một đầu của phổ tuyến tính và phải xác định mình là nam hay nữ, thay vì được phép chọn một phần ở giữa.[31] Trên toàn cầu, các cộng đồng giải thích sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và nữ giới để tạo ra những kỳ vọng xã hội cái mà xác định hành vi "phù hợp" cho nam giới và nữ giới và xác định khả năng tiếp cận khác nhau của nữ giới và nam giới đối với quyền, nguồn lực, quyền lực trong xã hội và các hành vi về sức khỏe.[32] Mặc dù bản chất cụ thể và mức độ của những khác biệt này khác nhau giữa các cộng đồng, chúng vẫn nghiêng về thiên vị nam giới, tạo nên sự mất cân bằng về quyền lực và bất bình đẳng giới trong các xã hội.[33] Nhiều nền văn hóa có những hệ thống chuẩn mực khác nhau và tín ngưỡng dựa vào giới, nhưng không hề có một tiêu chuẩn chung nào đối với vai trò nam tính hay nữ tính trong các nền văn hóa.[34] Vai trò xã hội của nam và nữ dựa trên các chuẩn mực văn hóa của xã hội đó, dẫn đến việc hình thành các hệ thống giới. Hệ thống giới là cơ sở của các khuôn mẫu xã hội trong nhiều cộng đồng, cái mà bao gồm sự phân biệt giới tính và tính ưu việt của các chuẩn mực nam tính.[33]

Triết học gia Michel Foucault nói rằng với tư cách là chủ thể tình dục, con người là đối tượng của quyền lực, cái mà không phải là một định chế hay cấu trúc, đúng hơn nó là một ký hiệu hoặc tên gọi được gán cho "tình huống chiến lược phức tạp".[35] Do đó, "quyền lực" là thứ quyết định phẩm chất, hành vi, etc. của một con người, và con người là một phần của tập hợp cấu trúc về bản thể và tri thức của tên và nhãn dán. Ví dụ, có những đặc điểm được cho là nữ giới, và là một người phụ nữ cho thấy người đó yếu đuối, dễ xúc động, thiếu lý trí, không có khả năng thực hiện những hành động thường được quy cho "đàn ông". Butler nói rằng giới và giới tính giống động từ hơn là danh từ. Cô ấy lý luận rằng hành động của cô ấy bị hạn chế ví cô ấy là phụ nữ. "Tôi không được phép xây dựng giới và giới tính của mình một cách tự nguyện," cô nói.[27] "[Điều này] là như vậy bởi vì giới tính bị kiểm soát về mặt chính trị và do đó bị kiểm soát về mặt xã hội. Thay vì 'phụ nữ' là một cái gì đó, nó là một cái gì đó mà một người làm".[27] Những lời phê bình gần đây hơn đối với lý thuyết của Judith Butler chỉ trích bài viết của cô ấy vì củng cố sự phân đôi giới đã có.[36]

Sự phân chia xã hội và sự linh hoạt giới

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo nhà nghiên cứu về giới Kate Bornstein, giới có nhiều nghĩa và linh hoạt.[37] Có 2 ý tưởng trái ngược nhau về định nghĩa của giới, và sự giao nhau của cả hai có thể được định nghĩa như sau:

Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa giới là kết quả của những ý tưởng được xây dựng trong xã hội về hành vi, hành động và vai trò của một giới tính cụ thể.[4] Những tín ngưỡng, giá trị và thái độ được họ tiếp nhận và thể hiện là theo chuẩn mực có sẵn của xã hội và ý kiến cá nhân của người đó không được coi là trọng tâm hàng đầu của việc xác định giới và áp đặt vai trò giới theo giới được chỉ định.[4] Sự giao nhau và vượt qua rào cản sẵn có không có vai trò trong khu vực kiến tạo xã hội của cụm từ "giới".

Việc xác định giới bao gồm việc cân nhắc các thuộc tính sinh lý và sinh học do tự nhiên ấn định, sau đó là việc áp đặt các hành vi được kiến tạo xã hội. Giới là thuật ngữ được dùng để làm ví dụ cho các đặc điểm mà một nền văn hóa hay xã hội tạo thành "nam tính" hay "nữ tính". Mặc dù giới tính của một người là nam hay nữ là một thực tế sinh học giống nhau trong bất kỳ nền văn hóa nào, nhưng giới tính cụ thể đó có nghĩa là gì khi liên quan đến vai trò giới của một người với tư cách là nam hay nữ trong xã hội khác nhau về văn hóa dựa những thứ được coi là nam tính hay nữ tính.[38] Những vai trò này có được từ nhiều nguồn liên quan đến nhau như là ảnh hưởng của bố mẹ, môi trường giáo dục của trẻ, và truyền thông đại chúng. Học hỏi về vai trò giới bắt đầu từ khi sinh ra và bao gồm những thứ đơn giản như em bé được cho mặc màu gì hoặc được cho chơi đồ chơi gì. Tuy nhiên, giới của một người không lúc nào cũng phù hợp với điều được chỉ định lúc ra đời. Những yếu tố khác ngoài những hành vi học được đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển giới.[39]

Sự phân loại xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]
Mary Frith ("Moll Cutpurse") ("Moll Cutpurse") đã gây náo loạn xã hội ở thế kỷ thứ 17 khi mặc quần áo nam, hút thuốc nơi công cộng và thách thức vai trò giới.

Chuyên gia về tính dục học John Money đã tao ra thuật ngữ vai trò giới vào năm 1955. Thuật ngữ vai trò giới được định nghĩa là những hành động hay phản ứng cái mà có thể tiết lộ người ta là nam hay nữ.[40] Những yếu tố bao quanh vai trò giới bao gồm quần áo, cách giao tiếp, nghề nghiệp, và những yếu tố khác không bị giới hạn bởi giới tính sinh học. Ngược lại với các cách tiếp cận phân loại, một số nhà triết học nữ quyền đã lập luận rằng giới "là một tổ hợp rộng lớn của các phổ khúc tinh tế giữa bản thân và người khác", chứ không phải là "nguyên nhân riêng tư đằng sau các hành vi hiển nhiên".[41]

Giới phi nhị nguyên và giới thứ ba

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong lịch sử, phần lớn các cộng đồng chỉ công nhận hai loại vai trò giới khác nhau, rộng rãi, hệ nhị phân giữa sự nam tính và sự nữ tính, phần lớn tương ứng với giới tính sinh học của nam và nữ.[5][42][43] Khi một đứa trẻ được sinh ra, xã hội phân chúng theo một giới này hay giới còn lại, tùy vào bộ phận sinh dục của đứa trẻ.[38]

Tuy nhiên, một vài cộng đồng trong lịch sử đã công nhận và thậm chí tôn vinh những người hoàn thành vai trò giới cái mà tồn tại nhiều hơn ở giữa sự liên tục giữa hai cực nữ tính và nam tính. Ví dụ, cộng đồng người Hawaii māhū, người chiếm "một vị trí ở giữa" giữa nam và nữ,[44][45] hay là người Ojibwe ikwekaazo, "nam giới chọn sống như phụ nữ",[46] hoặc ininiikaazo, "nữ giới chọn sống như đàn ông".[46] Theo ngôn ngữ của xã hội học về giới, một số người trong số này có thể được coi là thuộc giới tính thứ ba, đặc biệt là theo những nhà nghiên cứu về giới hoặc nhân chủng học. Những người Mỹ bản địaCanada bản địa đương đại người mà hoàn thành những vai trò truyền thống này trong cộng đồng của họ cũng có thể tham gia vào cộng đồn, hai tâm hồn,[47] tuy nhiên, những thuật ngữ chung, thuật ngữ mới và cách nhìn nhận về giới không nhất thiết phải là loại kiến tạo văn hóa mà các thành viên truyền thống hơn của các cộng đồng này đồng ý với.[48]

Cộng đồng người hijrasẤn ĐộPakistan thường được xem là thuộc giới thứ ba.[49][50] Một ví dụ khác là người muxe (phát âm là [ˈmuʃe]), ở bang Oaxaca, miền nam Mexico.[51] Người BugisSulawesi, Indonesiatruyền thống kết hợp tất cả các đặc điểm trên.[52]

Ngoài các giới thứ ba được truyền thống công nhận này, nhiều nền văn hóa hiện nay công nhận các bản dạng giới phi nhị nguyên theo mức độ khác nhau. Người phi nhị nguyên giới (hay đa dạng giới) có bản dạng giới không bao gồm riêng sự nam tính hay nữ tính. Họ có thể xác định là có sự trùng lặp về bản dạng giới, có hai giới hoặc nhiều hơn, vô giới, có bản dạng giới thay đổi hoặc thuộc giới thứ ba hoặc giới khác. Việc thừa nhận giới phi nhị nguyên vẫn còn khá mới mẻ đối với truyền thông đại chúng phương Tây,[53] và những người thuộc phi nhị nguyên giới có thể đối mặt với nguy cơ bị tấn công, quấy rối và phân biệt đối xử.[54]

Joan Roughgarden lập luận rằng một số loài động vật không có lý trí cũng có nhiều hơn hai giới, ở chỗ có thể có nhiều khuôn mẫu cho hành vi cho từng sinh vật với giới tính sinh học nhất định.[55]

Sự đo lường bản dạng giới

[sửa | sửa mã nguồn]

Nghiên cứu bản dạng giới ban đầu đã đưa ra giả thuyết về một chiều lưỡng cực duy nhất của sự nam tính-nữ tính, với sự nam tính và nữ tính đối lập trên một miền liên tục. Các giả định về mô hình đơn chiều bị thách thức khi các khuôn mẫu thay đổi, dẫn đến sự phát triển của mô hình bản dạng giới hai chiều. Trong mô hình, sự nam tính và nữ tính được khái niệm thành hai chiều riêng biệt và trực giao, cùng tồn tại ở những mức độ khác nhau trong một cá thể. Khái niệm về sự nữ tính và nam tính này vẫn là tiêu chuẩn được chấp nhận ngày nay.[56]

Hai công cụ kết hợp bản chất đa chiều của sự nam tính và nữ tính đứng đầu nghiên cứu bản dạng giới: The Bem Sex Role Inventory (BSRI) và the Personal Attributes Questionnaire (PAQ). Cả hai công cụ đều phân loại các cá nhân hoặc là theo giới tính (nam giới nhận dạng chủ yếu với các đặc điểm nam tính, nữ giới nhận dạng chủ yếu với các đặc điểm nữ tính), hoặc theo giới tính chéo (nam giới nhận dạng chủ yếu với các đặc điểm nữ tính, nữ giới nhận dạng chủ yếu bằng các đặc điểm nam tính), hoặc lưỡng tính (nam giới hoặc nữ giới nhận dạng mình có cả đặc điểm nữ tính và nam tính) hay không phân biệt (nam giới hoặc nữ giới nhận dạng mình ít có cả đặc điểm nữ tính và nam tính).[56] Twenge (1997) lưu ý rằng nam giới nói chung có sự nam tính hơn phụ nữ và nữ giới  nói chung nữ tính hơn nam giới, nhưng mối liên hệ giữa giới tính sinh học và sự nam tính/ nữ tính đang suy yếu dần.[57]

Thuyết nữ quyền và các nghiên cứu về giới

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà sinh vật học và nữ quyền học Anne Fausto-Sterling bác bỏ bài tranh luận giữa thuyết sinh học quyết định và thuyết xã hội quyết định, đồng thời ủng hộ việc phân tích sâu hơn về cách mà sự tương tác giữa bản thể sinh học và môi trường xã hội ảnh hưởng đến năng lực của cá nhân.[58] Nhà triết học và nữ quyền Simone de Beauvoir đã áp dụng thuyết hiện sinh vào kinh nghiệm sống của phụ nữ: "Con người ta không sinh ra đã là phụ nữ, con người ta trở thành phụ nữ".[59] Theo ngữ cảnh, đây là một phát biểu triết học. Tuy nhiên, nó có thể được phân tích theo khía cạnh sinh học - một cô gái phải vượt qua tuổi dậy thì để trở thành phụ nữ - và xã hội học, vì rất nhiều mối quan hệ mang tính trưởng thành giữa bối cảnh xã hội là có được từ việc học hỏi hơn là từ bản năng.[60]

Trong bản thân thuyết nữ quyền, thuật ngữ về các vấn đề giới đã được phát triển trong những năm 1970. Trong ấn bản năm 1974 của Tính nam/Tính nữ hoặc Con người, tác giả sử dụng thuật ngữ "giới bẩm sinh" và "các vai trò giới tính đã học được",[61] nhưng trong ấn bản năm 1978, nghĩa sử dụng của từ giới tínhgiới đã được đảo ngược.[62] Đến năm 1980, hầu hết các bài viết về nữ quyền đã đồng ý về việc chỉ sử dụng từ giới cho các đặc điểm học được từ việc thích nghi với văn hóa xã hội.

Trong các nghiên cứu về giới, thuật ngữ giới dùng để chỉ các cấu trúc xã hội và văn hóa được đề xuất về tính nam và tính nữ. Trong ngữ cảnh này, thuật ngữ giới đặc biệt bỏ qua việc đề cập đến sự khác biệt sinh học, và tập trung vào sự khác biệt trong văn hóa.[63] Điều này xuất hiện từ một số lượng nhất định các lĩnh vực khác nhau: trong xã hội học trong những năm 1950; từ các lý thuyết của nhà phân tâm học Jacques Lacan; và trong tác phẩm của các nhà phân tích tâm lý người Pháp như Julia Kristeva, Luce Irigaray, và các nhà nữ quyền Mỹ như Judith Butler. Những người theo sau Butler coi vai trò giới là một sự áp dụng vào thực tiễn, đôi khi là "mang tính hình thức".[64]

Charles E. Hurst từng phát biểu rằng một số người nghĩ rằng tình dục sẽ "...tự động xác định thái độ và vai trò giới tính (xã hội) cũng như xu hướng tình dục của một người (sự hấp dẫn tính dục và hành vi tính dục)".[65] Các nhà xã hội học về giới tin rằng con người có nguồn gốc văn hóa và thói quen trong việc ứng xử với giới tính.Ví dụ, Michael Schwalbe tin rằng con người phải được giáo dục về cách ứng xử sao cho phù hợp với giới tính được chỉ định của họ để hoàn thành vai trò giới đúng cách, và rằng cách mọi người cư xử nam tính hoặc nữ tính là kết quả từ việc tương tác với các kỳ vọng xã hội. Schwalbe nhận xét rằng con người "là kết quả của việc nhiều người chấp nhận và hành động theo những ý tưởng tương tự nhau".[66] Mọi người thực hiện điều này thông qua mọi thứ, từ quần áo kiểu tóc, đến lựa chọn mối quan hệ và việc làm. Schwalbe tin rằng những sự khác biệt này rất quan trọng, bởi vì xã hội muốn xác định và phân loại người khác ngay tại thời điểm ta nhìn thấy họ. Họ cần xếp mọi người vào các nhóm riêng biệt để biết nên cảm thấy như thế nào về đối phương.

Hurst nhận xét rằng trong một xã hội mà chúng ta thể hiện giới tính của mình quá khác biệt, thường có thể sẽ có những hậu quả nghiêm trọng nếu vi phạm các chuẩn mực văn hóa này. Nhiều hậu quả trong số này bắt nguồn từ sự phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục. Những người đồng tính nam và đồng tính nữ thường bị phân biệt đối xử trong hệ thống pháp luật của chúng ta vì những định kiến ​​xã hội.[67][68][69] Hurst mô tả cách mà sự phân biệt đối xử này chống lại những người vi phạm các chuẩn mực giới tính, bất kể xu hướng tính dục của họ là gì. Ông nói rằng "các tòa án thường nhầm lẫn giữa giới tính, giới, và xu hướng tính dục, và những sự nhầm lẫn này thường theo cách dẫn đến việc phủ nhận quyền lợi, không chỉ của đồng tính nam và đồng tính nữ, mà còn của những người không thể hiện bản thân hoặc hành động theo cách mà giới tính của họ được kỳ vọng sẽ cư xử theo truyền thống".[65] Định kiến ​​này xuất hiện nổi bật trong hệ thống pháp luật của chúng ta khi một người bị đánh giá khác biệt chỉ vì họ không thể hiện mình theo giới tính "đúng".

Andrea Dworkin tuyên bố bà "cam kết phá hủy sự thống trị của nam giới và bản thân giới" trong khi khẳng định niềm tin của bà vào chủ nghĩa nữ quyền cấp tiến.[70]

Nhà khoa học chính trị Mary Hawkesworth đề cập đến thuyết về giới và nữ quyền, chủ trương rằng từ những năm 1970, khái niệm về giới đã biến đổi và được sử dụng theo những cách khác nhau đáng kể trong giới học thuật nữ quyền. Bà lưu ý rằng một sự chuyển đổi xảy ra khi một số học giả nữ quyền, chẳng hạn như Sandra HardingJoan Scott, bắt đầu quan niệm về giới "như một phạm trù phân tích mà trong đó con người nghĩ về và tổ chức các hoạt động xã hội của họ". Các học giả nữ quyền trong Khoa học Chính trị bắt đầu sử dụng giới như một phạm trù phân tích, trong đó nhấn mạnh "các mối quan hệ chính trị và xã hội bị các bản kê chính thống bỏ qua". Tuy vậy, Hawkesworth cũng nói rằng "khoa học chính trị nữ quyền đã không trở thành một mô hình thống trị trong ngành".[71]

Nhà khoa học chính trị người Mỹ Karen Beckwith đề cập đến khái niệm "giới" trong khoa học chính trị, lập luận rằng có tồn tại một "ngôn ngữ chung của giới" và nó phải được trình bày rõ ràng để mở rộng xây dựng dựa trên nó trong giới hạn lĩnh vực khoa học chính trị. Beckwith mô tả hai cách mà một nhà khoa học chính trị có thể sử dụng khái niệm 'giới' khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm: "’giới’ mang nghĩa như một phạm trù và như một quá trình". Việc sử dụng ‘giới’ làm một phạm trù cho phép các nhà khoa học chính trị "xác định bối cảnh cụ thể nơi các hành vi, hành động, thái độ và sở thích được coi là nam tính hoặc nữ tính dẫn đến (kết quả chính trị) cụ thể". Nó cũng có thể cho thấy sự khác biệt về giới, không nhất thiết phải tương ứng chính xác với giới tính, và có thể "hạn chế hoặc tạo điều kiện cho các (tác nhân) chính trị". ‘Giới’ với nghĩa một quá trình có hai biểu hiện cốt lõi trong nghiên cứu khoa học chính trị, thứ nhất là xác định "các tác động khác biệt của cấu trúc và chính sách đối với nam giới và phụ nữ", và thứ hai, cách mà các tác nhân chính trị mang tính nam và tính nữ "tích cực làm việc để tạo ra các kết quả thuận lợi về giới".[72]

Liên quan đến các nghiên cứu về giới, Jacquetta Newman nói rằng mặc dù giới tính được xác định về mặt sinh học, cách mọi người thể hiện giới thì không. Định hình giới là một quá trình xã hội được xây dựng dựa trên nền tảng văn hóa, mặc dù thông thường những kỳ vọng về văn hóa xung quanh phụ nữ và nam giới có mối quan hệ trực tiếp với đặc điểm sinh học của họ. Vì điều này, Newman lập luận, nhiều đặc quyền về tình dục là nguyên nhân gây ra áp bức, và bỏ qua các vấn đề khác như chủng tộc, khả năng, sự nghèo đói, v.v. Các lớp nghiên cứu giới hiện nay tìm cách tránh xa điều đó và xem xét tính xen kẽ của những yếu tố này trong việc xác định cuộc sống của con người. Bà cũng chỉ ra rằng các nền văn hóa không phải phương Tây khác không nhất thiết phải có cùng quan điểm về giới và vai trò của giới.[73] Newman cũng tranh luận về ý nghĩa của sự bình đẳng, vốn thường được coi là mục tiêu của nữ quyền; bà tin rằng bình đẳng là một thuật ngữ có vấn đề vì nó có thể mang vô số các nghĩa khác nhau, chẳng hạn như mọi người được đối xử riêng biệt, khác biệt, hay công bằng dựa trên giới tính của họ. Newman tin rằng điều này là có vấn đề vì không có định nghĩa thống nhất về ý nghĩa hoặc hình thức bình đẳng, và điều này có thể có ý nghĩa đáng kể trong các lĩnh vực như chính sách công.[74]

Cấu trúc xã hội đối với các giả thuyết về giới

[sửa | sửa mã nguồn]
"Rosie the Riveter" là một hình ảnh mang tính biểu tượng của vùng hậu phươngMỹ trong Thế chiến thứ hai và biểu trưng cho sự rời xa các giới hạn, "tính nữ", vai trò giới dưới sự ảnh hưởng của các nhu cầu thời chiến.

Các nhà xã hội học nói chung coi giới là một cấu trúc xã hội, và rất nhiều các nhà nghiên cứu khác nhau, bao gồm nhiều nhà nữ quyền, coi giới tính chỉ là một vấn đề sinh học và một thứ gì đó không có liên hệ với vấn đề xây dựng xã hội hay văn hóa. Ví dụ, nhà tính dục học John Money gợi ý sự phân hóa giữa giới tính sinh học và giới như một vai trò.[40] Hơn nữa, Ann Oakley, một giáo sư xã hội học và chính sách xã hội, nói rằng "sự ổn định của giới tính phải được thừa nhận, nhưng điều này cũng tương tự với sự đa dạng của giới".[75] Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố, "''[G]iới tính' - ám chỉ những đặc điểm sinh học và sinh lý xác định giới tính nam và nữ," và "'giới' - chỉ các vai trò, hành vi, hoạt động và thuộc tính được xây dựng về mặt xã hội mà một xã hội nhất định cho là phù hợp với nam giới và phụ nữ".[76] Do đó, giới tính được coi là một phạm trù nghiên cứu trong sinh học (khoa học tự nhiên), trong khi giới được nghiên cứu trong khoa học xã hộinhân văn. Lynda Birke, một nhà sinh học nữ quyền, cho rằng "'sinh học' không được coi là thứ có thể thay đổi".[77] Do đó, người ta nói rằng giới tính là thứ không thay đổi, trong khi giới có thể thay đổi theo tùy cấu trúc xã hội.

Tuy nhiên, có học giả cho rằng giới tính cũng được xây dựng theo hướng xã hội. Một ví dụ cho điều này là phát ngôn của nhà lý thuyết giới tính Judith Butler, rằng "có lẽ cấu trúc được gọi là 'giới tính' này được dù xây dựng về mặt văn hóa như giới tính; thực sự, có lẽ nó đã luôn luôn là giới tính, với hậu quả là sự phân hóa giữa giới tính và giới hóa ra lại vốn là không có sự phân hóa nào cả".[78]

Bà tiếp tục:

Do đó, sẽ không rất vô nghĩa nếu định nghĩa giới là cách diễn giải văn hóa của giới tính, nếu bản thân giới tính là một phạm trù lấy giới làm trung tâm. Giới không nên được quan niệm đơn thuần là sự khắc ghi ý nghĩa của văn hóa dựa trên một giới tính nhất định (một quan niệm pháp lý); giới phải đồng thời giúp chỉ định đúng cấu trúc sinh sản mà theo đó giới tính được thiết lập. [...] Việc sản sinh ra định nghĩa giới tính như một tác nhân tiền tranh luận nên được hiểu là do ảnh hưởng của bộ máy xây dựng văn hóa được chỉ định bởi giới tính.[79]

Butler lập luận rằng "cơ thể chỉ xuất hiện, chỉ chịu đựng, chỉ sống trong những ràng buộc về sinh sản của một số ý đồ pháp lý có tính giới cao",[80] và giới tính "không còn là một đặc điểm được ban cho cơ thể mà cấu trúc giới tính được áp đặt một cách giả tạo, mà là một chuẩn mực văn hóa chi phối việc vật chất hóa cơ thể con người".[81]

Liên quan đến lịch sử, Linda Nicholson, giáo sư lịch sử và nghiên cứu phụ nữ, lập luận rằng sự hiểu biết về cơ thể con người là lưỡng hình giới tính vốn từng không tồn tại trong lịch sử. Cô nhấn mạnh rằng bộ phận sinh dục nam và nữ vốn được coi là giống nhau trong xã hội phương Tây cho đến thế kỷ 18. Vào thời điểm đó, bộ phận sinh dục nữ được coi là bộ phận sinh dục nam không hoàn chỉnh, và sự khác biệt giữa hai bộ phận này được coi là vấn đề về mức độ. Nói cách khác, có niềm tin vào sự phân cấp của các dạng vật chất, hay một quang phổ.[82] Các học giả như Helen King, Joan Cadden và Michael Stolberg đã chỉ trích cách lý giải lịch sử này.[83][84][85]

Ngoài ra, rút ​​ra từ nghiên cứu thực nghiệm về trẻ em liên giới tính, Anne Fausto-Sterling, giáo sư sinh học và nghiên cứu giới tính, mô tả cách các bác sĩ giải quyết các vấn đề của liên giới tính. Bà bắt đầu lập luận của mình với ví dụ về sự ra đời của một cá thể liên giới tính và duy trì "quan niệm của chúng tôi về bản chất của cách mà sự khác biệt giới về giới định hình, ngay cả khi chúng phản ánh, cách chúng ta cấu trúc hệ thống xã hội và chính thể của mình; chúng cũng đồng thời định hình và phản ánh sự hiểu biết của chúng ta về cơ thể vật lý của mình".[86] Sau đó, bà cũng nói thêm về cách mà các giả định về giới ảnh hưởng đến nghiên cứu khoa học về giới tính bằng cách trình bày nghiên cứu về người liên giới tính của John Money và cộng sự, và bà kết luận rằng "họ không bao giờ nghi vấn về giả định tiên đề rằng chỉ có hai giới tính, bởi mục tiêu của họ khi nghiên cứu những người liên giới tính là để tìm hiểu thêm về sự phát triển 'bình thường'".[87] Bà cũng đề cập tới ngôn ngữ mà các bác sĩ sử dụng khi họ nói chuyện với cha mẹ của những người liên giới tính. Sau khi mô tả cách các bác sĩ thông báo cho các bậc cha mẹ về việc người con là liên giới tính, bà khẳng định rằng do các bác sĩ tin rằng những người liên giới tính thực chất là nam hoặc nữ, họ nói với cha mẹ của những người liên giới tính rằng sẽ mất thêm một chút thời gian để các bác sĩ xác định liệu trẻ sơ sinh là con trai hay con gái. Điều đó có nghĩa là, hành vi của các bác sĩ được hình thành bởi quan điểm văn hóa giới cho rằng chỉ có hai giới tính. Cuối cùng, bà giữ vững quan điểm cho rằng sự khác biệt trong cách mà các chuyên gia y tế ở các khu vực khác nhau đối xử với người liên giới tính cũng cho chúng ta một ví dụ điển hình về cách giới tính được xây dựng về mặt xã hội.[88] Trong bài Giới tính cơ thể: chính trị giới và cấu trúc về giới tính, bà giới thiệu ví dụ sau:

Một nhóm bác sĩ từ Ả-rập Xê-út gần đây đã báo cáo về một số trường hợp trẻ em liên giới tính XX bị tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh (CAH), một rối loạn di truyền của các enzym hỗ trợ tổng hợp hormone vỏ thượng thận. [...] Ở Hoa Kỳ và châu Âu, những đứa trẻ như vậy, vì chúng có tiềm năng sinh con sau này, thường được nuôi dạy như con gái. Các bác sĩ Ả-rập Xê-út được đào tạo theo truyền thống của châu Âu này đã khuyến nghị các hành động như vậy cho các bậc cha mẹ Ả-rập Xê-út của những đứa trẻ CAH XX. Tuy nhiên, một số bậc cha mẹ từ chối chấp nhận khuyến nghị rằng con của họ, ban đầu được xác định là con trai, thay vào đó lại phải được nuôi dưỡng như con gái. Họ cũng không chấp nhận phẫu thuật nữ hóa cho con mình. [...] Về cơ bản, đây là một biểu hiện của thái độ cộng đồng địa phương với [...] sự ưa thích con trai.[89]

Do đó, rõ ràng là văn hóa có thể đóng một vai trò trong việc phân định giới tính, cụ thể là trong vấn đề về trẻ liên giới tính.[88]

Bài báo Bản dạng giới - vai trò giới ở trẻ em và sức khỏe tinh thần: Tái thẩm định sự tăng cường giới tập trung vào công trình của Heather A. Priess, Sara M. Lindberg, và Janet Shibley Hyde về việc trẻ em gái và trẻ em trai có khác nhau về bản dạng giới trong những năm vị thành niên hay không. Công trình của các nhà nghiên cứu dựa trên những ý tưởng đã được Hill và Lynch đề cập trước đây trong giả thuyết tăng cường giới của họ, trong đó các tín hiệu và thông điệp từ cha mẹ xác định và ảnh hưởng đến bản dạng vai trò giới của con cái họ. Giả thuyết này lập luận rằng cha mẹ có ảnh hưởng tới bản dạng vai trò giới của con cái họ và rằng các tương tác khác nhau dành cho một trong hai người cha hoặc mẹ sẽ ảnh hưởng đến việc tăng cường giới tính. Priess và một số nghiên cứu khác không ủng hộ giả thuyết của Hill và Lynch, trong đó nói rằng "khi thanh thiếu niên trải qua những ảnh hưởng này và các ảnh hưởng xã hội khác, chúng sẽ trở nên theo khuôn mẫu hơn trong bản dạng vai trò giới cũng như thái độ và hành vi theo giới".[90] Tuy vây, các nhà nghiên cứu cũng đã tuyên bố rằng có lẽ giả thuyết mà Hill và Lynch đưa ra là đúng trong quá khứ nhưng hiện không còn chính xác do sự thay đổi của dân số lứa tuổi thanh thiếu niên đối với bản dạng giới-vai trò của họ.

Tác giả của "Hé mở hệ thống Giới: Một quan điểm trên lý thuyết về niềm tin giới và các mối quan hệ xã hội" (Unpacking the Gender System: A Theoretical Perspective on Gender Beliefs and Social Relations), Cecilia Ridgeway và Shelley Correll, cho rằng giới không chỉ là bản dạng hay vai trò, mà là thứ được thể chế hóa thông qua "bối cảnh quan hệ xã hội". Ridgeway và Correll định nghĩa "bối cảnh quan hệ xã hội" là "bất kỳ tình huống nào trong đó các cá nhân xác định bản thân trong mối quan hệ với người khác để hành động".[91] Họ cũng chỉ ra rằng ngoài bối cảnh quan hệ xã hội, niềm tin văn hóa cũng đóng một vai trò trong hệ thống giới. Cặp đồng tác giả lập luận rằng mọi người hàng ngày buộc phải thừa nhận và tương tác với người khác theo những cách liên quan đến giới. Mỗi ngày, các cá nhân tương tác với nhau và tuân theo tiêu chuẩn đặt ra của xã hội về niềm tin bá quyền, bao gồm cả vai trò giới. Họ tuyên bố rằng các niềm tin văn hóa bá quyền của xã hội đặt ra các quy tắc, từ đó tạo ra nền móng cho các bối cảnh quan hệ xã hội sẽ diễn ra. Ridgeway và Correll sau đó chuyển chủ đề của họ sang phân loại giới tính. Các tác giả định nghĩa phân loại giới tính là "quá trình nhận thức xã hội mà qua đó chúng ta gắn nhãn người khác là nam hoặc nữ".[91]

Sự thất bại trong nỗ lực nuôi dạy David Reimer như một bé gái từ khi còn nhỏ đến tuổi vị thành niên sau khi bộ phận sinh dục của anh vô tình bị cắt xén được coi như một dẫn chứng phản bác học thuyết cho rằng bản dạng giới được xác định bằng cách nuôi dạy con cái.[92][93] Giữa những năm 1960 và 2000, vô số các bé trai mới sinh và sơ sinh khác đã được phẫu thuật xác định lại giới tính thành nữ nếu chúng sinh ra với dương vật dị dạng hoặc nếu chúng bị mất dương vật do tai nạn. Nhiều bác sĩ phẫu thuật đã tin rằng những người đàn ông như vậy sẽ hạnh phúc hơn khi được xác định lại qua phẫu thuật và về mặt xã hội để trở thành phụ nữ. Bằng chứng hiện có chỉ ra rằng trong những trường hợp như vậy, các bậc cha mẹ thường rất tâm huyết trong việc nuôi dạy những đứa trẻ này thành con gái và theo cách thức đặc trưng về giới tính nhất có thể. Sáu trong số bảy trường hợp cung cấp định hướng trong các nghiên cứu cấp tiến dành cho người lớn được xác định là nam giới dị tính luyến ái, với một người giữ bản dạng nữ nhưng bị thu hút bởi phụ nữ. Những trường hợp như vậy không ủng hộ học thuyết cho rằng việc nuôi dạy con cái ảnh hưởng đến bản dạng giới hoặc khuynh hướng tình dục của nam giới bẩm sinh.[94] :72-73 Trường hợp của Reimer được các tổ chức như Intersex Society (Cộng đồng người liên giới tính) của Bắc Mỹ sử dụng để cảnh báo chống lại việc sửa đổi một cách không cần thiết đối với bộ phận sinh dục của trẻ vị thành niên bất tuân.[95]

Năm 2015, Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ phát hành loạt hội thảo qua mạng về giới, bản dạng giới, biểu hiện giới, chuyển giới, v.v.[96][97] Trong bài giảng đầu tiên, Tiến sĩ Sherer giải thích rằng ảnh hưởng của cha mẹ (thông qua hình phạt và khen thưởng hành vi) có thể ảnh hưởng đến sự thể hiện giới tính nhưng không ảnh hưởng đến bản dạng giới.[98] Bà trích dẫn một bài báo của Smithsonian với một bức ảnh của Tổng thống Franklin D. Roosevelt 3 tuổi với mái tóc dài và mặc một chiếc váy.[99][100] Trẻ em từ 6 tuổi mặc quần áo trung tính về giới, bao gồm váy trắng, cho đến những năm 1940.[99] Năm 1927, tạp chí Time đã in một biểu đồ hiển thị màu sắc phù hợp với giới tính, bao gồm màu hồng cho trẻ em trai và màu xanh cho trẻ em gái.[99] Tiến sĩ Sherer lập luận rằng trẻ em sẽ thay đổi biểu hiện giới của mình để tìm kiếm phần thưởng từ cha mẹ và xã hội nhưng điều này sẽ không ảnh hưởng đến bản dạng giới của chúng (ý thức bên trong về bản thân của chúng).[101]

Các yếu tố và quan điểm sinh học

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số hành vi theo giới chịu ảnh hưởng từ việc tiếp xúc với androgen trước khi sinh và đầu đời. Điều này bao gồm, ví dụ, biểu đạt theo quy tắc giới tính, gán nhãn bản thân với một giới, và xu hướng thực hiện hành vi hung hăng.[102] Con đực của hầu hết các loài động vật có vú, bao gồm cả con người, biểu hiện hành vi biểu đạt thô bạo và lộn xộn hơn, điều này bị ảnh hưởng bởi mức testosterone của từ cá thể mẹ. Những mức độ này cũng có thể ảnh hưởng đến tính dục, với những người phi dị tính thể hiện hành vi tính dục không điển hình trong thời thơ ấu.[103] Sinh học trong giới đã trở thành chủ đề của một số nghiên cứu ngày càng mở rộng trong suốt cuối thế kỷ 20. Một trong những lĩnh vực được quan tâm sớm nhất là thứ sau này được biết đến với cái tên "rối loạn nhận dạng giới" (GID) và hiện nay còn được gọi là chứng phiền muộn giới. Các nghiên cứu về lĩnh vực này và các lĩnh vực liên quan đã cung cấp thông tin cho tóm tắt sau đây về chủ đề này của John Money. Ông nêu ra quan điểm:

Thuật ngữ "vai trò giới" xuất hiện trên báo in lần đầu tiên vào năm 1955. Thuật ngữ bản dạng giới được sử dụng trong một thông cáo báo chí, ngày 21 tháng 11 năm 1966, để thông báo về phòng khám mới cho người chuyển giới muốn trị liệu định giới tại Bệnh viện Johns Hopkins. Thuật ngữ này được phổ biến qua các phương tiện truyền thông trên toàn thế giới, và nhanh chóng được đưa vào các thứ tiếng khác nhau. Các định nghĩa về giới và bản dạng giới khác nhau trên cơ sở học thuyết. Trong cách sử dụng phổ biến và thiếu khoa học, giới tính là bản chất sinh học của bạn; giới là những gì bạn trở thành về mặt xã hội; bản dạng giới là ý thức hoặc niềm tin của chính bạn về việc mang tính nam hay tính nữ; và vai trò giới là khuôn mẫu văn hóa về những gì là nam tính và nữ tính. Quan hệ nhân quả liên quan đến rối loạn nhận dạng giới được chia nhỏ thành các yếu tố quyết định về di truyền, nội tiết tố trước khi sinh, xã hội sau khi sinh và sau dậy thì, nhưng vẫn chưa có lý thuyết nào toàn diện và chi tiết về quan hệ nhân quả. Mã hóa giới trong não là lưỡng cực. Trong rối loạn nhận dạng giới, có sự không thống nhất giữa giới tính bẩm sinh của cơ quan sinh dục ngoài và não bộ mã hóa giới của một người là nam hay nữ.[104]

Money đề cập đến nỗ lực phân biệt rõ sự khác biệt giữa giới tính sinh học và giới về mặt xã hội là "sai lệch về mặt khoa học", do chúng ta ngày càng hiểu biết nhiều hơn về một chuỗi các đặc điểm lưỡng hình (từ của Money là "lưỡng cực") liên kết các sự khác biệt về mặt sinh học và trong hành vi. Các đặc điểm này kéo dài từ sự khác biệt sinh học về "di truyền" và "nội tiết tố tiền sản" giữa nam và nữ, đến các đặc điểm "hậu sản", một số trong đó mang tính xã hội, nhưng một số khác đã được chứng minh là do hiệu ứng "nội tiết tố hậu tuổi dậy thì".

Mặc dù mối quan hệ nhân quả từ sinh học - bao gồm cả di truyềnnội tiết tố - đến hành vi đã được chứng minh và chấp nhận rộng rãi, Money cũng cẩn thận lưu ý rằng sự hiểu biết về các chuỗi nhân quả từ sinh học đến hành vi trong giới tính và các vấn đề giới vẫn còn rất nhiều thiếu sót. Một ví dụ cho việc này là việc sự tồn tại của một "gen đồng tính" chưa được chứng minh, nhưng chúng ta hiện vẫn thừa nhận khả năng tồn tại của nó.[105]

Có những nghiên cứu liên quan đến những phụ nữ mắc chứng tăng sản thượng thận bẩm sinh, dẫn đến sản xuất quá mức hormone sinh dục nam, androgen. Những phụ nữ này thường có ngoại hình bình thường như mọi phụ nữ (mặc dù gần như tất cả các bé gái bị tăng sản thượng thận bẩm sinh (Congenital adrenal hyperplasia - CAH) đều được phẫu thuật chỉnh sửa bộ phận sinh dục của họ). Tuy nhiên, mặc dù đã uống thuốc cân bằng hormon được cấp từ khi sinh, những phụ nữ này theo thống kê có xu hướng quan tâm đến các hoạt động theo truyền thống được cho là có liên quan đến nam giới hơn là các hoạt động của phụ nữ. Giáo sư tâm lý, nhà nghiên cứu CAH, Tiến sĩ Sheri Berenbaum cho rằng những khác biệt này là do sự tiếp xúc với nồng độ hormone sinh dục nam cao hơn trong tử cung.[106]

Phép phân loại giới

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự phân loại giới tính minh họa các thể loại đa dạng đã được nghiên cứu và báo cáo trong các tài liệu y khoa. Phân loại này được sắp xếp theo thứ tự thời gian ước tính của sự phát triển sinh học và xã hội trong chu kỳ sống của con người. Các giai đoạn trước mang tính chất sinh học thuần túy hơn, và giai đoạn sau mang tính xã hội cao hơn. Nguyên nhân được biết là có hoạt động từ nhiễm sắc thể đến tuyến sinh dục, và từ tuyến sinh dục đến nội tiết tố. Nó cũng có ý nghĩa quan trọng từ cấu trúc não đến bản dạng giới (tham khảo phần trích dẫn Money ở trên). Cấu trúc não và quá trình xử lý (sinh học) có thể giải thích sở thích gợi dục (xã hội), dẫu vậy, vẫn còn là một lĩnh vực đang được nghiên cứu. Thuật ngữ trong một số lĩnh vực thay đổi khá nhanh khi mà kiến ​​thức ngày càng phát triển.

Lưỡng hình giới tính

[sửa | sửa mã nguồn]
Sự phân biệt về giới tính ở chim công

Thế giới sống được tổ chức theo nguyên tắc thứ bậc chặt chẽ: hạt nhân → nguyên tử → phân tử → bào quan → tế bào → mô → cơ quan →  cơ thể → quần thể → quần xã → hệ sinh thái → sinh quyển.[109] Sinh sản hữu tính, theo định nghĩa, diễn ra tại cấp tổ chức tế bào. Tuy nhiên, các đặc tính tối quan trọng của sinh sản hữu tính lại vận hành ngay trong chính các thành phần cấu thành giao tử, ở các cấp tổ chức thấp hơn - nguyên tử, phân tử, bào quan. Đáng chú ý, các giao tử mang các đoạn nguyên tử rất dài gọi là DNA. Đối với các quy trình sinh học của sinh sản, DNA tương đương như các quyển sách hướng dẫn mà các quy trình này có thể "đọc". Trên thực tế, thông thường, có rất nhiều "các quyển sách" đặc biệt như trên; chúng chính là các nhiễm sắc thể. Giao tử ở người đa phần sẽ có 23 nhiễm sắc thể, 22 trong số đó giống nhau ở cả hai giới. Nhiễm sắc thể cuối cùng trong giao tử của nam giới và nữ giới được gọi là nhiễm sắc thể giới tính - dựa trên vai trò của chúng trong việc xác định giới tính. Trong khi nhiễm sắc thể giới tính trong các trứng (noãn) luôn là nhiễm sắc thể có nhãn X, một nửa tinh trùng ở thể hoạt động cũng mang nhiễm sắc thể X này, nửa còn lại có nhiễm sắc thể Y. Khi quá trình thụ tinh diễn ra, hai giao tử hợp lại với nhau, hình thành nên 1 tế bào với các đặc điểm: thường có 46 nhiễm sắc thể, mang giới tính nam hoặc nữ (phụ thuộc vào tình trùng mang nhiễm sắc thể giới tính X hay Y). Các khả năng, trường hợp khác đã được liệt kê ở mục phía trên.

Các gen chỉ nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X và Y được gọi là gen liên kết giới tính. Ví dụ, các gen hình thành nên các tế bào cảm quang trên võng mạc đối với ánh sáng màu xanh lá và màu đỏ chỉ được tìm thấy trên nhiễm sắc thể X. Alen là 1 (trong 2 hoặc nhiều hơn 2) phiên bản của 1 gen cụ thể; ở mỗi gen, cá nhân sẽ được di truyền 2 alen, 1 từ bố và 1 từ mẹ.Cặp protein PCDH11X và PCDH11Y, tạo thành từ cặp gen tương ứng PCDH11X Tình trạng mù màu đỏ - xanh được xác định bởi alen lặn của gen vừa được đề cập ở trên. Thông thường, tính trạng do alen lặn quy định chỉ biểu hiện khi cá nhân được di truyền hai alen lặn của cùng 1 gen.[110] Tuy nhiên, nam giới chỉ có 1 nhiễm sắc thể X từ người mẹ. Nếu nhiễm sắc thể  X đó mang alen gây nên tình trạng mù màu đỏ - xanh; cá nhân đó sẽ bị mù màu đỏ xanh. Trong khi đó, nữ giới có 2 nhiễm sắc thể X, 1 từ người bố và 1 từ người mẹ; do đó, cả hai nhiễm sắc thể X đều phải mang alen lặn thì cá nhân mới mắc phải tình trạng mù màu xanh - đỏ.[111] Vì vậy, tình trạng mù màu đỏ - xanh là một tính trạng lặn liên kết với X và phổ biến hơn hẳn ở đàn ông. Tuy nhiên, ở trên các nhiễm sắc thể thường, các gen giới hạn theo giới tính được hướng dẫn để biểu hiện ra tính trạng - ví dụ, "Nếu ở trong cơ thể nam giới, gen hãy biểu hiện ra tính trạng X. Nếu không, không biểu hiện".[112]

Hệ thống XY của con người không phải là hệ thống định giới tính duy nhất. Tiêu biểu là lớp Chim với hệ thống định giới tính trái ngược với chúng ta, hệ thống ZW - con trống là ZZ và con mái là ZW.[113] Không phải với loài chim nào cũng có thể xác định được liệu con trống hay con mái sẽ ảnh hưởng đến giới tính của chim non. Ngoài ra, nhiều loài bướm được biết đến về việc con cái quyết định giới tính của con.[114]

Thú mỏ vịt có hệ thống định giới tính kết hợp phức tạp; con đực có 10 nhiễm sắc thể giới tính, một nửa là nhiễm sắc thể X và nửa còn lại là nhiễm sắc thể Y.[115]

Não bộ con người

[sửa | sửa mã nguồn]
Não bộ con người

"Đại não của đàn ông đã được chứng minh là có kích thước lớn hơn của phụ nữ khoảng 8 - 10% (Filipek và cộng sự, 1994; Nopoulos và cộng sự, 2000; Passe và cộng sự, 1997a,b; Rabinowicz và cộng sự, 1999; Witelson và cộng sự, 1995)".[116][117] Tuy nhiên, những khác biệt về thành phần cấu tạo và hệ thống thần kinh của não bộ giữa hai giới mới thật sự đáng lưu tâm. Richard J. Haier và các đồng nghiệp từ 2 trường đại học California (Irvine)New Mexico, thông qua phương pháp Lập Bản Đồ Não Bộ, đã phát hiện đàn ông có nhiều chất xám - thành phần có liên quan đến trí thông minh tổng quát - hơn phụ nữ, và phụ nữ có nhiều chất trắng - thành phần liên quan đến trí thông minh - hơn đàn ông. Ngoài ra, tỉ lệ giữa chất xám và chất trắng của đàn ông cũng cao hơn phụ nữ 4%.[116]

Chất xám có nhiệm vụ xử lý thông tin, trong khi chất trắng gồm các cầu nối liên kết các trung tâm xử lý thông tin lại với nhau. Các khác biệt còn lại giữa não bộ của nam giới và của nữ giới tuy có thể nhận thấy nhưng không đáng kể. Nguyên nhân dẫn đến những sự không tương đồng kể trên phần lớn là từ hoạt động của hormone, đặc biệt là từ nhiễm sắc thể giới tình Y và quá trình phân hóa giới tính. Tuy nhiên, các khác biệt xuất phát trực tiếp từ hoạt động của gen cũng đồng thời được ghi nhận.

Sự lưỡng hình giới tính ở mức độ biểu hiện gen trong não được quan sát bởi hệ thống định lượng theo thời gian thực PCR.Trong đó, quá trình phiên mã nên protein PCDH11X từ gen PCDH11X ở nữ diễn ra vượt mức cần thiết, và lượng dư có thể lên đến gấp 2 lần. Cặp protein PCDH11X và PCDH11Y, tạo thành từ cặp gen tương ứng PCDH11X và PCDH11Y, được cho rằng có vai trò thiết yếu trong việc phát triển các khoang và đốt ở cơ thể động thực vật cũng như ảnh hưởng đến chức năng của hệ thần kinh trung ương.[118] Tuy nhiên, cặp gen PCDH11X và PCDH11Y lại có phản ứng khác biệt khi tiếp xúc với axit retinoic - hợp chất có liên quan đến sự phát triển của phôi thai. Trong khi axit retinoic kích thích sự hoạt động của gen PCDH11Y, hoạt động của gen PCDH11X lại bị hạn chế bởi axit này.[119] Các phát hiện trên được liên hệ với các tính trạng mang tính lưỡng hình giới tính ở não bộ con người. Thú vị thay, cặp gen PCDH11X và PCDH11Y chỉ tồn tại ở người tinh khôn do một phần của gen PCDH11X (nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X, có ở cả hai giới của con người và của tinh tinh - họ hàng gần nhất của con người), đã chuyển vị sắc thể giới tính Y sau khi tinh tinh và con người phân thành hai loài khác nhau từ cùng một loài tổ tiên.

— [120]
Các vùng ngôn ngữ của não:

Não bộ được chứng minh có phản ứng, xử lý nhằm đáp lại môi trường bên ngoài. Học hỏi, cả tri thức lẫn hành vi, đều được mã hoá thông qua các chu trình xử lý của não bộ. Trong các thí nghiệm nghiên cứu đã được đơn giản hoá, quá trình mã hoá ở đàn ông và phụ nữ tuy, có vẻ như, cho kết quả tương đương nhưng cách hai quá trình vận hành lại có sự khác biệt.[121] Ví dụ, cả đàn ông và phụ nữ đều học và sử dụng ngôn ngữ; tuy nhiên, trên phương diện hóa sinh, chúng dường như xử lý nó theo cách khác. Các khác biệt giữa việc sử dụng ngôn ngữ của đàn ông và phụ nữ dường như là phản ảnh của các thiên hướng năng khiếu sinh học, cũng như là các ví dụ, kinh nghiệm đã được học.

Testosterone tác động lên nhiều cơ quan trong cơ thể, bao gồm nhân lưỡng hình giới tính của khu vực trước giao thoa thị giác của não bộ với nhân Onuf trong tủy sống, nhằm hình thành các tính trạng đã được nam tính hoá.[122][123][124]

Các nghiên cứu về giới

[sửa | sửa mã nguồn]

Nghiên cứu về giới là một bộ môn liên ngành, cũng như là một ngành học thuật luôn đặt giới, bản dạng giớiđại diện giới làm trọng tâm phân tích. Lĩnh vực này bao hàm Các nghiên cứu về Phụ nữ (quan tâm đến các vấn đề: phụ nữ, Sự nữ tính, Vai trò giới, Phụ nữ - Chính trị), các nghiên cứu về Đàn ông (quan tâm đến các vấn đề: Đàn ông, Sự nam tính, Vai trò giới, và Đàn ông - Chính trị) và các nghiên cứu về Cộng đồng LGBT.[125] Đôi lúc, nghiên cứu về giới sẽ song hành cùng nghiên cứu về tính dục. Các bộ môn học thuật này sẽ tìm hiểu, nghiên cứu về giới và tính dục trong Văn học và Ngôn ngữ, Lịch sử, Chính trị học, Xã hội học, Nhân học, Điện ảnhTruyền thông, Sự phát triển của nhân loại, Luật pháp và Y học.[126] Nghiên cứu giới cũng phân tích các vấn đề Chủng tộc, Sắc tộc, Khu vực, Quốc tịch và các Khuyết tật.[127][128]

Tâm lý học và xã hội học

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều hành vi phức tạp của con người chịu tác động từ cả các nhân tố bẩm sinh lẫn các yếu tố môi trường, có thể kể đến tất cả các tác nhân liên quan đến gen, biểu hiện gen, các chất hoá học của cơ thể, cũng như chế độ ăn và áp lực từ xã hội. Một mảng lớn nghiên cứu thuộc ngành tâm lý học hành vi thu thập các dẫn chứng trong nỗ lực tìm ra sự tương quan giữa hành vi và tập hợp nhiều nhân tố khác nhau có khả năng là tiền đề của hành vi - di truyền học, quá trình kiểm soát biểu hiện gen, nguồn thực phẩm và vitamin, văn hoá, giới, hormone, sự phát triển thể chất và xã hội, và môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội.[cần dẫn nguồn]

Cách thức tự vận hành của hành vi con người, hay nói cách khác, làm thế nào hành vi của một tập thể hay một cá nhân có thể tác động đến hành vi của một tập thể hay một cá nhân khác, là một trong những đề tài nghiên cứu nòng cốt của xã hội học. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 20, phong trào xã hội nữ quyền đã góp phần mở rộng, phát triển các nghiên cứu và lý thuyết về giới thuộc nhiều lĩnh vực học thuật - nổi bật có các nghiên cứu thuộc ngành xã hội học.[129]

Tình cảnh tuyệt vọng của Tây Ban Nha khi bị Napoléon xâm lược đã giúp cho Agustina de Aragón bước vào hàng ngũ sĩ quan chuyên nghiệp quân đội Tây Ban Nha, chức vụ vốn được quy định nghiêm ngặt chỉ dành cho đàn ông. Bà là trường hợp ngoại lệ duy nhất vào thời đại của mình (và kể cả rất nhiều năm sau đó).

Các lý thuyết gia về xã hội đã tích cực tìm kiếm các bằng chứng nhằm xác định bản chất của giới trong mối tương quan với giới tính sinh học và tính dục.[cần dẫn nguồn] Kết quả đã tiết lộ giới hình thành dưới ảnh hưởng của xã hội và giới tính được sử dụng thay thế cho nhau trong nhiều trường hợp; điều này đồng nghĩa với việc giới tính 'sinh học' cụ thể - đặc tính khả biến - của một cá nhân lại được phân loại nằm trong khái niệm giới - đặc tính bất biến.[cần dẫn nguồn] Quan điểm của làn sóng nữ quyền lần thứ hai về giới vẫn hiện hữu trong các nhóm lý thuyết văn học - năm 2008, Kira Hall and Mary Bucholtz ra mắt góc nhìn mới về vấn đề này. Các lý thuyết của phong trào nữ quyền cho rằng giới được kiến thiết dưới tác động của xã hội, mà trong đó, tồn tại sự nam tính bá quyền - trong mối quan hệ, đàn ông duy trì vị thế thống trị của mình so với phụ nữ. Trong khi đó, phụ nữ buộc phải che giấu các cảm xúc thật sự của bản thân về hành vi tình dục của mình và đối phương. Ngoài sự gia trưởng, phụ nữ còn phải đối mặt với bạo lực tình dục.[130]

Các lý thuyết về xã hội hóa đương đại đã đề ra một ý niệm cho rằng trẻ em khi được sinh ra chỉ có giới tính sinh học, và không có giới - khái niệm liên quan đến xã hội. Trong quá trình trưởng thành của trẻ, "... xã hội cung cấp cho đứa trẻ một loạt các nguyên tắc, khuôn mẫu, hoặc mô hình về các hành vi phù hợp với một giới tính cụ thể hoặc với giới tính còn lại",[131] điều này đã xã hội hoá đứa trẻ, đặt cá nhân đó vào một giới cụ thể mang ảnh hưởng từ xã hội. Trẻ em được thúc đẩy tham gia vào 2 quá trình: thứ nhất, chấp nhận sự xã hội hoá cùng với sự hình thành giới - nhân tố cấu thành các cơ hội của cá nhân về giáo dục, việc làm, gia đình, tính dục, sinh sản, quyền hạn;[132] thứ hai, tạo nên sức ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng văn hoá và tri thức của xã hội.[133] Vì vậy, các cá nhân trưởng thành không thể thực hiện các nhiệm vụ được quy định ở trên sẽ bị xem là lệch lạc và không được xã hội hoá đúng cách.[134]

Một số người tin rằng xã hội được kiến thiết thông qua việc giới được lưỡng phân thành hai nửa đối lập bởi các tổ chức xã hội đã liên tục tạo ra và sao lại các hình tượng văn hoá về giới. Khi một tổ chức bị phân giới nghĩa là khi các cặp phạm trù tồn tại trong tổ chức đó: lợi thế - bất lợi, sự khai thác - sự kiểm soát, hành động - cảm xúc, nội hàm - ngoại diên, bị tác động và liên quan tới sự khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ, giữa nam tính và nữ tính.[135] Joan Acker tin rằng sự phân giới diễn ra, tối thiểu, tại 5 quá trình tương tác xã hội:[136]

  • Quá trình xây dựng các sự phân chia, giống với giới, được tạo nên bởi thị trường lao động, quyền lực, gia đình, nhà nước, thậm chí là các hành vi được cho phép, và vị trí của cá nhân trong không gian vật lý
  • Quá trình xây dựng các biểu tượng và hình tượng, ví dụ như ngôn ngữ, hệ tư tưởng, tác phong ăn mặc, và truyền thông; các biểu tượng, hình tượng này giải thích, biểu diễn, và củng cố, hoặc đôi khi chống lại các sự phân chia trên
  • Tương tác giữa đàn ông và phụ nữ, giữa phụ nữ và phụ nữ, giữa đàn ông và đàn ông mà có tồn tại sự lấn át cũng như sự khuất phục. Các lý thuyết gia về hội thoại, ví dụ, đã nghiên cứu về hiện tượng tái xuất hiện sự bất bình đẳng giới trong các cuộc trò chuyện thông thường thông qua sự chen ngang, lượt đối thoại, và bối cảnh chủ đề từ những người tham gia cuộc đối thoại
  • Thông qua việc tạo ra và duy trì các hình tượng đặc trưng ứng với một giới nào đó, ba quá trình trên đã góp phần hình thành các nhân tố về giới trong bản dạng của một cá nhân
  • Trong các tiến trình hoạch định và hình thành nên cấu trúc xã hội, được mô tả là mang tính nền tảng và vẫn đang tiến triển, có sự hiện hữu của giới.

Nhìn nhận về giới thông qua lăng kính của phép phân tích diễn ngôn Foucault, giới tựa như phương tiện của sự phân chia quyền lực của xã hội. Khác biệt giới chỉ là sản phẩm của xã hội, và được dùng để củng cố sự khác biệt được cho là giữa nam giới và nữ giới cũng như tạo điều kiện cho sự nam tính áp đảo sự nữ thông qua các đặc tính cố hữu của các giới.[137] "Quan niệm cho rằng sự khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ là lớn nhất, hơn cả sự khác biệt giữa những người cùng giới, hơn cả những mối liên hệ khác, ắt phải bắt nguồn từ điều gì đó khác với bản chất tự nhiên… hoàn toàn không phải là biểu hiện của các khác biệt tự nhiên, bản dạng giới độc nhất của cá nhân đặt dấu chấm hết cho các tương đồng tự nhiên".[138]

Chuẩn mực về giới tích cực nhấn mạnh các đặc tính nam tính hay nữ tính đều xuất phát từ giới tính sinh học nền tảng.[139] Các quy tắc và chuẩn mực văn hoá xã hội - luật lệ giúp xã hội vận hành, vừa là sản phẩm của xã hội vừa là nhân tố cấu thành xã hội - cũng quy các tính chất cụ thể trên về giới tính sinh học. Các đặc tính này cung cấp nền tảng cho sự hình thành nên các khác biệt giới nổi trội. Do vậy, giới có thể được cho là kết quả của tiến trình tiếp thu, đạt được các chuẩn mực xã hội của một người. Các cá nhân, vì thế, sẽ hòa nhập vào xã hội thông qua việc thực hành các kỳ vọng của xã hội mà bản thân đã tiếp thu về các phẩm chất "được chấp nhận" đối với giới của mình; các phẩm chất "được kỳ vọng" này được biểu hiện trong các thể chế xã hội như gia đình, quốc gia, hay truyền thông. Ý niệm về giới sẽ dần thâm nhập và trở thành một phần trong ý thức về bản thân hay bản dạng của một cá nhân; điều này thiết lập hiệu quả phân loại xã hội về giới trên một cơ thể với giới tính sinh học.[138]

Quan niệm cho rằng con người được nhìn nhận về mặt giới hơn là về mặt giới tính cũng tương tự với lý thuyết của Judith Butler về Biểu hiện giới. Butler cho rằng giới không phải là biểu hiện của việc một người là ai, mà là biểu hiện của việc người đó làm những gì.[140] Bà cũng bày tỏ quan điểm cá nhân sinh ra là nam giới hay nữ giới không hề quyết định hành vi của người đó; thay vào đó, mọi người học cách cư xử theo sao cho phù hợp và hoà nhập với xã hội.[141] Vì vậy, giới là sự thể hiện, biểu hiện. Nếu giới được bộc lộ ra ngoài trong tác phong lặp đi lặp lại nhiều lần thì nó sẽ dần được sao lại, tái tạo lại, và hoà vào ý thức xã hội. Xã hội học đương đại đề cập đến vai trò giới của nam và nữ thường sử dụng các tính namcác tính nữ, sử dụng số nhiều thay vì số ít, nhằm trân trọng tính đa dạng trong sự nam tính và nữ tính cả trong mỗi nền văn hoá riêng biệt lẫn giữa các nền văn hoá với nhau.

Khái niệm về giới của ngành Xã hội học và khái niệm phổ biến về giới có phần khác biệt do hai bên phân tích các cặp lưỡng cực khác nhau cũng như tập trung vào các yếu tố khác nhau biệt. Ví dụ, cách tiếp cận "giới" (vai trò xã hội: nữ giới và nam giới) của xã hội học tập trung vào khác biệt (kinh tế/quyền lực) ở địa vị xã hội giữa nam CEO (bất kể người đó là dị tính luyến ái hay đồng tính luyến ái) đến các nữ công nhân trong doanh nghiệp của anh ta (bất kể họ thẳng hay đồng tính). Tuy nhiên, phương cách tiếp cận sự tự nhận thức tính dục phổ biến lại (sự tự nhận thức: đồng tính và dị tính) lại tập trung vào sự tự nhận thức bản thân và nhận thức xã hội khác biệt của những người là đồng tính hoặc dị tính, so với các cá nhân dị tính (bất kể có thể xảy ra các khác biệt lớn về địa vị xã hội lẫn nguồn lực kinh tế giữa hai nhóm nam giới và nữ giới trong mỗi ngành nghề). Do vậy, liên quan đến khái niệm và các cách tiệp cận về "giới", tồn tại sự đối đầu giữa xã hội học về đấu tranh nữ quyền mang giá trị lịch sử và xã hội học về đồng tính luyến ái đương đại.[142]

Địa vị pháp lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Giới tính của một người, nam giới hoặc nữ giới, có tầm quan trọng về pháp lý— giới tính được viết trên các tài liệu hành chính nhà nước, và luật pháp cũng có điểm khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ. Các hệ thống hưu trí quy định độ tuổi nghỉ hưu của đàn ông và phụ nữ khác nhau. Hôn nhân thường chỉ hợp pháp đối với các cặp đôi khác giới; tuy nhiên, một số quốc gia và khu vực thuộc quyền tài phán đã ban hành các điều luật về hôn nhân đồng giới.

Câu hỏi, liệu đâu là căn cứ pháp lý giúp ta xác định một người là nam giới hay nữ giới, được đặt ra. Trong đa số các trường hợp, việc xác định giới của một cá nhân tương đối rõ ràng và dễ dàng. Tuy nhiên, đối với những người liên giới tínhchuyển giới. Đối với câu hỏi trên, mỗi một khu vực thuộc quyền tài phán lại có câu trả lời khác. Hầu hết các quốc gia đều cho phép thay đổi tình trạng pháp lý về giới trong trường hợp cá nhân là người liên giới tính - khi kết quả định giới, lúc vừa chào đời, của một người được kiểm tra sâu hơn và được kết luận là không chính xác về mặt sinh học. Tuy nhiên, đây thật ra không phải là sự thay đổi của bản thân tình trạng đó. Đúng hơn là nhìn nhận lại tình trạng giới tính tuy tồn tại nhưng lại không được phát hiện khi cá nhân đó ra đời. Ngày càng nhiều khu vực thuộc quyền tài phán của các quốc gia cũng đã ban hành thủ tục cho phép người chuyển giới thay đổi giới pháp lý của mình.

Khi nhiều dẫn chứng chỉ ra rằng giới tính của cơ quan sinh dục ngoài có thể không phải là nhân tố tiên quyết trong việc xác định giới ở một số trường hợp cụ thể, việc định giới thường không chỉ đơn thuần dựa trên một định nghĩa, mà dựa trên một tập hợp nhiều điều kiện, bao gồm nhiễm sắc thể và tuyến sinh dục. Vì vậy, ví dụ, trong nhiều quyền tư pháp, một người mang nhiễm sắc thể XY nhưng lại có tuyến sinh dục nữ thì cá nhân đó, khi được sinh ra, có thể bị nhận định là nữ giới.

Việc có thể thay đổi giới pháp lí, cụ thể, đối với người chuyển giới đã dẫn đến hiện tượng, trong một số quyền tư pháp, một người lại mang nhiều giới khác nhau tùy vào mục đích của từng bộ luật trong hệ thống pháp luật. Ví dụ, ở Úc, trước khi phán quyết về Re Kevin - Giá trị pháp lý của hôn nhân ở Người chuyển giới muốn trị liệu định giới (tạm dịch từ "Re Kevin - Validity of marriage of Transsexual") diễn ra, việc những người chuyển giới muốn trị liệu định giới mang giới mà họ tự nhận định được nhiều bộ luật công nhận hợp pháp, bao gồm cả luật an sinh xã hội; tuy nhiên, lại không được luật hôn nhân và gia đình công nhận. Vì lẽ đó, trong một khoảng thời gian, dưới luật pháp của Úc, tình trạng một cá nhân lại mang hai giới khác nhau hoàn toàn có thể xảy ra.

Trong hệ thống liên bang, vẫn có thể diễn ra hiện tượng một cá nhân mang giới này dưới luật của bang và lại mang một giới khác dưới luật của liên bang.

Người liên giới tính

[sửa | sửa mã nguồn]

Đối với người liên giới tính, theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc, "không khớp với các khái niệm nhị giới thông thường về cơ thể của nam giớinữ giới"[143] -, các vấn đề có thể phát sinh khi sử dụng các giấy tờ tùy thân mang ký hiệu về giới ("M", "Male", "Nam" hoặc "F", "Female", "Nữ").[144] Đối với những trường hợp liên giới tính khác, có thể tồn tại khó khăn cũng như chướng ngại trong việc đảm bảo các quyền lợi của họ giống với quyền lợi của những cá nhân được định giới là nam hoặc nữ. Ngoài ra, một số người liên giới tính cũng tìm kiếm cho sự công nhận phi nhị giới.[145]

Phi nhị giới và giới thứ ba

[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện tại, một số quốc gia đã công nhận phi nhị giới hay giới thứ ba, bao gồm Canada, Đức, Úc, New Zealand, Ấn ĐộPakistan. Tại Hoa Kỳ, vào năm 2017, Oregon là bang đầu tiên công nhận phi nhị giới;[146] tiếp sau là bang CaliforniaWashington, D. C.[147][148]

Giới và xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]

[cần dẫn nguồn]

Trong ngôn ngữ tự nhiên, thường hiện hữu sự phân biệt về giới. Ngôn ngữ về giới tồn tại ở nhiều dạng, và không ít thì nhiều có sự tương đồng, liên quan đến những khác biệt, những điểm thật sự khác và cả những điểm được cho là khác, giữa đàn ông và phụ nữ. Một vài hệ thống giới trong ngữ pháp vượt qua hoặc thậm chí hoàn toàn không dựa vào những khác biệt giữa sự nam tính và sự nữ tính.[149]

  • Nhiều ngôn ngữ hàm chứa các thuật ngữ, danh xưng được sử dụng một cách bất tương xứng khi liên hệ đến đàn ông và phụ nữ. Lo ngại ngôn ngữ hiện tại đang quá thiên về đàn ông, nhiều văn nghệ sĩ đã đấu tranh ủng hộ việc sử dụng các từ ngữ trung lập về giới nhiều hơn, không chỉ ở tiếng Anh mà còn ở các ngôn ngữ khác.
  • Nhiều ngôn ngữ cho thấy từ ngữ sử dụng bởi đàn ông và phụ nữ có phần khác biệt, nhằm phân biệt và làm rõ các sắc thái của từ vựng, đoạn hội thoại. Ví dụ, tham khảo thêm bài Khác biệt về giới trong văn nói Nhật. Tiếng Sumer, ngôn ngữ đầu tiên được văn bản hoá trên thế giới bởi hệ thống chữ viết Cuneiform (Chữ hình nêm)[150] ghi lại một hệ ngôn ngữ con đặc biệt chỉ được sử dụng bởi phụ nữ. Ngược lại, nhiều ngôn ngữ bản xứ ở Úc (gồm từ ngữ, văn phạm, và phong cách giao tiếp được dùng bởi một nhóm các cá nhân có cùng sở thích, công việc, hoặc cùng ở trong một tình huống)[151] với vốn từ vựng hạn chế chỉ dành cho đàn ông khi ở trước mặt mẹ vợ của họ (Tham khảo Nói tránh). Tương tự, trong số ít các thủ ngữ (ngôn ngữ ký hiệu bằng tay), tồn tại sự phân biệt về giới do các ngôn ngữ này được phát triển và dạy trong các trường nội trú được phân chia theo giới; điển hình là Thủ ngữ của người Ireland.
  • Nhiều ngôn ngữ, như tiếng Ba Tư hay tiếng Hungary, lại trung lập về giới. Trong tiếng Ba Tư, dù là khi liên đến đàn ông hay phụ nữ thì từ vựng vẫn không thay đổi. Động từ, tính từ, và danh từ không hề được phân giới. (Tham khảo bài Sự trung lập về giới trong các ngôn ngữ không phân giới)
  • Giới trong văn phạm là một thuộc tính của một số ngôn ngữ, mà trong đó, mỗi danh từ sẽ được định giới; tuy nhiên, giới được định thường không có liên hệ với nghĩa của danh từ. Ví dụ, từ "con gái" trong tiếng Tây Ban Nhamuchacha (theo ngữ pháp, giới nữ), Mädchen trong tiếng Đức (theo ngữ pháp, trung lập về giới), và cailín trong tiếng Ireland (theo ngữ pháp, giới nam).
  • Khái niệm "Giới tính trong văn phạm" thường được áp dụng vào các hệ thống lớp danh từ phức tạp hơn so với mặt bằng chung. Điều này đặc biệt đúng khi một hệ thống lớp danh từ không chỉ có tính nữ và tính nữ mà bao gồm cả các đặc điểm không liên quan đến giới, như là có thể chuyển động được hay không, có thể ăn được hay không, được con người sản xuất hay không, v.v. Tiếng Dyirbal.là một ví dụ của trường hợp trên. Các hệ thống phân giới có thể tồn tại mà không cần đến việc phân biệt giữa tính nam và tính nữ; ví dụ như là căn cứ vào khả năng tự dịch chuyển của sự vật, điều này phổ biến với tiếng Ojibwe, tiếng Basquetiếng Hittite;và cả các hệ thống phân giữa người (bao gồm cả loài người và thánh thần) và các sự vật khác, có thể tìm thấy các ví dụ trong tiếng Dravidiantiếng Sumer.
  • Nhiều ngôn ngữ sử dụng các cách khác nhau để gọi những người sống và sinh hoạt tại các nền văn hoá, mà ở đó có ba hoặc nhiều hơn ba giới. Điền hình có thể kể đến là tiếng Navajotiếng Ojibwe.

Khoa học

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo dòng lịch sử, khoa học vốn được khắc họa như một bộ môn theo đuổi đầy nam tính mà tại đó, để có thể tham gia học tập và công tác, phụ nữ phải đối mặt với các rào cản đáng kể.[152] Ngay cả sau khi các trường đại học chấp nhận cho phụ nữ theo học vào thế kỷ 19, vị thế của phụ nữ vẫn bị hạ thấp và giới hạn trong một số ngành khoa học nhất định, như Khoa học Gia đình, Điều dưỡngTâm lý học (về sự) phát triển.[153] Ngoài ra, phụ nữ thường được đảm nhiệm các công việc nhàm chán, thiếu tính thách thức với mức lương thấp. Họ còn bị tước bỏ các cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp.[153] Thực trạng này thường được bao biện bằng các khuôn mẫu cho rằng phụ nữ vốn dĩ phù hợp với các công tác đòi hỏi sự tập trung, tính kiên nhẫn, và khả năng khéo léo hơn là các phần việc cần đến sự sáng tạo, khả năng lãnh đạo, và tư duy.[153] Tuy các khuôn mẫu đã dần được loại bỏ trong thời kỳ hiện đại, số lượng phụ nữ học tập và công tác trong các ngành "khoa học tự nhiên" danh giá, như Vật lý, vẫn còn nhỏ, chưa đủ;[154] hơn nữa, so với đàn ông, cơ hội của phụ nữ trong việc nắm giữ các vị trí cao và quan trọng trong ngành cũng thấp hơn. Các sáng kiến toàn cầu, ví dụ như Mục tiêu phát triển bền vững số 5: Bình đẳng giới của Liên Hợp Quốc, vẫn đang cố gắng khắc phục và cải thiện thực trạng trên.[155]

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chủ đề có thể đề cập các vấn đề của một tôn giáo nhất định từ góc nhìn của những người ngoại đạo và cả những vấn đề do chính tôn giáo cùng những tín đồ của tôn giáo đó nhận định. Ví dụ như Giới của Chúa và các bậc thần linh, các thần thoại về sự hình thành của giới ở con người, vai trò và quyền hạn (điển hình như vai trò lãnh đạo trong tôn giáo - Sự tấn phong phụ nữ vào các vị trí thiết yếu trong tôn giáo v.v., Sự tách biệt về giới tính, Bình đẳng giới, Hôn nhân, Nạo phá thai, Đồng tính luyến ái)

Theo Kati Niemelä từ Viện Nghiên cứu Giáo hội, so với đàn ông, mọi phụ nữ đều mang đức tin sâu hơn. Việc tin rằng sự khác nhau về lòng mộ đạo giữa các giới bắt nguồn từ các khác biệt sinh học; ví dụ như những người hay tìm kiếm sự an toàn trong cuộc sống sẽ tin vào tâm linh, tôn giáo hơn các cá nhân khác, và đàn ông vốn được xem là mạo hiểm hơn hẳn phụ nữ nên đức tin của họ sẽ không sâu bằng. Tuy nhiên, sự cuồng tín lại thường xuất hiện ở đàn ông hơn là phụ nữ.[156]

Âm dương

Theo Đạo giáo, âm và dương tương đương với sự nữ tính và sự nam tính. Các tư tưởng thời Nhà Chu cũng như Thái cực đồ minh hoạ cho Thuyết âm dương đã dần thâm nhập vào nếp nghĩ của người dân về mối quan hệ giữa gia đình và giới. Âm là nữ giới và dương là nam giới. Hai thái cực hòa hợp  với nhau, hợp thành một thể hoàn chỉnh. Các nhân tố biểu trưng cho nam giới ứng với mặt trời: chủ động, rực rỡ, và toả sáng; các nhân tố biểu trưng cho nữ giới ứng với mặt trăng: bị động, lờ mờ, và phản sáng. Sự cứng cỏi của nam giới được dung hoà bằng nét dịu dàng của nữ giới; kế hoạch và hành động của nam giới được nuôi dưỡng bởi tính nhẫn nại và mong muốn đạt đến sự hoàn thiện của nữ giới; sự lãnh đạo của nam giới được trợ lực bởi sự ủng hộ của nữ giới.

Trong Do Thái giáo, theo truyền thống, Chúa vốn được miêu tả theo hướng nam tính. Tuy nhiên, chủ nghĩa thần bí Do Thái giáo KabbalahShekhinah lại biểu trưng những nét nữ tính trong bản ngã của Chúa. Tuy nhiên, Do Thái giáo vốn tin rằng Chúa hoàn toàn vô hình, vô thể, và siêu nhiên nên Chúa không phải là nam giới lẫn nữ giới. Dù quan niệm về giới của Chúa là vậy, Do Thái giáo truyền thống đặc biệt nhấn mạnh về việc các cá nhân tuân thủ các vai trò giới từ ngàn xưa của tôn giáo này, mặc cho những nỗ lực đấu tranh cho sự phát triển chủ nghĩa quân bình trong tôn giáo của các giáo phái Do Thái giáo Cải cách. Ngoài ra, văn hoá Do Thái truyền thống cũng quy định có tất cả sáu giới tính tồn tại.

Trong Kitô giáo, Chúa, theo truyền thống, vốn được miêu tả với các thuật ngữ nam tính, còn Giáo hội được miêu tả với các thuật ngữ nữ tính. Mặt khác, thần học Kitô giáo ở nhiều nhà thờ phân biệt giữa các hình tượng nam tính của Chúa (Cha, Vua, Chúa Con) và hiện thực mà các hình tượng này thể hiện như vượt qua khái niệm về giới, biểu đạt chuẩn xác đức hạnh của cả đàn ông lần phụ nữ; những hiện thực này có thể được tìm thấy trong học thuyết Hình ảnh cũa Thiên Chúa. Trong Tân Ước,Jesus đã nhiều lần nhắc đến Chúa Thánh Thần với đại từ nhân xưng nam tại đoạn John 15:26. Vì vậy, Chúa Cha, Chúa ConChúa Thánh Thần (Ba Ngôi) đều được nhắc đến với các đại nhân xưng dành cho nam; tuy nhiên, ý nghĩa thật sự đằng sau tính nam của Ba Ngôi vẫn còn gây tranh cãi.

Trong Ấn Độ giáo

Một trong nhiều hình dạng của Shiva, vị thần của Ấn Độ giáo là Ardhanarishwar (Vị thần bán nữ). Shiva biểu lộ nửa trái của bản thân là Nữ giới, và nửa phải là Nam giới. Bên trái biểu trưng cho Shakti (năng lượng, sức mạnh) trong hình dạng của nữ thần Parvati (vợ của thần Shiva), còn nửa bên phải là Shiva. Trong khi Parvati là nguồn gốc tạo nên Kama (khao khát, mong muốn), Shiva lại là ác thần, hay chém giết. Shiva hiện diện ở khắp mọi nơi nhờ sức mạnh của Parvati và Parvati hiện diện ở khắp mọi nơi nhờ sức mạnh của Shiva.

Tuy các bức ảnh chụp lại tượng đá đã biểu trưng một vị thần có dáng hình bán nam bán nữ nhưng thực chất là hai vị thần Shiva và Shakti cùng tồn tại song song trong một hình tượng. Khi nhìn mô hình 3D mô phỏng lại Ardhanarishvara từ một góc, ta sẽ chỉ thấy Shakti nhưng từ một góc nhìn khác, ta lại chỉ thấy Shiva. Vì vậy, Shiva và Shakti cùng đại diện cho cả Jnana (tri thức) và Kriya (hoạt động).

Đoạn thần thoại này đã thể hiện rõ quan điểm cố hữu của Ấn Độ giáo cổ xưa: Mỗi cá nhân đều mang trong mình nhân tố nam giới lẫn nhân tố nữ giới; các nhân tố này có ý nghĩa về sức mạnh hơn là ý nghĩa về giới tính, và đây cũng là khúc giao hoà giữa sức tạo thành và sức huỷ diệt, giữa tính cứng cỏi và tính mềm mại, giữa sự chủ động và sự bị động - tất cả những điều ấy kiến thành một con người thực thụ. Tư tưởng trên dẫn đến sự bình đẳng giới, và thậm chí xoá bỏ hoàn toàn các khác biệt về vật lý, thể chất giữa nam giới và nữ giới. Điều này có thể lý giải vì sao trong văn hoá Ấn Độ cổ xưa, ta có thể tìm thấy các bằng chứng về đồng tính luyến ái, song tính luyến ái, sự trung tính, việc có nhiều bạn tình, và cả các hình tượng công khai về khoái cảm tình dục trong các tác phẩm nghệ thuật, điển hình là quần thể đền thờ Khajuraho; tất cả đều được chấp nhận trong các hệ tư tưởng xã hội mang tính phổ thông và đại chúng.[157]

Sự nghèo đói

[sửa | sửa mã nguồn]

Bất bình đẳng giới phổ biến nhất ở việc  phụ nữ phải đối mặt với sự nghèo đói. Nhiều phụ nữ phải gánh vác mọi trách nhiệm trong gia đình vì họ phải chăm lo cho gia đình. Thông thường, điều này có thể bao gồm các công việc như cày bừa, xay hạt, gánh nước và nấu ăn.[158] Ngoài ra, phụ nữ có thể phải chịu mức thu nhập thấp do phân biệt giới tính, trong khi đó nam giới có khả năng được trả lương cao hơn, có nhiều cơ hội hơn và có vốn chính trị và xã hội nói chung nhiều hơn phụ nữ.[159] Khoảng 75% phụ nữ trên thế giới không thể vay vốn ngân hàng vì họ không có công việc ổn định.[158] Điều đó cho thấy rằng tuy phụ nữ chiếm phần nhiều trong  dân số nhưng chỉ một số ít đại diện cho sự giàu có của thế giới. Ở nhiều quốc gia, phần lớn phụ nữ không được chú ý trong lĩnh vực tài chính mặc dù họ đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, điều này đã được Nena Stoiljkovic chỉ ra trong D+C: Hợp tác và Phát triển.[160] Năm 1978, Diana M. Pearce đặt ra thuật ngữ nữ hóa sự nghèo đói để mô tả tình trạng phụ nữ có tỷ lệ nghèo đói cao hơn.[161] Phụ nữ dễ bị nghèo đói bám rễ hơn do bất bình đẳng giới trong phân chia thu nhập, quyền sở hữu tài sản, tín dụng và kiểm soát thu nhập kiếm được.[162] Việc phân bổ nguồn lực thường có sự chênh lệch ​​về giới trong các hộ gia đình và tiếp tục ở cấp độ cao hơn như các cơ quan nhà nước.[162]

Giới và phát triển (GAD) là một phương pháp tiếp cận tổng thể nhằm viện trợ cho các quốc gia nơi bất bình đẳng giới có tác động lớn đến sự kém phát triển của nền kinh tế và xã hội. Đây là một dự án tập trung vào sự phát triển giới ở phụ nữ để trao quyền cho họ và giảm mức độ bất bình đẳng giữa nam và nữ.[163]

Nghiên cứu lớn nhất về sự phân biệt đối xử với cộng đồng người chuyển giới, được thực hiện vào năm 2013, cho thấy cộng đồng người chuyển giới có nguy cơ sống trong cảnh đói nghèo cùng cực (thu nhập dưới 10.000 USD / năm) cao gấp 4 lần so với những người hợp giới.[164][165]

Lý thuyết chuỗi căng thẳng xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo lý thuyết chuỗi căng thẳng xã hội, các nghiên cứu cho rằng sự khác biệt về giới tính giữa các cá nhân có thể dẫn đến sự tức giận từ bên ngoài và từ đó bùng phát bạo lực.[166] Những hành động bạo lực liên quan đến bất bình đẳng giới này có thể được đo lường bằng cách so sánh các vùng lân cận bạo lực với các vùng lân cận không bạo lực.[166] Bằng cách chú ý đến các biến độc lập (bạo lực vùng lân cận) và biến phụ thuộc (bạo lực cá nhân), có thể phân tích vai trò giới.[167] Sự căng thẳng trong lý thuyết căng thẳng xã hội là việc loại bỏ một kích thích tích cực và hoặc đưa vào một kích thích tiêu cực, điều này sẽ tạo ra một tác động tiêu cực (căng thẳng) với mỗi cá nhân, hướng vào bên trong (trầm cảm / cảm giác tội lỗi) hoặc hướng ra bên ngoài (tức giận / thất vọng), điều này phụ thuộc vào việc cá nhân đổ lỗi cho bản thân hay môi trường quanh họ.[168] Các nghiên cứu tiết lộ rằng mặc dù nam giới và nữ giới có khả năng phản ứng với căng thẳng khi tức giận như nhau, nhưng nguồn gốc của sự tức giận và cách họ đối phó với nó có thể khác nhau một cách đáng kể.[168] Nam giới dường như thường đổ lỗi cho người khác về nghịch cảnh và do đó biểu hiện ra bên ngoài cảm xúc tức giận.[166] Phụ nữ thường có xu hướng kìm nén cơn giận và tự trách bản thân.[166] Sự tức giận nội tâm của phụ nữ đi kèm với cảm giác tội lỗi, sợ hãi, lo lắng và trầm cảm.[167] Phụ nữ, bằng cách nào đó, coi sự tức giận là một dấu hiệu cho thấy họ đã mất kiểm soát, và do đó lo lắng rằng sự tức giận này có thể khiến họ làm hại người khác và / hoặc làm hỏng các mối quan hệ. Mặt khác, nam giới ít quan tâm đến việc làm hỏng mối quan hệ và tập trung hơn vào việc sử dụng sự tức giận như một phương tiện để khẳng định nam tính của họ.[167] Theo lý thuyết căng thẳng xã hội, nam giới có nhiều khả năng tham gia vào các hành vi hung hăng hướng về người khác do sự tức giận bên ngoài, trong khi phụ nữ hướng sự tức giận của họ vào bản thân hơn là người khác.[168]

Sự phát triển kinh tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Giới, và đặc biệt là vai trò của phụ nữ được công nhận rộng rãi là cực kỳ quan trọng đối với các việc phát triển toàn cầu.[169] Điều này thường có nghĩa là tập trung vào bình đẳng giới, đảm bảo sự đóng góp, nhưng bao gồm sự hiểu biết về các vai trò khác nhau và kỳ vọng giới trong cộng đồng.[170]

Trong thời hiện đại, nghiên cứu về giới và phát triển đã trở thành một lĩnh vực lớn liên quan đến các chính trị gia, nhà kinh tế và các nhà hoạt động nhân quyền. Giới và Phát triển, không giống như các lý thuyết trước đây liên quan đến phụ nữ trong quá trình phát triển, nó bao gồm một cái nhìn rộng hơn về tác động của sự phát triển tới giới bao gồm các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội. Lý thuyết này có một cách tiếp cận toàn diện đối với sự phát triển và những tác động của nó đối với phụ nữ và thừa nhận những tác động tiêu cực mà các chính sách phát triển mù giới đã gây ra đối với phụ nữ. Trước năm 1970, người ta tin rằng sự phát triển ảnh hưởng đến nam giới và phụ nữ theo cách giống nhau và không có quan điểm giới tính nào tồn tại cho các nghiên cứu phát triển. Tuy nhiên, những năm 1970 đã chứng kiến một sự thay đổi trong lý thuyết phát triển nhằm tìm cách đưa phụ nữ vào các mô hình phát triển hiện có.

Khi Ester Boserup xuất bản cuốn sách, Vai trò của Phụ nữ trong Phát triển Kinh tế, người ta nhận ra rằng sự phát triển ảnh hưởng đến nam giới và nữ giới theo những cách khác nhau và bắt đầu tập trung nhiều hơn vào phụ nữ và sự phát triển. Boserup cho rằng phụ nữ bị gạt ra ngoài lề trong quá trình hiện đại hóa và các thực tiễn về tăng trưởng, phát triển và chính sách phát triển thực sự là mối đe dọa khiến phụ nữ trở nên nghèo hơn. Tác phẩm của Boserup được truyền đạt lại ở phần đầu của một bài diễn văn lớn hơn có tên Phụ nữ trong cuộc phát triển (WID) (WID) bởi Ủy ban Phụ nữ thuộc Washington DC Chapter của Hiệp hội Phát triển Quốc tế, một mạng lưới các do các nữ chuyên gia phát triển đặt ra. Mục tiêu chính của WID là đưa phụ nữ vào các mục tiêu ​​phát triển hiện có, vì có tranh cãi rằng phụ nữ bị gạt ra ngoài lề và không được hưởng lợi từ sự phát triển. Khi làm như vậy, phương pháp tiếp cận WID đã chỉ ra rằng vấn đề chính đối với sự đóng góp và hiện diện không bình đẳng của phụ nữ là các chính sách phát triển thiên vị nam giới và tính gia trưởng. Nói tóm lại, phương pháp tiếp cận WID quy trách nhiệm cho chế độ phụ hệ, vốn không coi trọng công việc sinh sản và khả năng sinh sản của phụ nữ. Trên thực tế, phụ nữ bị ràng buộc với công việc gia đình do đó hầu như không có trong các chương trình phát triển. Tuy nhiên, cách tiếp cận WID bắt đầu bị chỉ trích là bỏ qua mối liên hệ giữa sự "ngoài lề hóa" (các thành quả) kinh tế của phụ nữ với chính mô hình phát triển.

Một số nhà nữ quyền[ai nói?] cho rằng khái niệm then chốt đối với phụ nữ và sự phát triển nên là sự phụ thuộc trong bối cảnh các hình thức tư bản mới có cấu trúc việc làm không an toàn và có thứ bậc, thay vì bị gạt ra ngoài lề như cách tiếp cận của WID đã nhấn mạnh. Sự gia tăng của những chỉ trích chống lại phương pháp WID đã dẫn đến sự xuất hiện của một lý thuyết mới, đó là Phụ nữ và Phát triển (WAD).[171]

Tuy nhiên, cũng như WID, WAD cũng bị  một số người chỉ trích. Các nhà phê bình[ai nói?] WAD cho rằng nó đã không giải quyết được đầy đủ các mối quan hệ quyền lực khác biệt giữa nữ giới và nam giới, và có xu hướng quá chú trọng đến năng suất lao động của phụ nữ thay vì vai trò sinh sản. Ngoài ra, sự chỉ trích ngày càng tăng về việc loại trừ nam giới trong WID và WAD đã dẫn đến một lý thuyết mới có tên là Giới và Phát triển (GAD). Từ những hiểu biết sâu sắc được phát triển trong các nghiên cứu tâm lý học, xã hội học và giới tính, các nhà lý thuyết của GAD chuyển từ việc nhìn nhận các vấn đề của phụ nữ dựa trên giới tính của họ (tức là sự khác biệt sinh học của họ so với nam giới) sang hiểu chúng dựa trên giới - các mối quan hệ xã hội giữa nữ giới và nam giới, sự xây dựng mối quan hệ xã hội của họ và cách phụ nữ bị phụ thuộc một cách có hệ thống trong mối quan hệ này.

Về cơ bản, các quan điểm GAD liên kết các quan hệ xã hội của sản xuất với các quan hệ xã hội của tái sản xuất - tìm hiểu lý do tại sao và làm thế nào nữ giới và nam giới được giao cho những vai trò và trách nhiệm khác nhau trong xã hội, những trách nhiệm này được phản ánh như thế nào trong các lý thuyết xã hội, kinh tế và chính trị và các thể chế, và các mối quan hệ này ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả của chính sách phát triển. Theo những người ủng hộ GAD, phụ nữ không phải là người thụ động nhận viện trợ phát triển, mà là tác nhân tích cực của sự thay đổi mà việc trao quyền phải là mục tiêu trọng tâm của chính sách phát triển. Trong thời hiện đại, hầu hết các tài liệu và thể chế liên quan đến vai trò của phụ nữ trong phát triển đều kết hợp quan điểm của GAD, với việc Liên hợp quốc đi đầu trong việc lồng ghép phương pháp tiếp cận GAD thông qua hệ thống và chính sách phát triển của mình.[172]

Các nhà nghiên cứu tại Viện Phát triển Hải ngoại đã nhấn mạnh rằng đối thoại chính sách về các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) cần phải nhìn nhận rằng quyền lực giới, nghèo đói, tính dễ bị tổn thương và sự chăm sóc là những yếu tố liên kết tất cả các mục tiêu.[173] Các hội nghị phụ nữ quốc tế khác nhau của Liên hợp quốc tại Bắc Kinh, Thành phố Mexico, Copenhagen và Nairobi, cũng như việc xây dựng các Mục tiêu Thiên niên kỷ năm 2000 đã áp dụng phương pháp tiếp cận GAD và quan điểm tổng thể về phát triển. Tuyên bố Thiên niên kỷ Liên hợp quốc được ký tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc năm 2000 bao gồm tám mục tiêu sẽ đạt được vào năm 2015, và mặc dù sẽ là một nhiệm vụ khó khăn để hoàn thành những mục tiêu này, nhưng tất cả đều có thể được giám sát. Tám mục tiêu là:

  1. Vào năm 2015, giảm một nửa tỷ lệ người nghèo cùng cực và thiếu đói so với năm 1990.
  2. Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học
  3. Bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ
  4. Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em
  5. Cải thiện sức khỏe người mẹ
  6. Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các dịch bệnh nguy hiểm
  7. Đảm bảo bền vững môi trường
  8. Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu

MDGs có ba mục tiêu đặc biệt tập trung vào phụ nữ: Mục tiêu 3, 4 và 5 nhưng các vấn đề của phụ nữ cũng nằm trong tất cả các mục tiêu. Các mục tiêu tổng thể bao gồm tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của phụ nữ bao gồm kinh tế, sức khỏe và chính trị.

Bình đẳng giới cũng có mối liên hệ chặt chẽ với giáo dục. Khung hành động Dakar (2000) đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng: xóa bỏ chênh lệch giới trong giáo dục tiểu học và trung học vào năm 2005, và đạt được bình đẳng giới trong giáo dục vào năm 2015. Trọng tâm là đảm bảo các bé gái được tiếp cận đầy đủ và bình đẳng và đạt được thành tích với chất lượng giáo dục cơ bản (giáo dục tiểu học và trung học cơ sở) tốt. Mục tiêu giới của Khung hành động Dakar hơi khác với Mục tiêu MDG 3 (Mục tiêu 1): "Xóa bỏ chênh lệch giới trong giáo dục tiểu học và trung học, sớm nhất là vào năm 2005 và ở tất cả các cấp học không muộn hơn năm 2015". Mục tiêu 3 của MDG không đề cập đến thành tích của người học và chất lượng giáo dục cơ bản, nhưng vượt ra ngoài các cấp học. Các nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của giáo dục các bé gái về sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tỷ lệ sinh, giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế. Các bà mẹ có trình độ học vấn thường muốn cho con đi học.[174]

Một số tổ chức làm việc tại các nước đang phát triển và trong lĩnh vực phát triển đã kết hợp việc vận động và trao quyền cho phụ nữ vào công việc của họ. Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) đã thông qua khuôn khổ chiến lược 10 năm vào tháng 11 năm 2009 bao gồm mục tiêu chiến lược về bình đẳng giới trong tiếp cận các nguồn lực, hàng hóa, dịch vụ và ra quyết định ở các khu vực nông thôn và lồng ghép bình đẳng giới trong tất cả các chương trình của FAO về nông nghiệp và phát triển nông thôn.[175] Hiệp hội Truyền thông Tiến bộ (APC) đã phát triển Phương pháp Đánh giá Giới để lập kế hoạch và đánh giá các dự án phát triển nhằm đảm bảo chúng mang lại lợi ích cho tất cả các thành phần của xã hội, bao gồm cả phụ nữ.[176]

Chỉ số Phát triển Liên quan đến Giới (GDI), do Liên hợp quốc xây dựng, nhằm thể hiện sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực sau: đời sống lâu dài và lành mạnh, kiến thức và mức sống ổn định. Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã giới thiệu các chỉ số được thiết kế để thêm khía cạnh giới tính vào Chỉ số Phát triển Con người (HDI). Ngoài ra, vào năm 1995, Chỉ số Phát triển Liên quan đến Giới (GDI) và Chỉ số Vai trò của Phụ nữ (GEM) đã được giới thiệu. Gần đây hơn, vào năm 2010, UNDP đã giới thiệu một chỉ số mới, Chỉ số Bất bình đẳng giới (GII), được thiết kế để đo lường  bất bình đẳng giới chính xác hơn và cải thiện những thiếu sót của GDI và GEM.

Biến đổi khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Giới là chủ đề ngày càng được quan tâm trong chính sách về biến đổi khí hậu và khoa học.[177] Nhìn chung, các phương pháp tiếp cận giới đối với biến đổi khí hậu giải quyết các phân biệt giới, hậu quả của biến đổi khí hậu, cũng như năng lực thích ứng/ứng phó không đồng đều và sự đóng góp của giới đối với biến đổi khí hậu. Hơn nữa, sự giao thoa giữa biến đổi khí hậu và giới đặt ra những câu hỏi liên quan đến mối quan hệ quyền lực phức tạp và giao thoa nảy sinh từ đó. Tuy nhiên, những khác biệt này hầu hết không phải do sự khác biệt về sinh học hoặc vật lý, mà được hình thành bởi bối cảnh xã hội, thể chế và luật pháp. Do đó, tính dễ bị tổn thương không phải là đặc điểm nội tại của phụ nữ và trẻ em gái mà là sản phẩm của việc họ bị gạt ra ngoài lề xã hội.[178] Roehr[179] lưu ý rằng, trong khi Liên hợp quốc chính thức đưa ra cam kết lồng ghép giới, trên thực tế, bình đẳng giới vẫn chưa đạt được trong bối cảnh của các chính sách về biến đổi khí hậu. Điều này được phản ánh trong thực tế qua việc các bài diễn thuyết và đàm phán về biến đổi khí hậu chủ yếu chiếm ưu thế bởi nam giới.[180][181][182] Một số học giả nữ quyền cho rằng cuộc tranh luận về biến đổi khí hậu không chỉ do nam giới thống trị mà còn chủ yếu được định hình trong các nguyên tắc 'nam tính', điều này giới hạn góc độ các cuộc thảo luận về biến đổi khí hậu chỉ hướng đến các giải pháp kỹ thuật.[181] Nhận thức về biến đổi khí hậu như vậy che khuất các mối quan hệ chủ quan và sức mạnh thực sự tạo điều kiện cho chính sách và khoa học về biến đổi khí hậu, dẫn đến hiện tượng mà Tuana[181] gọi là 'epistemic injustice' - tạm dịch chứng minh rằng bằng cách coi biến đổi khí hậu là một vấn đề của khoa học và an ninh tự nhiên, sẽ giới hạn trong nó các lĩnh vực truyền thống của nam tính bá quyền.[180][182]

Mạng xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]

Vai trò và định kiến ​​về giới đã dần thay đổi trong xã hội suốt vài thập kỷ qua. Những thay đổi này chủ yếu xảy ra trong giao tiếp, nhưng cụ thể hơn là trong các tương tác xã hội.[183] Cách mọi người giao tiếp và tương tác xã hội cũng bắt đầu thay đổi do những tiến bộ của công nghệ.[100] Một trong những lý do lớn nhất cho sự thay đổi này là sự phát triển của mạng xã hội.

Trong vài năm qua, việc sử dụng các trang mạng xã hội trên toàn cầu đã bắt đầu gia tăng.[101] Sự gia tăng này có thể là do sự phong phú của công nghệ có sẵn để  giới trẻ sử dụng. Các nghiên cứu gần đây cho thấy nam giới và nữ giới coi trọng và sử dụng công nghệ theo cách khác nhau.[100][101][184] Forbes đã xuất bản một bài báo vào năm 2010 cho biết 57% người dùng Facebook là phụ nữ, nguyên nhân là do phụ nữ tích cực hơn trên mạng xã hội. Trung bình phụ nữ có số bạn bè nhiều hơn (nam giới) 8% và chiếm 62% số bài đăng được chia sẻ qua Facebook.[185] Một nghiên cứu khác vào năm 2010 cho thấy ở hầu hết các nền văn hóa phương Tây, nữ giới dành nhiều thời gian để gửi tin nhắn văn bản hơn so với nam giới cũng như dành nhiều thời gian trên các trang mạng xã hội hơn như một cách để giao tiếp với bạn bè và gia đình.[186] Hayat, Lesser và Samuel-Azran (2017) đã chỉ ra rằng trong khi nam giới viết nhiều bài đăng hơn trên các trang mạng xã hội thì phụ nữ bình luận về bài đăng của người khác thường xuyên hơn. Họ cũng cho thấy rằng các bài đăng của nữ giới được yêu thích hơn so với các bài đăng của nam giới.

Mạng xã hội không chỉ là giao tiếp bằng lời nói. Với việc mạng xã hội ngày càng phổ biến, hình ảnh đóng một vai trò lớn trong việc giao tiếp của nhiều người. Nghiên cứu được thực hiện vào năm 2013 cho thấy hơn 57% hình ảnh đăng trên các trang mạng xã hội là liên quan đến tình dục/gợi dục và được tạo ra để thu hút sự chú ý.[187] Hơn nữa, 58% phụ nữ và 45% nam giới không nhìn vào máy ảnh, điều này tạo ra ảo giác rút lui.[187] Các yếu tố khác được lưu ý đến là tư thế trong ảnh, chẳng hạn như phụ nữ nằm trong tư thế ở dưới hoặc thậm chí sờ soạng bản thân theo cách của trẻ con.[187] Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hình ảnh được chia sẻ trực tuyến thông qua các trang mạng xã hội giúp thiết lập những suy nghĩ về bản thân mà một người muốn chia sẻ với thế giới.[187]

Theo nghiên cứu gần đây, giới đóng một vai trò mạnh mẽ trong việc hình thành cấu trúc đời sống xã hội của chúng ta, đặc biệt là khi xã hội phân chia và tạo ra các phạm trù "nam" và "nữ".[188] Các cá nhân trong xã hội có thể học được những điểm tương đồng giữa các giới hơn là sự khác biệt.[189] Mạng xã hội giúp tạo ra sự bình đẳng hơn, bởi vì mọi cá nhân đều có thể thể hiện mình theo cách nào họ thích. Mọi cá nhân cũng có quyền bày tỏ ý kiến của mình, mặc dù một số có thể không được đồng ý, nhưng điều đó vẫn mang lại cho mỗi giới quyền được lắng nghe như nhau.[190]

Thanh thiếu niên ở Hoa Kỳ thường sử dụng các trang mạng xã hội như một cách để kết nối và giao tiếp với nhau, cũng như để thỏa mãn sự tò mò.[191] Trẻ em gái vị thành niên thường sử dụng các trang mạng xã hội như một công cụ để giao tiếp với bạn bè đồng trang lứa và thắt chặt/ củng cố các mối quan hệ hiện có; mặt khác, trẻ em trai có xu hướng sử dụng các trang mạng xã hội như một công cụ để gặp gỡ bạn bè và người quen mới.[192] Hơn nữa, các trang mạng xã hội đã cho phép các cá nhân thực sự thể hiện bản thân, vì họ có thể tạo ra một danh tính và giao tiếp xã hội với những cá nhân khác có thể liên quan.[193] Các trang mạng xã hội cũng cho phép các cá nhân truy cập để tạo ra một không gian nơi họ cảm thấy thoải mái hơn về tính dục của mình.[193] Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng mạng xã hội đang trở thành một phần lớn hơn trong văn hóa truyền thông của các giới trẻ, vì những câu chuyện thân mật hơn được kể qua mạng xã hội và đan xen với các vấn về giới, tính dục và các mối quan hệ.[193]

Thanh thiếu niên là những người đam mê sử dụng Internet và mạng xã hội nhất ở Hoa Kỳ. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hầu hết tất cả thanh thiếu niên Hoa Kỳ (95%) từ 12 đến 17 tuổi đều online, so với chỉ 78% người trưởng thành. Trong số những thanh thiếu niên này, 80% có hồ sơ trên các trang mạng xã hội, so với chỉ 64% dân số online từ 30 tuổi trở lên. Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Kaiser Family Foundation, thanh thiếu niên từ 11 đến 18 tuổi trung bình dành hơn 1 tiếng rưỡi mỗi ngày để sử dụng máy tính và 27 phút mỗi ngày để truy cập các trang mạng xã hội, tức là  chiếm khoảng 1/4 thời gian sử dụng máy tính hàng ngày của họ.[194]

Những cô gái và chàng trai tuổi teen đăng về những điều khác nhau trên hồ sơ trực tuyến của họ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng người dùng nữ có xu hướng đăng những bức ảnh "dễ thương" hơn, trong khi những người tham gia là nam giới thường đăng ảnh của chính họ trong các hoạt động. Phụ nữ ở Hoa Kỳ cũng có xu hướng đăng ảnh bạn bè nhiều hơn, trong khi nam giới có xu hướng đăng nhiều hơn về thể thao và các liên kết hài hước. Nghiên cứu cũng cho thấy nam giới sẽ đăng nhiều tài liệu tham khảo về rượu và tình dục hơn.[194] Tuy nhiên, các vai trò đã bị đảo ngược khi xem xét một trang web hẹn hò dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên: phụ nữ đề cập đến tình dục thường xuyên hơn nam giới.

Con trai chia sẻ nhiều thông tin cá nhân hơn, chẳng hạn như quê quán và số điện thoại, trong khi con gái tiết chế hơn về thông tin cá nhân mà họ công khai trên các trang mạng xã hội. Trong khi đó, con trai có xu hướng hướng tới công nghệ, thể thao và sự hài hước trong thông tin mà họ đăng lên trang cá nhân của mình.[195]

Mạng xã hội vượt qua khỏi vai trò giúp các cá nhân thể hiện bản thân, vì nó đã phát triển để giúp các cá nhân tạo ra các mối quan hệ, đặc biệt là các mối quan hệ lãng mạn. Một số lượng lớn người dùng mạng xã hội nhận thấy việc tạo mối quan hệ theo cách ít trực tiếp hơn dễ dàng hơn so với cách tiếp cận truyền thống là xin số của ai đó một cách vụng về.[196]

Mạng xã hội đóng một vai trò lớn khi nói đến giao tiếp giữa các giới. Do đó, điều quan trọng là phải hiểu định kiến giới phát triển như thế nào trong các tương tác trực tuyến. Nghiên cứu trong những năm 1990 cho rằng các giới khác nhau thể hiện một số đặc điểm nhất định, chẳng hạn như năng động, hấp dẫn, phụ thuộc, thống trị, độc lập, đa cảm, gợi cảm và phục tùng, trong tương tác trực tuyến.[197] Mặc dù những đặc điểm này tiếp tục được thể hiện qua các định kiến giới, các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng điều này không nhất thiết phải như vậy nữa.[198]

So sánh giữa Giới và Giới tính

[sửa | sửa mã nguồn]
Đặc điểm Giới tính

Giới tính sinh học

Giới

Giới tính xã hội

Phân biệt Sự khác biệt về mặt sinh học Sự khác biệt về mặt xã hội
Nguồn gốc Bẩm sinh Do dạyhọc

có; do mong đợi của xã hội

Tính chất Mang tính đồng nhất Mang tính đa dạng
Sự thay đổi Không thay đổi Có thể thay đổi

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lê, Thị Thủy (12 tháng 5 năm 2020). “Luận về đồng tính từ những góc nhìn lý thuyết”. Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Hải Phòng: Giáo dục - Xã hội - Nhân văn: 4. Xét về bản chất, sự khác biệt giữa yếu tính luận và kiến tạo luận cũng rõ ràng như hai khái niệm giới tính và phái tính. (...) Phái tính, ngược lại, sinh ra từ các phạm trù văn hóa, không chịu sự bó buộc của các đặc tính sinh học bẩm sinh (...)
  2. ^ a b c Udry, J. Richard (tháng 11 năm 1994). “The Nature of Gender” (PDF). Demography. 31 (4): 561–573. doi:10.2307/2061790. JSTOR 2061790. PMID 7890091. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2016.
  3. ^ a b c d e Haig, David (tháng 4 năm 2004). “The Inexorable Rise of Gender and the Decline of Sex: Social Change in Academic Titles, 1945–2001” (PDF). Archives of Sexual Behavior. 33 (2): 87–96. doi:10.1023/B:ASEB.0000014323.56281.0d. PMID 15146141.
  4. ^ a b c d “What do we mean by "sex" and "gender"?”. World Health Organization. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2015.
  5. ^ a b Kevin L. Nadal, The SAGE Encyclopedia of Psychology and Gender (2017, ISBN 1483384276), page 401: "Hầu hết các nền văn hóa hiện đang xây dựng xã hội của họ dựa trên sự hiểu biết về nhị nguyên giới - hai phân loại giới (nam và nữ). xã hội phân chia dân số của họ dựa trên giới tính sinh học được ấn định cho các cá nhân khi sinh ra để bắt đầu quá trình xã hội hóa giới9780195380828."
  6. ^ “GENDER”. Social Science Dictionary. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
  7. ^ Lindsey, Linda L. (2010). “Ch. 1. The Sociology of gender” (PDF). Gender Roles: A Sociological Perspective. Pearson. ISBN 978-0-13-244830-7. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2015.
  8. ^ “Guideline for the Study and Evaluation of Gender Differences in the Clinical Evaluation of Drugs” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2014.
  9. ^ “Evaluation of Sex-Specific Data in Medical Device Clinical Studies – Guidance for Industry and Food and Drug Administration Staff”. U.S. Food and Drug Administration. ngày 22 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2019.
  10. ^ Pokorny, Julius (1959, reprinted in 1989) 'gen', in Indogermanisches etymologisches Wörterbuch, Bern: Francke, pp. 373–375.
  11. ^ 'genə-' Lưu trữ 2007-07-04 tại Wayback Machine, in 'Appendix I: Indo-European Roots', to The American Heritage Dictionary of the English Language, Fourth Edition, (Boston: Houghton Mifflin Company, 2000).
  12. ^ 'Gen' Lưu trữ 2009-10-19 tại Wayback Machine. Your Dictionary.com
  13. ^ Skeat, Walter William (1882). An Etymological Dictionary of the English Language. Oxford: Clarendon Press. tr. 230.
  14. ^ a b Holmes, Brooke (2012). “Giới thiệu”. Giới: sự cổ xưa và Di sản của nó. Nhà xuất bản Đại học Oxford. tr. 1–2. ISBN 9780195380828. Hóa ra, cái mà chúng tôi gọi là giới là một khái niệm khá gần đây. Không phải người dân ở Hy Lạp và La Mã cổ đại không nói chuyện, suy nghĩ và tranh luận về các phạm trù nam nữ, nam tính và nữ tính cũng như bản chất và phạm vi của sự khác biệt giới. Họ đã làm theo [những cách] vừa giống vừa rất khác với của chúng ta. Vấn đề là họ không có khái niệm giới đã phát triển ảnh hưởng lớn đến ngành khoa học xã hội và nhân văn trong bốn thập kỷ qua.
  15. ^ Holmes, Brooke (2012). “Giới thiệu”. Giới tính: Sự cổ xưa và Di sản của nó. Nhà xuất bản Đại học Oxford. tr. 3–4. ISBN 9780195380828. Khái niệm giới tính, như tôi vừa nói, mới xuất hiện gần đây. Vậy nó là gì và nó đến từ đâu? Simone de Beauvoir nổi tiếng đã viết: 'một người không được sinh ra, mà là trở thành phụ nữ'... Nhưng thuật ngữ 'giới', từ lâu đã gắn liền với ngữ pháp, chỉ bắt đầu hướng tới những gì bà ấy mô tả vào cuối những năm 1950 và Những năm 1960.
  16. ^ a b Udry, J. Richard (tháng 11 năm 1994). “The Nature of Gender” (PDF). Demography. 31 (4): 561–573. doi:10.2307/2061790. JSTOR 2061790. PMID 7890091. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  17. ^ a b c d Haig, David (tháng 4 năm 2004). “The Inexorable Rise of Gender and the Decline of Sex: Social Change in Academic Titles, 1945–2001” (PDF). Archives of Sexual Behavior. 33 (2): 87–96. CiteSeerX 10.1.1.359.9143. doi:10.1023/B:ASEB.0000014323.56281.0d. PMID 15146141. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2012.
  18. ^ Render, Meredith. (2006) "Misogyny, Androgyny, and Sexual Harassment: Sex Discrimination in a Gender-Deconstructed World". Harvard Journal of Law & Gender. Vol. 29(1) (Winter). pp. 99–150.
  19. ^ Greenberg, Julie A (1999). “Defining Male and Female: Intersexuality and the Collision Between Law and Biology”. Arizona Law Review. 41: 265.
  20. ^ J.E.B. v. Ala. ex rel. T.B., 114 S. Ct. 1419, 1436 n.1 (1994)
  21. ^ Aristotle (2004) [1st pub. Modern Library NY, 1954]. Rhetoric. Roberts, William Rhys biên dịch. Mineola, NY: Dover. ISBN 978-0-486-43793-4. OCLC 55616891. A fourth rule is to observe Protagoras' classification of nouns into male, female and inanimate.
  22. ^ Fowler's Modern English Usage, 1926: p. 211.
  23. ^ Money, John; Hampson, Joan G; Hampson, John (tháng 10 năm 1955). “Kiểm tra một số khái niệm tính dục cơ bản: Bằng chứng về chủ nghĩa Hermaphroditis của con người”. Bull. Johns Hopkins Hosp. 97 (4): 301–19. PMID 13260820. Theo thuật ngữ, vai trò giới, chúng tôi dự định là tất cả những điều mà một người nói hoặc làm để tiết lộ về bản thân họ là có tình trạng tương ứng là con trai hoặc đàn ông, con gái hoặc phụ nữ. Nó bao gồm, nhưng không bị giới hạn ở tính dục theo nghĩa khiêu dâm. Vai trò giới được đánh giá liên quan đến các yếu tố sau: cách cư xử chung, cách đi đứng và thái độ, sở thích chơi và thú tiêu khiển; chủ đề tự phát của cuộc nói chuyện trong cuộc trò chuyện không có chủ đề và bình luận thông thường; nội dung của những giấc mơ, mơ mộng và tưởng tượng; trả lời cho các câu hỏi gián tiếp và trắc nghiệm xạ ảnh; bằng chứng về các hoạt động khiêu dâm và cuối cùng, câu trả lời của chính người đó cho cuộc điều tra trực tiếp.
  24. ^ gender, n.”. Oxford English Dictionary Online. Oxford English Dictionary. tr. Sense 3(b). Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2017.
  25. ^ Usage note: Gender, Lưu trữ 2006-03-21 tại Wayback Machine The American Heritage Dictionary of the English Language, Fourth Edition, (2000).
  26. ^ Mikkola, Mari (ngày 12 tháng 5 năm 2008). "Feminist Perspectives on Sex and Gender." Stanford University.
  27. ^ a b c Butler (1990)
  28. ^ Snow, D.A. and Oliver, P.E. (1995). "Social Movements and Collective Behavior: Social Psychological Dimensions and Considerations", pp. 571–600 in Karen Cook, Gary A. Fine, and James S.House (eds.) Sociological Perspectives on Social Psychology. Boston: Allyn and Bacon.
  29. ^ Taifel, H. & Turner, J.C. (1986). "The social identity of intergroup relations", pp. 7–24 in S. Worchel & W.G. Austin (eds.) The psychology of intergroup relations. Chicago: Nelson-Hall. ISBN 0-8185-0278-9.
  30. ^ Terry, D.J.; Hogg, M.A. (1996). “Group norms and the attitude-behavior relationship: A role for group identification”. Personality and Social Psychology Bulletin. 22 (8): 776–793. doi:10.1177/0146167296228002.
  31. ^ Pathak, Sunita, and Pathak, Surendra "Gender and the MDGs with Reference to Women as Human". Academia.edu.
  32. ^ Galdas, P. M.; Johnson, J. L.; Percy, M.E.; Ratner, P.A. (2010). “Help seeking for cardiac symptoms: Beyond the masculine–feminine binary”. Social Science & Medicine. 71 (1): 18–24. doi:10.1016/j.socscimed.2010.03.006. PMC 5142841. PMID 20398989.
  33. ^ a b Warnecke, T. (2013). “Entrepreneurship and Gender: An Institutional Perspective”. Journal of Economic Issues. 47 (2): 455–464. doi:10.2753/JEI0021-3624470219.
  34. ^ Spade, J., Valentine, C. (2011). The kaleidoscope of gender: prisms, patterns, and possibilities. Pine Forge Press. 3rd edition
  35. ^ Tong, Rosemarie (2009). Feminist thought: a more comprehensive introduction / Rosemarie Tong.Boulder, Colo.: Westview Press ISBN 0-8133-4375-5.
  36. ^ Vigo, Julian. 'The Body in Gender Discourse: The Fragmentary Space of the Feminine.' La femme et l'écriture. Meknès, Maroc, 1996.
  37. ^ Bornstein, Kate (1995). Gender Outlaw – On Men, Women and the rest of us, Vintage, ISBN 0-679-75701-5 pp. 51–52
  38. ^ a b Birke, Lynda (2001). "Chapter 24, In Pursuit of Difference." The Gender and Science Reader. New York: Routledge, pp. 309–22.
  39. ^ Ehrensaft, Diane (ngày 25 tháng 5 năm 2017). “Gender nonconforming youth: current perspectives”. Adolescent Health, Medicine and Therapeutics (bằng tiếng Anh). 8: 57–67. doi:10.2147/ahmt.s110859. ISSN 1179-318X. PMC 5448699. PMID 28579848.
  40. ^ a b Money, J (1955). “Hermaphroditism, gender and precocity in hyperadrenocorticism: Psychologic findings”. Bulletin of the Johns Hopkins Hospital. 96 (6): 253–264. PMID 14378807.
  41. ^ Laurie, Timothy (2014), “The Ethics of Nobody I Know: Gender and the Politics of Description”, Qualitative Research Journal, 14 (1): 64–78, doi:10.1108/qrj-03-2014-0011, hdl:10453/44221
  42. ^ Maria Llorente, Văn hóa, Di sản và Sự đa dạng trong Chăm sóc Sức khỏe Tâm thần Người Lớn tuổi (2018, ISBN 1615372059), trang 184: "Trong lịch sử, ở nhiều, nếu không phải hầu hết, các nền văn hóa, giới theo truyền thống được quan niệm là hệ nhị nguyên, nhưng người hiện đại và cách hiểu được ưu tiên là giới thực sự xuất hiện trên một phổ."
  43. ^ Marie L. Miville, Angela D. Ferguson, Handbook of Race-Ethnicity and Gender in Psychology (2014, ISBN 1461488605), trang 47: "Trong các xã hội phương Tây, cũng như ở nhiều khu vực trên thế giới, giới đã được quan niệm về mặt lịch sử và được xây dựng như một hệ nhị nguyên (là "nam" hoặc "nữ") phần lớn được xác định bởi cả nhận thức sinh học (di truyền và nội tiết tố) và xã hội (củng cố xã hội, văn hóa và khuôn mẫu hành vi giới)."
  44. ^ “Hinaleimoana Wong-Kalu – TedxMaui”. ngày 27 tháng 5 năm 2014.
  45. ^ “Intersections: Transgender, Queens, Mahu, Whatever': An Oral History from Hawai'i”.
  46. ^ a b Treuer, Anton (2011). “Women and Gender”. The Assassination of Hole in the Day. Borealis Books. ISBN 9780873518017. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2016.
  47. ^ Gilbert Herdt biên tập (1996). Third Sex Third Gender: Beyond Sexual Dimorphism in Culture and History. ISBN 978-0-942299-82-3. OCLC 35293440.
  48. ^ Kehoe, Alice B. (2002). “Điều khoản thích hợp”. Bản tin SAA. Hiệp hội Khảo cổ học Hoa Kỳ 16(2), UC-Santa Barbara. ISSN 0741-5672. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2019. Tại hội nghị xuất bản cuốn sách, Những người có hai linh hồn, tôi đã nghe một số người ở các Quốc gia thứ nhất mô tả bản thân họ rất thống nhất, không phải "nam" cũng không phải "nữ", nhiều ít hơn một cặp trong một cơ thể. Họ cũng không báo cáo giả định về tính hai mặt trong một cơ thể như một khái niệm phổ biến trong các cộng đồng riêng; thay vào đó, mọi người bộc bạch sự thất vọng trước xu hướng phân đôi của phương Tây. Bên ngoài các xã hội nói tiếng Ấn-Âu, "giới" sẽ không liên quan đến tính cách xã hội hào nhoáng "đàn ông" và "phụ nữ", và "giới tính thứ ba" có thể sẽ vô nghĩa. Từ khó nghe "berdache" chắc chắn nên được loại bỏ (Jacobs và cộng sự 1997:3–5), nhưng chủ nghĩa tân học đô thị của Mỹ "(người) hai tâm hồn" có thể gây hiểu lầm.
  49. ^ Nanda, Serena (1998). Neither Man Nor Woman: The Hijras of India. Wadsworth Publishing. ISBN 0-534-50903-7
  50. ^ Reddy, Gayatri (2005). With Respect to Sex: Negotiating Hijra Identity in South India. (Worlds of Desire: The Chicago Series on Sexuality, Gender, and Culture), University of Chicago Press (ngày 1 tháng 7 năm 2005). ISBN 0-226-70756-3
  51. ^ "A lifestyle distinct: the Muxe of Mexico," New York Times, ngày 6 tháng 12 năm 2008.
  52. ^ Graham, Sharyn (April–June 2001) Sulawesi's Fifth GenderLưu trữ 2006-06-18 tại Wayback Machine. Inside Indonesia.
  53. ^ McGee, R. Jon and Richard L. Warms (2011). Anthropological Theory: An Introductory History. New York, McGraw Hill.
  54. ^ Jack Harrison; Jaime Grant; Jody L. Herman (2011–2012). “A Gender Not Listed Here: Genderqueers, Gender Rebels, and Otherwise in the National Transgender Discrimination Survey” (PDF). LGBTQ Policy Journal. 2. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2017.
  55. ^ Roughgarden, Joan (2004) Evolution's Rainbow: Diversity, Gender, and Sexuality in Nature and People. University of California Press. ISBN 0-520-24073-1
  56. ^ a b Palan, K. (2001). “Gender Identity in Consumer Research: A Literature Review and Research Agenda” (PDF). Academy of Marketing Science Review. 10. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2012.
  57. ^ Twenge, Jean M. (1997). “Changes in masculine and feminine traits over time: A meta-analysis”. Sex Roles. 36 (5–6): 305–325. doi:10.1007/BF02766650.
  58. ^ Anne Fausto-Sterling (1992) Myths of Gender: Biological Theories about Men and Women. New York: Basic Books. p. 8 ISBN 0-465-04792-0.
  59. ^ de Beauvoir, Simone (1949) The Second Sex.
  60. ^ Fausto-Sterling (2000) Chapter 3 "Of Gender and Genitals", pp. 44–77
  61. ^ Chafetz, J.S. (1974). Masculine/Feminine or Human? An Overview of the Sociology of Sex Roles. Itasca, Illinois: F.E. Peacock.
  62. ^ Chafetz, J.S. (1978). Masculine/Feminine or Human? An Overview of the Sociology of Sex Roles. Itasca, Illinois: F.E. Peacock. ISBN 978-0-87581-231-1. OCLC 4348310.
  63. ^ Garrett, Stephanie (1992). Gender, Routledge, p. vii ISBN 0-422-60570-0.
  64. ^ Butler (1990) p. 9.
  65. ^ a b Hurst, C. (2007) Social Inequality: Forms, Causes, and Consequences. 6th Edition. pp. 131, 139–142
  66. ^ Schwalbe, M. (2005). The Sociologically Examined Life: Pieces of the Conversation Third Edition. pp. 22–23 ISBN 0-07-282579-0
  67. ^ Smith, N. and Stanley, E. (2011). Captive Genders. 1st ed. Edinburgh: AK Press.
  68. ^ Center for American Progress, (2016). Unjust: How The Broken Criminal Justice System Fails LGBT People. Washington.
  69. ^ Lydon et al., "Coming Out of Concrete Closets: A Report on Black & Pink's National LGBTQ Prisoner Survey."
  70. ^ Dworkin, Andrea (1995). "My Life as a Writer", pp. 33–34 in Dworkin, Andrea Life and Death: Unapologetic Writings on the Continuing War Against Women. New York: Free Press. ISBN 0-7432-3626-2
  71. ^ Hawkesworth, Mary (2005). “Engendering political science: An immodest proposal”. Politics & Gender. 1 (1): 141–156. doi:10.1017/s1743923x0523101x.
  72. ^ Karen, Beckwith (2005). “A Common Language of Gender?”. Politics & Gender. 1 (1): 132. doi:10.1017/s1743923x05211017.
  73. ^ White, Linda (1964). Women, Politics, and Public Policy: The Political Struggles of Canadian Women, 2nd ed. Oxford Press. tr. 6–7.
  74. ^ White, Linda (1964). Women, Politics, and Public Policy: The Political Struggles of Canadian Women, 2nd ed. Oxford Press. tr. 11–12.
  75. ^ Oakley, Ann (1972). Sex, Gender and Society. London: Temple Smith. p. 16 ISBN 0-85117-020-X.
  76. ^ World Health Organization (2002). "Gender and Reproductive Rights: Working Definitions". Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012.
  77. ^ Birke, Lynda (2001). "In Pursuit of Difference: Scientific Studies of Women and Men," Muriel Lederman and Ingrid Bartsch eds., The Gender and Science Reader, New York: Routledge. p. 320.
  78. ^ Butler (1990) p. 7.
  79. ^ Butler (1990) p. 10.
  80. ^ Butler (1993) p. xi.
  81. ^ Butler (1993) pp. 2–3.
  82. ^ Nicholson, Linda (1994). “"Interpreting Gender". Signs”. Journal of Women in Culture and Society. 20 (1): 79–105. doi:10.1086/494955. JSTOR 3174928.
  83. ^ Helen King. 2013. The One-Sex Body on Trial: The Classical and Early Modern Evidence. Farnham: Ashgate. 978-1-4094-6335-1
  84. ^ Joan Cadden. 1993. Meanings of Sex Difference in the Middle Ages: Medicine, Science, and Culture. Cambridge University Press.
  85. ^ Michael Stolberg. 2003. "A Woman Down to her Bones. The Anatomy of Sexual Difference in the Sixteenth and Early Seventeenth Centuries." Isis, 94: 274-299.
  86. ^ Fausto-Sterling (2000) p. 45.
  87. ^ Fausto-Sterling (2000) p. 46.
  88. ^ a b Fausto-Sterling (2000)
  89. ^ Fausto-Sterling (2000) pp. 58–59.
  90. ^ Priess, Heather A.; Lindberg, Sara M.; Hyde, Janet Shibley (2009). “Adolescent Gender-Role Identity and Mental Health: Gender Intensification Revisited”. Child Development. 80 (5): 1531–1544. doi:10.1111/j.1467-8624.2009.01349.x. JSTOR 25592088. PMC 4244905. PMID 19765016.
  91. ^ a b Ridgeway, Cecilia L.; Correll, Shelley J. (2004). “Unpacking the Gender System: A Theoretical Perspective on Gender Beliefs and Social Relations”. Gender. 18 (4): 510–531. doi:10.1177/0891243204265269. JSTOR 4149448.
  92. ^ “David Reimer, subject of 'sex reassignment,' dead at 38”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2021.
  93. ^ Colapinto J (2001). As Nature Made Him: The Boy Who Was Raised as a Girl. Harper Perennial. ISBN 0-06-092959-6. Revised in 2006[cần số trang]
  94. ^ Bailey JM, Vasey PL, Diamond LM, Breedlove SM, Vilain E, Epprecht M (tháng 9 năm 2016). “Sexual Orientation, Controversy, and Science”. Psychological Science in the Public Interest. 17 (2): 45–101. doi:10.1177/1529100616637616. PMID 27113562.
  95. ^ Intersex Society of North America | A world free of shame, secrecy, and unwanted genital surgery
  96. ^ “American Academy of Pediatrics, Education, LGBT Health and Wellness”. www.aap.org (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2017.
  97. ^ “American Academy of Pediatrics Webinar Series - What is Gender?” (PDF). American Academy of Pediatrics. ngày 11 tháng 9 năm 2015. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2021.
  98. ^ Dr. Sherer (15 tháng 9 năm 2015). “SOLGBTHW Webinar - What is Gender Terminology and Definitions”. American Academy of Pediatrics.
  99. ^ a b c “When Did Girls Start Wearing Pink?”. Smithsonian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2017.
  100. ^ a b c Hayat, Tsahi (Zack); Lesser, Ofrit; Samuel-Azran, Tal (2017). “Gendered discourse patterns on online social networks: A social network analysis perspective”. Computers in Human Behavior. 77: 132–139. doi:10.1016/j.chb.2017.08.041.
  101. ^ a b c Lesser, Ofrit; Hayat, Tsahi (Zack); Elovici, Yuval (ngày 2 tháng 11 năm 2017). “The role of network setting and gender in online content popularity”. Information, Communication & Society. 20 (11): 1607–1624. doi:10.1080/1369118x.2016.1252411. ISSN 1369-118X.
  102. ^ Hines, Melissa; Constantinescu, Mihaela; Spencer, Debra (ngày 26 tháng 2 năm 2015). “Early androgen exposure and human gender development”. Biology of Sex Differences. 6: 3. doi:10.1186/s13293-015-0022-1. ISSN 2042-6410. PMC 4350266. PMID 25745554.
  103. ^ Hines, Melissa (ngày 6 tháng 2 năm 2017). “Prenatal endocrine influences on sexual orientation and on sexually differentiated childhood behavior”. Frontiers in Neuroendocrinology. 32 (2): 170–182. doi:10.1016/j.yfrne.2011.02.006. ISSN 0091-3022. PMC 3296090. PMID 21333673.
  104. ^ Money, J (1994). “The concept of gender identity disorder in childhood and adolescence after 39 years”. Journal of Sex & Marital Therapy. 20 (3): 163–177. doi:10.1080/00926239408403428. PMID 7996589.
  105. ^ Abrams, Michael (tháng 6 năm 2007). “The Real Story on Gay Genes: Homing in on the science of homosexuality—and sexuality itself”. Discover.
  106. ^ Beattie-Moss, Melissa (ngày 8 tháng 6 năm 2005). “Are gender differences predetermined?”. Penn State University. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  107. ^ “Genital Development”. Handbook for Parents. Consortium on the Management of Disorders of Sex Development; Intersex Society of America. 2006 – qua dsdguidelines.org.
  108. ^ Ball, GF; Balthazart, J; McCarthy, MM (tháng 10 năm 2014). “Is it useful to view the brain as a secondary sexual characteristic?”. Neurosci Biobehav Rev. 46 Pt 4: 628–38. doi:10.1016/j.neubiorev.2014.08.009. PMID 25195165.
  109. ^ Nguyễn Thành Đạt, Phạm Văn Lập (2011). “Bài 1. Các cấp tổ chức của thế giới sống”. Sinh Học 10. Giáo dục Việt Nam - Bộ Giáo dục và Đào tạo. tr. 6. ISBN 978-604-0-00141-2.
  110. ^ “Recessive”. National Human Genome Research Institute. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2021.
  111. ^ “Causes of Color Blindness”. National Human Genome Research Institute. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2021.
  112. ^ Connallon, Tim; Clark, Andrew (ngày 27 tháng 9 năm 2010). “Sex Linkage, Sex-Specific Selection, and the Role of Recombination in the Evolution of Sexually Dimorphic Gene Expression”. Evolution. 64 (12): 3417–3442. doi:10.1111/j.1558-5646.2010.01136.x. PMC 2998557. PMID 20874735. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
  113. ^ Lepowsky, Maria; Chafetz, JS (2008). The Encyclopedic Entry of Gender – qua Reference.com; Dictionary.com.[chưa đủ cụ thể để xác minh]
  114. ^ Traut, W.; Sahara, K.; Marec, F. (2007). “Sex Chromosomes and Sex Determination in Lepidoptera”. Sexual Development. 1 (6): 332–46. doi:10.1159/000111765. PMID 18391545. The speciose insect order Lepidoptera (moths and butterflies) and their closest relatives, Trichoptera (caddis flies), share a female-heterogametic sex chromosome system
  115. ^ Selim, Jocelyn (ngày 25 tháng 4 năm 2005). “Sex, Ys, and Platypuses”. Discover. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2008.
  116. ^ a b Haier, RJ; Jung, RE; Yeo, RA; Head, K; Alkire, MT (2005). “The neuroanatomy of general intelligence: Sex matters”. NeuroImage. 25 (1): 320–327. doi:10.1016/j.neuroimage.2004.11.019. PMID 15734366. Page 324 for cerebrum difference of 8–10%.
  117. ^ McDaniel, Michael A. (2005). “Big-Brained People are Smarter: A Meta-Analysis of the Relationship between in Vivo Brain Volume and Intelligence” (PDF). Intelligence. 33 (4): 337–346. doi:10.1016/j.intell.2004.11.005.
  118. ^ Avinash M Veerappa, Marita Saldanha, Prakash Padakannaya, Nallur B Ramachandra (2013). “Genome-wide copy number scan identifies disruption of PCDH11X in developmental dyslexia”. American Journal of Medical Genetics. 162 (8): 889–897. doi:10.1002/ajmg.b.32199.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  119. ^ “The genetics of lateralisation”. The Economist. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2021.
  120. ^ Lopes, AM; Ross, N; Close, J; Dagnall, A; Amorim, A; Crow, TJ (2006). “Inactivation status of PCDH11X: Sexual dimorphisms in gene expression levels in brain”. Human Genetics. 119 (3): 267–275. doi:10.1007/s00439-006-0134-0. PMID 16425037. S2CID 19323646.
  121. ^ "Even when men and women do the same chores equally well, they may use different brain circuits to get the same result." Linda Marsha (July 2007). 'He Thinks, She Thinks', Discover
  122. ^ Lombardo, M. V.; Ashwin, E.; Auyeung, B.; Chakrabarti, B.; Taylor, K.; Hackett, G.; Bullmore, E. T.; Baron-Cohen, S. (2012). “Fetal Testosterone Influences Sexually Dimorphic Gray Matter in the Human Brain”. Journal of Neuroscience. 32 (2): 674–680. doi:10.1523/JNEUROSCI.4389-11.2012. PMC 3306238. PMID 22238103.
  123. ^ Sakamoto, Hirotaka (ngày 11 tháng 7 năm 2014). “Sexually dimorphic nuclei in the spinal cord control male sexual functions”. Frontiers in Neuroscience. 8: 184. doi:10.3389/fnins.2014.00184. ISSN 1662-453X. PMC 4092374. PMID 25071429.
  124. ^ Filová, Barbora; Ostatníková, Daniela; Celec, Peter; Hodosy, Július (2013). “The Effect of Testosterone on the Formation of Brain Structures”. Cells Tissues Organs (bằng tiếng Anh). 197 (3): 169–177. doi:10.1159/000345567. ISSN 1422-6421. PMID 23306974.
  125. ^ “Gender Studies”. Whitman College. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2012.
  126. ^ “About – Center for the Study of Gender and Sexuality (CSGS)”. The University of Chicago. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2012.
  127. ^ “Department of Gender Studies”. Indiana University (IU Bloomington). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2012.
  128. ^ Healey, J.F. (2003). "Race, Ethnicity, Gender and Class: the Sociology of Group Conflict and Change", Pine Forge Press ISBN 1-4129-1521-X
  129. ^ England, Paula (tháng 5 năm 1998). “The Impact of Feminist Thought on Sociology” (PDF). Contemporary Sociology. 28 (3): 263–268. doi:10.2307/2654137. JSTOR 2654137. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
  130. ^ Gender Articulated. Routledge. 1995. ISBN 978-0-415-91399-7. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2008.
  131. ^ Connell, R. (1987) Gender & Power. Polity Press, Cambridge. ISBN 0-8047-1430-4.
  132. ^ Satz, Debra (2004). “Feminist Perspectives on Reproduction and the Family”. Stanford Encyclopedia of Philosophy. Stanford University.
  133. ^ Lorber, J & Farrell, S (eds.) (1990) The Social Construction of Gender. Sage, Newbury Park. ISBN 0-8039-3956-6
  134. ^ Wearing, B (1996). Gender: The Pain and Pleasure of Difference. Longman, Melbourne ISBN 0-582-86903-X.
  135. ^ Acker, J. (1990). “Hierarchies, Jobs, Bodies: A Theory of Gendered Organizations” (PDF). Gender & Society. 4 (2): 139–158. CiteSeerX 10.1.1.693.1964. doi:10.1177/089124390004002002. JSTOR 189609.
  136. ^ Acker, J. (1990). “Hierarchies, Jobs, Bodies: A Theory of Gendered Organizations” (PDF). Gender & Society. 4 (2): 139–158. CiteSeerX 10.1.1.693.1964. doi:10.1177/089124390004002002. JSTOR 189609.
  137. ^ Deji, Olanike F. (2012) Gender Concepts and Theories. Gender and Rural Development. Berlin: Lit. N..
  138. ^ a b Glover, D and Kaplan, C (2000) Genders, Routledge, New York ISBN 0-415-44243-5, p. xxi.
  139. ^ Mikkola, Mari (ngày 12 tháng 5 năm 2008). “Feminist Perspectives on Sex and Gender”. Trong Zalta, Edward N. (biên tập). The Stanford Encyclopedia of Philosophy . Stanford University.
  140. ^ Lloyd, M. (1999). “Performativity, Parody, Politics”. Theory, Culture & Society. 16 (2): 195–213. doi:10.1177/02632769922050476.
  141. ^ “Your Behavior Creates Your Gender”. Big Think. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2020.
  142. ^ Ingraham, Chrys (1994). “The Heterosexual Imaginary: Feminist Sociology and Theories of Gender”. Sociological Theory. 12 (2): 203–219. CiteSeerX 10.1.1.470.737. doi:10.2307/201865. JSTOR 201865.
  143. ^ “Free & Equal Campaign Fact Sheet: Intersex” (PDF). United Nations Office of the High Commissioner for Human Rights. 2015. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2016.
  144. ^ “Kenya takes step toward recognizing intersex people in landmark ruling”. Reuters. ngày 5 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2021.
  145. ^ Asia Pacific Forum of National Human Rights Institutions (tháng 6 năm 2016). Promoting and Protecting Human Rights in relation to Sexual Orientation, Gender Identity and Sex Characteristics. Asia Pacific Forum of National Human Rights Institutions. ISBN 978-0-9942513-7-4. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2021.
  146. ^ Levin, Sam (ngày 15 tháng 6 năm 2017). 'Huge validation': Oregon becomes first state to allow official third gender option”. The Guardian. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
  147. ^ “Fact Sheet - California's Gender Recognition Act”. Transgender Law Center. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
  148. ^ Siegel, Rachel (ngày 21 tháng 6 năm 2017). “New gender-neutral identifiers on IDs signal to nonbinary D.C. residents that they belong”. The Washington Post. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
  149. ^ Kroulek, A. (ngày 18 tháng 1 năm 2016). Why do languages have gender? Retrieved ngày 12 tháng 3 năm 2018, from http://www.k-international.com/blog/why-do-languages-have-gender/ Lưu trữ 2021-05-11 tại Wayback Machine
  150. ^ Jason Moser (ngày 7 tháng 11 năm 2015). Sumerian Language? Retrieved ngày 1 tháng 1 năm 2020, from https://www.ancient.eu/Sumerian_Language
  151. ^ Register Retrieved ngày 1 tháng 1 năm 2020, from https://www.teachingenglish.org.uk/article/register
  152. ^ Schiebinger, Londa (2001). Has Feminism Changed Science?. Signs. 25 (ấn bản thứ 2). Cambridge, Mass.: Harvard University Press. tr. 1171–5. doi:10.1086/495540. ISBN 978-0-674-00544-0. PMID 17089478.
  153. ^ a b c Sheffield, Suzanne Le-May (2006). Women and Science: Social Impact and Interaction. New Brunswick, NJ: Rutgers University Press. tr. 129–134. ISBN 978-0-8135-3737-5.
  154. ^ Eisenhart, Margaret A.; Finkel, Elizabeth (1998). Women's Science: Learning and Succeeding from the Margins. Science Education. 84. Chicago: University of Chicago Press. tr. 34–36. Bibcode:2000SciEd..84..793A. doi:10.1002/1098-237X(200011)84:6<793::AID-SCE6>3.0.CO;2-K. ISBN 978-0-226-19544-5.
  155. ^ “Sustainable Development Goal 5: Gender equality”. UN Women (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2020.
  156. ^ Women More Religious than Men. yle.fi (ngày 29 tháng 8 năm 2010)
  157. ^ Vohra, Ashok (ngày 8 tháng 3 năm 2005), "The Male-Female Hologram," Times of India, p. 9.
  158. ^ a b Gender and Poverty Reduction Lưu trữ 2014-10-29 tại Wayback Machine. UNPD.org. ngày 29 tháng 10 năm 2014
  159. ^ Peterson, Janice (1987). “The Feminization of Poverty”. Journal of Economic Issues. 21 (1): 329–337. doi:10.1080/00213624.1987.11504613. JSTOR 4225831.
  160. ^ Stoiljkovic, Nena. Smart finance. D+C Development and Cooperation
  161. ^ Christopher, Karen, et. all. The Gender Gap in Poverty in Modern Nations: Single Motherhood, The Market, and the State. University of California Press.
  162. ^ a b Cagatay, Nilufer. "Trade, Gender and Poverty." pp. 4–8. United Nations.
  163. ^ Chant, Sylvia (2008). “The 'Feminisation of Poverty' and the 'Feminisation' of Anti-Poverty Programmes: Room for Revision?”. Journal of Development Studies. 44 (2): 165–197. doi:10.1080/00220380701789810.
  164. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2018.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  165. ^ “Transgender FAQ”. ngày 8 tháng 11 năm 2013.
  166. ^ a b c d Agnew, R. (2012). “Reflection on "A Revised Strain Theory of Delinquency". Social Forces. 91: 33–38. doi:10.1093/sf/sos117.
  167. ^ a b c Grothoff, G. E.; Kempf-Leonard, K.; Mullins, C. (2014). “Gender and Juvenile Drug Abuse: A General Strain Theory Perspective”. Women & Criminal Justice. 24: 22–43. doi:10.1080/08974454.2013.842519.
  168. ^ a b c Moon, B.; Blurton, D.; McCluskey, J.D. (2007). “General Strain Theory and Delinquency: Focusing on the Influences of Key Strain Characteristics on Delinquency”. Crime & Delinquency. 54 (4): 582–613. doi:10.1177/0011128707301627.
  169. ^ Adema, W., Ali, N., Frey, V., Kim, H., Lunati, M., Piacentini, M. and Queisser, M. (2014). Enhancing Women's Economic Empowerment Through Entrepreneurship and Business leadership in OECD Countries. OECD.
  170. ^ OECD, ILO, IMF and WBG, (2014). Achieving stronger growth by promoting a more genderbalanced economy. Report prepared for the G20 Labour and Employment Ministerial Meeting. Melbourne, Australia: G20 Labour and Employment Ministerial Meeting.
  171. ^ Muyoyeta, Lucy (2004). Women, Gender and Development (PDF). Zambia: Women for Change. ISBN 095351367X.
  172. ^ United Nations. Office of the Special Adviser on Gender Issues, & Advancement of Women (2002). Gender Mainstreaming an Overview (PDF). New York: United Nations Publications.
  173. ^ “Gender and the MDGS”. Overseas Development Institute. tháng 9 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2011.
  174. ^ IIEP Newsletter Lưu trữ 2011-07-16 tại Wayback Machine, Achieving Gender Equality in Education.
  175. ^ “Gender equity”. Food and Agriculture Organization. tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2021.
  176. ^ Gender Evaluation Methodology (GEM). genderevaluation.net
  177. ^ Olsson, Lennart et al. (2014) "Livelihoods and Poverty" Lưu trữ 2014-10-28 tại Wayback Machine, pp. 793–832 in Climate Change 2014: Impacts, Adaptation, and Vulnerability. Part A: Global and Sectoral Aspects. Contribution of Working Group II to the Fifth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. Ed. C.B. Field et al. Cambridge and New York: Cambridge University Press.
  178. ^ Birkmann, Joern et al. (2014)"Emergent Risks and Key Vulnerabilities" Lưu trữ 2014-09-23 tại Wayback Machine, pp. 1039–1099 in Climate Change 2014: Impacts, Adaptation, and Vulnerability. Part A: Global and Sectoral Aspects. Contribution of Working Group II to the Fifth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. Ed. C.B. Field et al. Cambridge and New York: Cambridge University Press.
  179. ^ Roehr, Ulrike (2007). "Gender, Climate Change and Adaptation. Introduction to the Gender Dimensions" Lưu trữ 2015-05-17 tại Library of Congress Web Archives. unep.org
  180. ^ a b MacGregor, S. (2010). “A stranger silence still: The need for feminist social research on climate change”. The Sociological Review. 57 (2_suppl): 124–140. doi:10.1111/j.1467-954X.2010.01889.x.
  181. ^ a b c Tuana, N. (2013). “Gendering Climate Knowledge for Justice: Catalyzing a New Research Agenda”. Research, Action and Policy: Addressing the Gendered Impacts of Climate Change. tr. 17–31. doi:10.1007/978-94-007-5518-5_2. ISBN 978-94-007-5517-8.
  182. ^ a b Boyd, Emily (2009). "The Noel Kempff Project in Bolivia: Gender, Power, and Decision-Making in Climate Mitigation", pp. 101–110 in Climate Change and Gender Justice. Geraldine Terry and Caroline Sweetman (eds.). Warwickshire: Practical Action Publishing, Oxfam GB.
  183. ^ Bamman, David; Eisenstein, Jacob; Schnoebelen, Tyler (tháng 4 năm 2014). “Gender identity and lexical variation in social media”. Journal of Sociolinguistics. 18 (2): 135–160. arXiv:1210.4567. doi:10.1111/josl.12080.
  184. ^ Clipson, T.W.; Wilson, S.A.; DuFrene, D.D. (ngày 14 tháng 10 năm 2011). “The Social Networking Arena: Battle of the Sexes”. Business Communication Quarterly. 75 (1): 64–67. doi:10.1177/1080569911423961.
  185. ^ Gourdreau, Jenna (ngày 26 tháng 4 năm 2010). “What men and women are doing on Facebook”. Forbes. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  186. ^ Tufekci, Zeynep (ngày 31 tháng 7 năm 2008). “Gender, social capital and social network(ing) sites: Women bonding, men searching”. American Sociological Association. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2016. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  187. ^ a b c d Tortajada-Giménez, Iolanda; Araüna-Baró, Núria; Martínez-Martínez, Inmaculada José (ngày 1 tháng 6 năm 2013). “Advertising Stereotypes and Gender Representation in Social Networking Sites”. Comunicar. 21 (41): 177–186. doi:10.3916/C41-2013-17.
  188. ^ Hodkinson, P. (ngày 22 tháng 9 năm 2015). “Bedrooms and beyond: Youth, identity and privacy on social network sites” (PDF). New Media & Society. 19 (2): 272–288. doi:10.1177/1461444815605454.
  189. ^ Rose, Jessica; Mackey-Kallis, Susan; Shyles, Len; Barry, Kelly; Biagini, Danielle; Hart, Colleen; Jack, Lauren (tháng 11 năm 2012). “Face it: The Impact of Gender on Social Media Images”. Communication Quarterly. 60 (5): 588–607. doi:10.1080/01463373.2012.725005.
  190. ^ Schwartz, HA; Eichstaedt, JC; Kern, ML; Dziurzynski, L; Ramones, SM; Agrawal, M; Shah, A; Kosinski, M; Stillwell, D (2013). “Personality, gender, and age in the language of social media: the open-vocabulary approach”. PLOS ONE. 8 (9): e73791. Bibcode:2013PLoSO...873791S. doi:10.1371/journal.pone.0073791. PMC 3783449. PMID 24086296.
  191. ^ Urista, M.A; Dong, Q; Day, K.D (2009). Explaining why young adults use MySpace and Facebook through uses and gratifications theory (ấn bản thứ 2). tr. 215–229.
  192. ^ Barker, V (2009). “Older adolescents' motivations for social network site use: The influence of gender, group identity, and collective self-esteem”. Cyberpsychology & Behavior: The Impact of the Internet, Multimedia and Virtual Reality on Behavior and Society (ấn bản thứ 2). CyberPsychology & Behavior. 12 (2): 209–213. doi:10.1089/cpb.2008.0228. PMID 19250021.
  193. ^ a b c de Ridder, Sander; van Bauwel, Sofie (ngày 1 tháng 1 năm 2015). “Youth and intimate media cultures: Gender, sexuality, relationships, and desire as storytelling practices in social networking sites” (PDF). Communications. 40 (3). doi:10.1515/commun-2015-0012.
  194. ^ a b Herring, Susan; Kapidzic, Sanja (2015). Teens, Gender, and Self-Presentation in Social Media (ấn bản thứ 2). International encyclopedia of social and behavioral sciences.
  195. ^ Malin, Sveningsson Elm (ngày 1 tháng 1 năm 2007). “Doing and undoing gender in a Swedish Internet community”. Cambridge. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2016.
  196. ^ The Role of Facebook in Romantic Relationship Development: An Exploration of Knapp's Relational Stage Model. Conference Papers – International Communication Association. 2012. tr. 1–32.
  197. ^ Gauntlett, D (ngày 18 tháng 3 năm 2008). Media, Gender and Identity: An Introduction. Media, Gender and Identity. ISBN 978-1-134-15502-6. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2016.
  198. ^ Herring, I. “Teens, Gender, and Self-Presentation in Social Media. Sciences” (PDF). Oxford. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2016.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Erga Kenesis Di Raskreia trong Noblesse
Nhân vật Erga Kenesis Di Raskreia trong Noblesse
Erga Kenesis Di Raskreia (Kor. 에르가 케네시스 디 라스크레아) là Lãnh chúa hiện tại của Quý tộc. Cô ấy được biết đến nhiều hơn với danh hiệu Lord hơn là tên của cô ấy.
[Genshin Impact] Giới thiệu Albedo - Giả thuật sư thiên tài
[Genshin Impact] Giới thiệu Albedo - Giả thuật sư thiên tài
Chuyện kể rằng, một ngày nọ, khi đến Mondstadt, anh ấy nhanh chóng được nhận làm "Hội Trưởng Giả Kim Thuật Sĩ" kiêm đội trưởng tiểu đội điều tra
Kỹ thuật Feynman có thể giúp bạn nhớ mọi thứ mình đã đọc
Kỹ thuật Feynman có thể giúp bạn nhớ mọi thứ mình đã đọc
Nhà vật lý đoạt giải Nobel Richard Feynman (1918–1988) là một chuyên gia ghi nhớ những gì ông đã đọc
Tóm tắt và phân tích tác phẩm
Tóm tắt và phân tích tác phẩm "Đồi thỏ" - Bản hùng ca về các chiến binh quả cảm trong thế giới muôn loài
Đồi thỏ - Câu chuyện kể về hành trình phiêu lưu tìm kiếm vùng đất mới của những chú thỏ dễ thương