Hồng Dân
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Hồng Dân | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | ||
Tỉnh | Bạc Liêu | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Ngan Dừa | ||
Trụ sở UBND | Đường Võ Thị Sáu, ấp Nội Ô, thị trấn Ngan Dừa | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 8 xã | ||
Thành lập | 16/10/2000 | ||
Đại biểu Quốc hội | Lê Thị Ngọc Linh Nguyễn Huy Thái | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Nguyễn Văn Thới | ||
Chủ tịch HĐND | Trương Sơn Tùng | ||
Chủ tịch UBMTTQ | Phạm Văn Mèo | ||
Bí thư Huyện ủy | Ngô Vũ Thăng | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 9°30′B 105°24′Đ / 9,5°B 105,4°Đ | |||
| |||
Diện tích | 423,79 km²[1] | ||
Dân số (31/12/2022) | |||
Tổng cộng | 131.960 người[1] | ||
Mật độ | 311 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh, Hoa, Khmer | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 956[2] | ||
Mã điện thoại | 291 | ||
Biển số xe | 94-F1 | ||
Website | hongdan | ||
Hồng Dân là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam.
Huyện Hồng Dân nằm ở phía bắc tỉnh Bạc Liêu, nằm cách thành phố Bạc Liêu khoảng 60 km, có vị trí địa lý:
Huyện Hồng Dân tương đối bằng phẳng và thấp, hướng nghiêng chính từ Tây Bắc xuống Đông Nam, cao độ trung bình khoảng 0,2 đến 0,8m, độ dốc trung bình 1 – 1,5 cm/km. Tuy nhiên, trên địa bàn huyện có khu vực trũng hơn so với mặt bằng chung từ 20 – 30 cm, tập trung chủ yếu ở một số ấp của các xã: Ninh Hòa, Ninh Quới, Ninh Quới A, Lộc Ninh, Ninh Thạnh Lợi, Vĩnh Lộc, Vĩnh Lộc A. Mặt khác, trên địa bàn huyện có nhiều ao, hồ, khu vực đất ruộng và nuôi tôm có nhiều mương rạch chia cắt, địa hình tuy thuận lợi cho thoát nước nhưng lại khó khăn trong xây dựng cơ bản.
Địa hình của huyện được chia ra 2 khu vực:
Đặc điểm khí hậu huyện Hồng Dân mang đặc thù chung của khí hậu gió mùa cận xích đạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long và những đặc trưng riêng khu vực Bán đảo Cà Mau. Các yếu tố khí hậu phân thành hai mùa rõ rệt trong năm là mùa mưa và mùa khô:
Địa bàn huyện chịu tác động mạnh của chế độ bán nhật chiều Biển Đông và nhật chiều của Biển Tây và liên quan chặt chẽ với chế độ mưa, gió, đặc điểm địa hình và thủy triều, trong đó thủy triều biển Đông có vai trò chủ chốt. Hồng Dân được hưởng lợi từ hệ thống kênh nguồn Quản Lộ – Phụng Hiệp, chạy từ phía Đông Bắc xuống Tây Nam. Chế độ thủy văn trên địa bàn huyện chi phối chủ yếu bởi hệ thống kênh rạch của hệ thống nối với kênh Quản Lộ – Phụng Hiệp. Hiện tại chế độ ngăn mặn trên địa bàn huyện được điều tiết để chuyển đổi sản xuất do đó, trên địa bàn huyện được chia thành 2 tiểu vùng cụ thể như sau:
Ngoài 2 tiểu vùng, chế độ thủy văn của huyện cần quan tâm đến 2 vấn đề quan trọng là:
Tác động của công trình thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé: Công trình cống Cái Lớn – Cái Bé kết hợp với hệ thống đê biển Tây sẽ góp phần chống biến đổi khí hậu, nước biển dâng, chống thiên tai, giảm ngập úng; giúp kiểm soát nguồn nước, điều tiết ngăn mặn, giữ ngọt, phục vụ sản xuất bền vững cho các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu,...
Đối với huyện Hồng Dân, cống Cái Lớn, Cái Bé sẽ giúp ngăn mặn từ Biển Tây, giữ nước ngọt trong nội địa, Hồng Dân sẽ tăng được diện tích sản xuất lúa, tôm ngay trong mùa khô.[3]
Nước mặt: Nguồn nước mặt trên địa bàn huyện được cung cấp bởi nước mưa và nước từ hệ thống kênh rạch:
Nước ngầm: Nước ngầm trên địa bàn huyện có 4 tầng có thể khai thác nằm ở độ sâu từ 100 – 500m. Hiện tại, tầng nước được khai thác và sử dụng ở độ sâu trung bình khoảng 100 – 150m, trữ lượng và chất lượng nước khá tốt. Trên địa bàn huyện, trữ lượng nước ở tầng có độ sâu trên 100m còn rất dồi dào, chất lượng nước tốt song ít được khai thác trong những năm qua, cần chú ý khai thác trong thời gian tới.[3]
Tài nguyên đất trên địa bàn huyện Hồng Dân có 3 nhóm chính: nhóm đất mặn (M), nhóm đất phèn (SP) và nhóm đất phù sa (P).
Huyện Hồng Dân có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Ngan Dừa (huyện lỵ) và 8 xã: Lộc Ninh, Ninh Hòa, Ninh Quới, Ninh Quới A, Ninh Thạnh Lợi, Ninh Thạnh Lợi A, Vĩnh Lộc, Vĩnh Lộc A với 71 ấp.
Bản đồ hành chính huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc huyện Hồng Dân | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đề án số 02/ĐA-UBND về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 – 2025 của tỉnh Bạc Liêu[1]
|
Huyện Hồng Dân được đặt theo tên Trần Hồng Dân (1916–1946), một nhà cách mạng theo chủ nghĩa dân tộc chống thực dân Pháp.
Huyện Hồng Dân được chính quyền cách mạng của lực lượng Việt Minh thành lập vào năm 1947, ban đầu thuộc tỉnh Rạch Giá, do đổi tên từ huyện Phước Long trước đó.
Năm 1952, huyện Hồng Dân được giao cho tỉnh Bạc Liêu.
Tháng 10 năm 1954, huyện Hồng Dân trở lại thuộc tỉnh Rạch Giá.
Tháng 10 năm 1957, huyện Hồng Dân thuộc tỉnh Sóc Trăng.
Tháng 11 năm 1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ ban hành Quyết định về việc tái lập tỉnh Bạc Liêu. Khi đó huyện Hồng Dân lại thuộc tỉnh Bạc Liêu cho đến năm 1976.
Tuy nhiên, chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng hòa không công nhận tên gọi Hồng Dân mà thay vào đó, vẫn sử dụng tên gọi quận Phước Long như cũ cho đến năm 1975.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đã giải thể quận Phước Long, đồng thời vẫn duy trì huyện Hồng Dân thuộc tỉnh Bạc Liêu cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Tháng 2 năm 1976, Hồng Dân trở thành huyện thuộc tỉnh Minh Hải.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 326-CP[4] về việc thành lập huyện Phước Long trên cơ sở 19 xã, 1 thị trấn của huyện Hồng Dân.
Huyện Hồng Dân còn lại 16 xã, 1 thị trấn huyện lỵ.
Ngày 25 tháng 7 năm 1979, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 275-CP[5] về việc:
Ngày 17 tháng 5 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 75-HĐBT[6] về việc sáp nhập huyện Phước Long vào huyện Hồng Dân, tỉnh Minh Hải.
Huyện Hồng Dân gồm có 24 xã: Vĩnh Lộc, Vĩnh Hiếu, Ninh Thuận, Ninh Thạnh Lợi, Ninh Lợi, Lộc Ninh A, Lộc Ninh B, Vĩnh Trung, Ninh Hoà, Hoà Lợi, Ninh Quới A, Ninh Quới B, Phong Dân, Phong Hoà, Phong Hiệp, Phước Tây, Phước Long, Vĩnh Hồng, Vĩnh Tiến, Vĩnh Thành, Vĩnh Phú Đông, Đông Phú, Đông Nam, Hưng Phú và 2 thị trấn: Phước Long, Ngan Dừa. Huyện lỵ đóng tại thị trấn Phước Long.
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 33B-HĐBT[7] về việc:
Ngày 9 tháng 11 năm 1990, Ban Tổ chức Chính phủ ban hành Quyết định số 483/QĐ-TCCP[8] về việc:
Huyện Hồng Dân lúc này gồm có 2 thị trấn: Ngan Dừa, Phước Long và 11 xã: Hưng Phú, Lộc Ninh, Ninh Hòa, Ninh Quới, Ninh Thạnh Lợi, Phong Thạnh Nam, Phước Long, Vĩnh Lộc, Vĩnh Phú Đông, Vĩnh Phú Tây, Vĩnh Thanh.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết[9] về việc chia tỉnh Minh Hải thành tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau. Khi đó, huyện Hồng Dân trực thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Ngày 25 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/1999/NĐ-CP[10] về việc thành lập xã Ninh Quới A trên cơ sở 3.691 ha diện tích tự nhiên và 14.047 nhân khẩu của xã Ninh Quới.
Cuối năm 1999, huyện Hồng Dân có 2 thị trấn: Ngan Dừa, Phước Long và 12 xã: Hưng Phú, Lộc Ninh, Ninh Hòa, Ninh Quới, Ninh Quới A, Ninh Thạnh Lợi, Phong Thạnh Nam, Phước Long, Vĩnh Lộc, Vĩnh Phú Đông, Vĩnh Phú Tây, Vĩnh Thanh.
Ngày 25 tháng 9 năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2000/NĐ-CP[11] về việc thành lập huyện Phước Long trên cơ sở 40.482 ha diện tích tự nhiên và 101.322 nhân khẩu của huyện Hồng Dân.
Huyện Phước Long có 40.482 ha diện tích tự nhiên và 101.322 nhân khẩu; có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 6 xã: Phong Thạnh Nam, Phước Long, Vĩnh Phú Tây, Vĩnh Thanh, Vĩnh Phú Đông, Hưng Phú và thị trấn Phước Long.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập huyện Phước Long, huyện Hồng Dân có 42.118 ha diện tích tự nhiên và 91.306 nhân khẩu; có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 6 xã: Vĩnh Lộc, Ninh Thạnh Lợi, Lộc Ninh, Ninh Hòa, Ninh Quới, Ninh Quới A và thị trấn Ngan Dừa (thị trấn huyện lỵ).
Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 166/2003/NĐ-CP[12] về việc thành lập xã Vĩnh Lộc A trên cơ sở 4.237,10 ha diện tích tự nhiên và 9.314 nhân khẩu của xã Vĩnh Lộc.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 85/2008/NĐ-CP[13] về việc thành lập xã Ninh Thạnh Lợi A trên cơ sở điều chỉnh 6.687,25 ha diện tích tự nhiên và 7.146 nhân khẩu của xã Ninh Thạnh Lợi.
Sau khi điều chỉnh, huyện Hồng Dân có 42.361 ha diện tích tự nhiên và 100.997 nhân khẩu, có 9 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm: thị trấn Ngan Dừa và 8 xã: Ninh Quới, Ninh Quới A, Ninh Hòa, Vĩnh Lộc, Vĩnh Lộc A, Lộc Ninh, Ninh Thạnh Lợi, Ninh Thạnh Lợi A.
Thực hiện 9 tháng đầu năm 2021 tổng giá trị sản xuất nông nghiệp – thủy sản 6.145 tỷ đồng đạt 87,36% kế hoạch; thương mại – dịch vụ 4.162 tỷ đồng đạt 68,01% kế hoạch; công nghiệp- xây dựng 489 tỷ đồng,l đạt 72,14% kế hoạch.[3]
Tổng giá trị sản xuất (theo gia so sánh năm 2010) 7.479 tỷ đồng, trong đó ngành nông nghiệp – thủy sản 5.222 tỷ đồng, thương mại – dịch vụ 1.397 tỷ đồng, công nghiệp – xây dựng 860 tỷ đồng. Mức tăng trưởng kinh tế năm 2021 là 9,1% (chỉ tiêu 10,5%).[3]
Sản xuất nông nghiệp: Năm 2021, trên địa bàn huyện Hồng Dân sản xuất lúa với diện tích canh tác 34.014 ha (tăng 1.471 ha so với năm 2020), diện tích gieo trồng lúa 43.253 ha (đạt 100% kế hoạch và 104,13% cùng kỳ), sản lượng lúa 281.335 tấn (tăng 17.172 tấn so với cùng kỳ). Sản xuất các trà lúa cụ thể như sau:
Nuôi trồng thủy sản: Toàn huyện có 36.872 ha đất nuôi trồng thủy sản (tăng 1.147 ha cùng kỳ, đạt 100% kế hoạch), trong đó diện tích nuôi tôm 26.262 ha (tôm – lúa 24.775 ha, chuyên tôm kết hợp cua – cá 1.487 ha), cá ao đìa 610 ha. Tổng sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản 49.112 tấn (đạt 100,02% so với kế hoạch và bằng 111,61% với cùng kỳ). Trong đó: sản lượng tôm 15.012 tấn (đạt 100,08 % kế hoạch).[3]
Chăn nuôi: Tiếp tục chỉ đạo triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm theo khuyến cáo của ngành chuyên môn. Tổng đàn gia súc 58.360 con, gia cầm 883.902 con). Công tác kiểm soát giết mổ và các biện pháp phòng, chống nên dịch bệnh cơ bản được thực hiện đúng quy định.[3]
Công tác xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu: Chỉ đạo công tác xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng của huyện góp phần phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở đã tập trung chỉ đạo quyết liệt nhằm đạt yêu cầu kế hoạch đề ra.[3]
Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP): Hiện có 5 sản phẩm được tỉnh công nhận: Gạo Một bụi đỏ, chả cá thát lát, cá thát lát xã nghệ, chả lụa, khô trâu. Huyện đang chỉ đạo ngành chuyên môn hướng dẫn chủ thể của sản phẩm thủ công mỹ nghệ đan đát tre, trúc (xã Ninh Thạnh Lợi A) hoàn thiện thủ tục trình Hội đồng đánh giá, xếp hạng sản phẩm tham gia chương trình OCOP của huyện.[3]
Dịch vụ – thương mại: Cũng bị tác động tiêu cực do dịch bệnh Covid-19. Tuy nhiên, hoạt động thương mại – dịch vụ vẫn được đảm bảo khá tốt, hàng hóa trên địa bàn phong phú đa dạng, cung – cầu các hàng hóa thiết yếu được đảm bảo, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vật tư, hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Gắn mới điện kế trong năm cho 1.132 hộ, nâng số hộ sử dụng điện an toàn từ các nguồn là 27.714 hộ đạt 100%.[3]
Đầu tư – xây dựng:
Năm 2021, thành lập mới 9 doanh nghiệp, tổng số doanh nghiệp trên địa bàn huyện có 141 doanh nghiệp (trong đó chi nhánh 12 doanh nghiệp); cấp mới 247 giấy phép kinh doanh cho hộ gia đình; thành lập mới 3 HTX; tổng số HTX trên địa bàn huyện có 38 hợp tác xã (trong đó 34 HTX hoạt động lĩnh vực nông nghiệp và 4 HTX hoạt động phi nông nghiệp); tổng số tổ hợp tác hiện có 147 tổ với 6.615 thành viên.[3]
Cơ sở vật chất trường lớp và xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia: Toàn huyện có 43 trường, trong đó: Trung học phổ thông 3 trường; Trung học cơ sở 9 trường; Tiểu học 20 trường và mầm non 11 trường; có 836 phòng học (gồm Mầm non; Tiểu học và Trung học cơ sở) và 278 phòng chức năng; toàn huyện có 31 trường đạt chuẩn quốc gia.[3]
Các trạm y tế đều có bác sĩ về phục vụ, có 9/9 trạm y tế xã đạt chuẩn Quốc gia; đầu tư xây dựng hoàn thành Bệnh viện đa khoa với 100 giường.
Mạng lưới bưu chính viễn thông được mở rộng, bình quân 4,9 hộ dân/máy điện thoại.
Tỷ lệ hộ dùng điện đạt 98,3%; phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được phát triển.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định.
|
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu |
Huyện Hồng Dân có diện tích tự nhiên là 423,95 km², dân số năm 2018, dân số 109.993 người: trong đó, dân tộc Kinh là 94.404 người chiếm 85,89%, dân tộc Khmer là 14.154 người chiếm 12,93%, dân tộc Hoa là 1.275 người chiếm 1,16% và dân tộc khác 23 người chiếm 0,02%. Trong đó, dân số sống ở thành thị là 12.413 người chiếm tỉ lệ 11,29% và dân số sống ở nông thôn là 97.850 người chiếm tỉ lệ 88,71%, mật độ dân số là 259 người/km².
Theo thống kê năm 2019, huyện Hồng Dân có diện tích 423,95 km², dân số là 111.972 người, mật độ dân số đạt 264 người/km².[14][15]
Năm 2020, dân số toàn huyện Hồng Dân là 112.548 người, trong đó, dân số thành thị là 11.537 người chiếm 10,25%, dân số nông thôn là 101.011 người chiếm 89,75%.[16]
Tổng dân số năm 2020 toàn huyện là 112.548 người, chiếm 12,32% dân số toàn tỉnh, mật độ dân số 265 người/km². Xã có dân số cao nhất là Ninh Hoà với 19.255 người (chiếm 17,11% dân số toàn huyện), Ninh Quới A 16.041 người (chiếm 14,25%), thấp nhất là xã Ninh Thạnh Lợi A 9.671 người (chiếm 8,59%).[3]
Năm 2020, tổng số lao động trong độ tuổi toàn huyện là 64.718 người (chiếm 57,5% tổng dân số), trong đó đang làm việc trong các ngành kinh tế 62.583 người, chiếm 96,7% lao động trong độ tuổi.[3]
Cơ cấu lao động trong giai đoạn 2015 – 2020 chuyển đổi theo hướng tích cực:
Giai đoạn 2016 – 2020 số lao động được đào tạo nghề 22.209 người, số lao động được giải quyết việc làm 15.690 người, tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn huyện đạt 63,58%.[3]
Theo thống kê ngày 1 tháng 11 năm 2021, dân số huyện Hồng Dân là 113.351 người, trong đó: dân số thành thị là 11.616 (10,25%), dân số nông thôn là 101.735 người (89,75%).[17]
Huyện Hồng Dân có diện tích 423,79 km², dân số quy đổi tính đến ngày 31/12/2022 là 131.960 người,[1] mật độ dân số đạt 311 người/km².
Công tác thông tin, tuyên truyền đã kịp thời thông tin các tin tức, sự kiện quan trọng của đất nước như kỷ niện 91 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2021); tuyên truyền Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII nhiệm kỳ 2020 - 2025 và Kỷ niệm 46 năm giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước và tuyên truyền về công tác bầu cử địa biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Đồng thời thường xuyên tuyên truyền công tác phòng, chống dịch bệnh Covid – 19 trên địa bàn huyện.[3]
Các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí tại các địa điểm công cộng và hoạt động của các cơ sở kinh doanh dịch vụ đều chấp hành tốt các biện pháp phòng chống dịch theo quy định.[3]
Công tác xây dựng đời sống văn hóa, gia đình văn hóa, ấp văn hóa, cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa được thực hiện thường xuyên.[3]
Đến năm 2020, huyện Hồng Dân có 1 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh và 2 di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia.
Danh sách di tích lịch sử của huyện Hồng Dân | |||||
---|---|---|---|---|---|
STT | Tên di tích | Năm xây dựng | Địa chỉ | Đơn vị công nhận | Hình |
Di tích cấp Quốc gia | |||||
1 | Khu căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu (1973 – 1975) | 1973 | Xóm Cái Chanh Nhỏ, ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi |
|
|
2 | Chùa Kosthum (Chùa Kro Pum Mean Chey Kos Thum hay chùa Cỏ Thum) | 1832 | Ấp Kosthum, xã Ninh Thạnh Lợi | Bộ VHTT xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa năm 2006 | |
Di tích cấp Tỉnh | |||||
1 | Sự kiện lịch sử Ninh Thạnh Lợi năm 1927 | Ấp Chủ Trọt, xã Ninh Thạnh Lợi | UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2006 | ||
Nguồn: Danh sách các di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Bạc Liêu[18] |
Bên cạnh đó, Hồng Dân là nơi tập trung nhiều làng nghề truyền thống như: Làng hoa và cây ăn quả, làng nghề ở xã Ninh Hòa và thị trấn Ngan Dừa; tuyến du lịch sinh thái từ Ngan Dừa – Vĩnh Lộc – Vĩnh Lộc A – Vàm Chắc Băng. Trong đó, Vĩnh Lộc là điểm dừng chân lý tưởng với những cánh đồng tôm, lúa mênh mông.[3]
Ngoài ra, huyện Hồng Dân còn có nhiều chùa Khmer, nhà thờ, chùa chiền, thánh thất, góp phần làm phong phú hoạt động văn hóa tâm linh của người dân và du khách.[3]
Huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.