Bạc Liêu
|
|||
---|---|---|---|
Thành phố thuộc tỉnh | |||
Thành phố Bạc Liêu | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | ||
Tỉnh | Bạc Liêu | ||
Trụ sở UBND | 12 Trần Phú, khóm 1, phường 3 | ||
Phân chia hành chính | 7 phường, 3 xã | ||
Thành lập | 27/8/2010[1] | ||
Loại đô thị | Loại II | ||
Năm công nhận | 2014[2] | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Lê Kim Thúy | ||
Chủ tịch HĐND | Trà Văn Bắc | ||
Bí thư Thành ủy | Huỳnh Hữu Trí | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 9°16′5″B 105°45′6″Đ / 9,26806°B 105,75167°Đ | |||
| |||
Diện tích | 213,72 km²[3] | ||
Dân số (31/12/2022) | |||
Tổng cộng | 168.463 người[3] | ||
Mật độ | 788 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh, Hoa, Khmer,... | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 954[4] | ||
Mã điện thoại | 291 | ||
Biển số xe | 94-K1/K2 | ||
Website | tpbl | ||
Bạc Liêu là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam. Thành phố nằm ở phía đông tỉnh Bạc Liêu, bên bờ rạch Bạc Liêu. Trung tâm thành phố cách biển 10 km và là trung tâm hành chính và đầu mối giao lưu trong và ngoài tỉnh, cơ cấu kinh tế của thành phố là thương mại - dịch vụ - công nghiệp và nông nghiệp. Hiện nay, thành phố Bạc Liêu là đô thị loại II.
Thành phố Bạc Liêu nằm ở vị trí địa lý từ 9°16'05 vĩ độ Bắc 105°45'06 kinh độ Đông. Thành phố Bạc Liêu nằm ở phía đông tỉnh Bạc Liêu, có vị trí địa lý:
Thành phố Bạc Liêu có địa hình tương đối bằng phẳng và thấp, hướng nghiêng chính từ Tây Bắc xuống Đông Nam, cao độ trung bình khoảng 0,2 – 0,8 m, độ dốc trung bình 1–1,5 cm/km. Trên địa bàn thành phố có nhiều ao, hồ, khu vực đất ruộng và đầm nuôi tôm có nhiều mương rạch chia cắt, nên rất thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Địa hình chính chia thành hai khu vực như sau:
Nhìn chung, với địa hình bằng phẳng, không chênh lệch quá lớn về độ cao, thành phố Bạc Liêu có nhiều thuận lợi trong việc phát triển các ngành thuộc các lĩnh vực như: phát triển công nghiệp thương mại, dịch vụ – du lịch, sản xuất nông nghiệp nhất là nuôi trồng thủy sản.[5]
Thành phố nói riêng và tỉnh Bạc Liêu nói chung mang đặc thù chung của khí hậu gió mùa cận xích đạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long và những đặc trưng riêng khu vực Bán đảo Cà Mau. Các yếu tố khí hậu phân thành hai mùa rõ rệt trong năm là mùa mưa và mùa khô.
Nhiệt độ: Nền nhiệt của thành phố bình quân cao đều trong năm, trung bình là 26,6°C. Nhiệt độ trung bình cao nhất là 29,8°C và thấp nhất là 24,9°C. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa khô là 26–28°C, các tháng mùa mưa là 24–26°C. Biên độ nhiệt giữa các tháng không đáng kể, chỉ từ 1–2°C, nhưng biên độ nhiệt giữa ngày và đêm khá lớn (mùa khô từ 8–10°C, mùa mưa từ 6–7°C), yếu tố nhiệt độ này thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Mưa: Chế độ mưa được phân hoá thành 2 mùa rõ rệt, sự thay đổi lượng mưa giữa các tháng trong năm tương đối phức tạp nhưng mức độ biến động không lớn, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 với lượng mưa chiếm tới 90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình năm là 1.874,4 mm, phân bố không đều theo thời gian ngay cả trong các tháng của mùa mưa, lượng mưa tập trung chủ yếu ở các tháng 8–10 với lượng mưa từ 235 đến 260 mm, có tháng mưa trên 265 mm. Số ngày mưa trung bình khoảng 110–120 ngày/năm. Lượng mưa đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp và một phần cho sinh hoạt, tuy nhiên lượng mưa tập trung lớn, kéo dài cũng làm giảm độ mặn ảnh hưởng xấu đến vùng nuôi tôm, giảm tiến độ đầu tư xây dựng cơ bản, tăng chi phí đầu tư xây dựng.
Nắng: Số giờ nắng trung bình là 6,6 giờ/ngày, độ ẩm trung bình đạt 85%. Tổng tích ôn từ 9.750°C đến 9.850°C, thời gian chiếu sáng kéo dài bình quân 2.202 giờ/năm, tổng lượng bức xạ trung bình năm khoảng 4,46 kcal/cm²/năm. Lượng nước bốc hơi trung bình hàng năm là 1.233 mm, các tháng có lượng bốc hơi lớn nhất là các tháng mùa khô (694 mm, bằng 56% lượng bốc hơi cả năm). Độ ẩm không khí trung bình đạt 85% và trong các tháng mùa khô 79–80%.
Gió: Trong năm thường xuất hiện 3 hướng gió chính, tốc độ gió bình quân đạt khoảng 3–3,5 m/s, mùa khô có gió mạnh đạt 8–9 m/s. Gió Đông Nam khô và nóng thường xuất hiện từ tháng 1 đến tháng 4; gió Tây Nam thổi từ biển vào mang theo nhiều hơi nước thường xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 10; còn gió Đông Bắc khô và lạnh thường xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 12. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển năng lượng điện gió trên địa bàn tỉnh.
Nhìn chung, với nền nhiệt cao và đều trong năm, nhiều nắng, mưa theo mùa và không có bão, điều kiện khí hậu của Bạc Liêu khá thuận lợi cho việc phát triển các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp.[5]
Dữ liệu khí hậu của TP. Bạc Liêu | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 24.9 (76.8) |
25.4 (77.7) |
27.4 (81.3) |
28.9 (84.0) |
29.7 (85.5) |
27.9 (82.2) |
28.3 (82.9) |
28.0 (82.4) |
27.8 (82.0) |
28.0 (82.4) |
28.1 (82.6) |
27.3 (81.1) |
27.6 (81.7) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 1.1 (0.04) |
— | — | 28.0 (1.10) |
155.0 (6.10) |
344.8 (13.57) |
320.9 (12.63) |
272.8 (10.74) |
313.3 (12.33) |
183.5 (7.22) |
96.8 (3.81) |
29.9 (1.18) |
— |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) | 82 | 77 | 77 | 76 | 77 | 85 | 84 | 85 | 85 | 84 | 80 | 81 | 81 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 245.9 | 275.5 | 308.8 | 304.7 | 279.2 | 181.2 | 199.4 | 219.5 | 185.6 | 212.1 | 233.5 | 262.1 | 242.3 |
Nguồn: Vietnam Institute for Building Science and Technology[6] |
Chế độ thủy văn của thành phố phụ thuộc chủ yếu vào chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông (biên độ triều khoảng 2,8–2,9 m), đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp cùng các yếu tố: chế độ mưa, gió, đặc điểm địa hình và thủy triều. Từ khi hoàn thành các cống ngăn mặn dọc theo Quốc lộ 1, do quy mô diện tích truyền triều bị thu hẹp, mức ngập triều ở vùng Nam Quốc lộ 1 nói chung và thành phố Bạc Liêu nói riêng cao hơn trước, tạo thuận lợi cho việc dẫn nước mặn vào các khu vực nuôi tôm, làm muối. Lượng phù sa khá cao làm cho hệ thống kênh rạch và các vùng nuôi tôm bị bồi lắng nhanh, nên công tác chủ động điều tiết thủy lợi gặp nhiều khó khăn.
Trong những năm gần đây, do hệ thống đê và cống ngăn mặn khá hoàn chỉnh dọc theo Quốc lộ 1 và sông Bạc Liêu nên tình trạng xâm nhập mặn đã giảm đáng kể ở khu vực phía Bắc. Hiện nay, khả năng điều tiết nguồn nước mặn – ngọt đang từng bước được cải thiện để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản trên cả hai vùng phía Bắc và Nam Quốc lộ 1, kênh Bạc Liêu - Cà Mau theo hướng quy hoạch chuyển đổi sản xuất trên địa bàn toàn tỉnh (gồm cả thành phố Bạc Liêu).
Trong mùa khô, độ mặn nước sông và nước trong các ruộng tôm tăng cao, thường ở những vùng cửa sông nước có độ mặn cao hơn, càng sâu vào trong nội đồng độ mặn càng giảm. Vào mùa mưa, độ mặn giảm nhanh cả nước sông và trong các đầm nuôi tôm. Do đó, một số tiểu vùng ở các xã ngoại thị và các phường 7, 8 có điều kiện rửa mặn, giữ ngọt tốt có thể sản xuất luân canh một vụ lúa trên đất nuôi tôm trong mùa mưa.
Thời gian tới, để giải quyết việc cung cấp và thoát nước tốt cho nuôi trồng thủy sản, thành phố cần quan tâm đầu tư nạo vét hệ thống thủy nông và đê bao hoàn chỉnh để chủ động điều tiết nguồn nước, phục vụ tốt cho canh tác và nuôi trồng thủy, hải sản.[5]
TP. Bạc Liêu có nhiều sông, kênh, rạch như: sông Bạc Liêu, kênh 30-4,... đáp ứng được nguồn cung cấp nước cho hoạt động nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và tiêu, thoát nước trong khu vực đô thị.
Xâm nhập mặn do tác động trực tiếp của chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông. Trong những năm gần đây, do hệ thống đê và cống ngăn mặn khá hoàn chỉnh dọc theo Quốc lộ 1 và sông Bạc Liêu nên tình trạng xâm nhập mặn đã giảm đáng kể ở khu vực phía Bắc.
Hiện nay, khả năng điều tiết nguồn nước mặn – ngọt đang từng bước được cải thiện để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản trên cả hai vùng phía Bắc và Nam Quốc lộ 1, kênh Bạc Liêu - Cà Mau theo hướng quy hoạch chuyển đổi sản xuất trên địa bàn toàn tỉnh (gồm cả thành phố Bạc Liêu). Trong mùa khô, độ mặn nước sông và nước trong các ruộng tôm tăng cao, thường ở những vùng cửa sông nước có độ mặn cao hơn, càng sâu vào trong nội đồng độ mặn càng giảm. Trái lại vào mùa mưa, độ mặn giảm nhanh (cả nước sông và trong các đầm nuôi tôm). Do đó, một số tiểu vùng ở các xã ngoại thị và các phường 7, 8 có điều kiện rửa mặn, giữ ngọt tốt có thể sản xuất luân canh một vụ lúa trên đất nuôi tôm trong mùa mưa.[5]
Theo số liệu thống kê đất đai năm 2020, thành phố Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 21.371,61 ha, chiếm 8% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Bạc Liêu. Tài nguyên đất trên địa bàn thành phố Bạc Liêu có 3 nhóm chính với 8 loại đất như sau:
1. Nhóm đất cát: Có diện tích 1.555 ha, chiếm 10,08% diện tích tự nhiên của thành phố, phân bố chủ yếu nơi địa hình trung bình–cao, có khả năng tiêu thoát nước, tập trung chủ yếu ở xã Vĩnh Trạch Đông và phường Nhà Mát với 2 loại đất như sau:
Nhóm đất cát có trên địa bàn thành phố Bạc Liêu chiếm tỷ lệ nhỏ, độ phì thấp, thành phần cơ giới nhẹ, điều kiện tưới tiêu tương đối thuận lợi, thích hợp cho cây ăn trái (nhãn,...), cây lâu năm hoặc trồng xen các loại cây rau màu.
2. Nhóm đất mặn: Có diện tích 9.606 ha, chiếm 62,25% diện tích tự nhiên của thành phố. Đất mặn được hình thành và phát triển trên các trầm tích biển, sông biển hỗn hợp và trầm tích biển–đầm lầy, tuổi Holocence. Đất chịu ảnh hưởng mặn của nước biển do thủy triều hoặc do mao dẫn đưa muối từ các tầng đất phía dưới lên bề mặt. Trên địa bàn thành phố Bạc Liêu nhóm đất mặn được phân chia ra các đơn vị đất sau:
3. Nhóm đất phèn: Đất phèn có diện tích 2.843 ha, chiếm 18,42% diện tích tự nhiên của thành phố, tập trung ở địa hình thấp, có các đơn vị đất như sau:
Ngoài các loại đất nêu trên, Bạc Liêu còn có khoảng 5.941,11 ha diện tích không điều tra chủ yếu đất sông, rạch, kênh, mương chiếm 27,79% tổng diện tích tự nhiên, cung cấp lượng nước mặt khá tốt cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt hằng ngày của người dân. Thực tế cho thấy, nền thổ nhưỡng trên địa bàn thành phố Bạc Liêu tuy còn những hạn chế, nhưng trên phương diện tổng thể thì đất đai của thành phố tương đối tốt, thích hợp cho việc đầu tư phát triển nông nghiệp lẫn phi nông nghiệp.[5]
Nước mặt: Nguồn nước mặt trên địa bàn thành phố Bạc Liêu chia làm hai khu vực sau:
Chất lượng nước mặt (sông rạch, ao, hồ, nước mưa) cũng diễn biến theo mùa. Lượng nước mưa trên địa bàn tỉnh tập trung 90% vào mùa mưa, do đó mùa mưa nước ngọt chiếm ưu thế, tuy nhiên vào đầu và cuối mùa mưa nước thường bị chua phèn. Mùa khô nước thường bị ảnh hưởng bởi tình trạng xâm nhập mặn.
Nguồn nước mặt hiện nay được xem là nguồn nước chủ lực phục vụ tưới cho hầu hết diện tích gieo trồng của thành phố. Ngoài việc sử dụng nguồn nước mặt cho sản xuất nông nghiệp và các lĩnh vực sản xuất khác, nguồn nước mặt còn là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu cho các hộ dân, cho các nhà máy chế biển thủy sản, nuôi trồng thủy sản,...
Nước mặn: Đây là nguồn nước được đưa vào từ biển hoặc được pha trộn với nguồn nước mưa. Nước mặn không thích hợp đối với cây, con nước ngọt, ngược lại nước mặn lại là nguồn tài nguyên quý giá để phát triển nuôi trồng thủy sản, làm muối, phát triển rừng ngập mặn,... Trên thực tế ngành thủy sản đã và đang là ngành kinh tế mũi nhọn có những đóng góp lớn cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc Liêu nói chung và thành phố Bạc Liêu nói riêng trong những năm vừa qua.
Nước ngầm: Nguồn nước ngầm trên địa bàn thành phố khá phong phú với 4 phức hệ thủy văn chứa nước ở các mức độ khác nhau:
Theo thống kê, toàn tỉnh Bạc Liêu có có 78 loài thực vật thuộc 38 họ, chủ yếu là cây đước (Rhizophoraceae), vẹt (Bruquiera), mấm (Avicennia marina), dà (Ceriops); động vật có 3 loài thú, 8 loài bò sát và lưỡng cư, 80 loài chim đầm lầy (chim nước), 25 loài tôm và 258 loài cá nước mặn,... Bên cạnh đó, toàn tỉnh hiện có 2 vườn chim do nhà nước quản lý và các vườn chim tư nhân quản lý, phân bố tại huyện Phước Long, Đông Hải và thị xã Giá Rai với đa dạng sinh học phong phú.
Trong khi đó, tài nguyên sinh học khu vực thực hiện dự án chia làm 2 vùng đặc trưng:
Trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu nói chung, thành phố Bạc Liêu nói riêng hầu như không có các loại tài nguyên khoáng sản có giá trị kinh tế và trữ lượng để đảm bảo khai thác công nghiệp.
Chỉ có vài loại khoáng sản vật liệu xây dựng với trữ lượng không lớn như cát san lấp, sét, gạch ngói, sa khoáng,...
Tổng diện tích đất lâm nghiệp của thành phố năm 2020 là 557,60 ha, chiếm 2,61% tổng diện tích tự nhiên, trong đó chủ yếu là rừng trồng phòng hộ ven biển là 434,89 ha. Rừng phòng hộ của thành phố Bạc Liêu phát triển dọc theo 12,50 km bờ biển với chiều rộng trung bình khoảng 500 m, tập trung chủ yếu ở xã Vĩnh Trạch Đông, xã Hiệp Thành và phường Nhà Mát. Quy mô diện tích rừng ở Bạc Liêu tuy không lớn nhưng có vai trò rất quan trọng nên được xếp vào loại rừng "phòng hộ rất xung yếu". Thực tế những năm qua đã chứng minh, rừng phòng hộ có tác dụng rất lớn đối với việc chắn sóng, chắn gió bảo vệ đê và vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản phía trong đê.
Ngoài diện tích rừng phòng hộ ven biển, thành phố Bạc Liêu có vườn chim Bạc Liêu nằm trong diện tích đất rừng đặc dụng. Nhiều loại cây ở vườn chim có nguồn gốc từ rừng ngập mặn ven biển, quá trình bồi đắp và lấn biển làm cho khu rừng ngày càng ở sâu trong nội địa và trở thành nơi cư trú của rất nhiều loài chim và các động vật khác. Ngoài ý nghĩa quan trọng về bảo vệ cảnh quan môi trường, bảo tồn nguồn gen, rừng đặc dụng của sân chim Bạc Liêu còn là nơi hấp dẫn đối với khách du lịch và các nhà nghiên cứu khoa học.[5]
Thành phố Bạc Liêu có 12,5 km bờ biển với vùng lãnh hải và thềm lục địa trải rộng. Vùng bãi triều là khu vực sinh sản của động vật hai mảnh vỏ như nghêu, sò,... Thành phố có cửa kênh 30/4 thông ra biển Đông tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cảng cá và khu neo đậu tàu trú bão.
Theo tài liệu, số liệu điều tra, vùng biển của thành phố Bạc Liêu nói riêng và tỉnh nói chung có hệ sinh thái đa dạng với trữ lượng hải sản lớn, phong phú về chủng loại với trên 600 loài cá, 33 loài tôm và hàng trăm loại mực cùng động vật nhuyễn thể khác. Nhiều loại hải sản có trữ lượng lớn và có giá trị kinh tế cao như: tôm, cá hồng, cá gộc, cá sao, cá thu, cá chim, cá đường,... Theo kết quả khảo sát của ngành thủy sản, trữ lượng cá, tôm của khu vực này vào khoảng 250 nghìn tấn, hàng năm có thể khai thác 50–60 nghìn tấn. Khu vực nước lợ ven biển tạo thành vùng sinh thái đặc thù có tiềm năng cho phát triển nuôi trồng thủy sản.
Ngoài nguồn lợi thủy sản, biển còn cung cấp lượng muối quan trọng cho công nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Vào mùa khô, độ mặn nước biển lên tới 30‰, năng suất muối đạt 10–15 tấn/ha. Ngoài ra nguồn nước biển cũng là tài nguyên quý cho sự phát triển rừng phòng hộ ven biển.
Trong những năm qua, nhờ khai thác hợp lý tài nguyên biển và ven biển, kinh tế thủy sản đã trở thành ngành mũi nhọn xuất khẩu và là động lực thúc đẩy phát triển toàn bộ nền kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc Liêu nói chung và của thành phố nói riêng.[5]
Thành phố Bạc Liêu có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 7 phường: 1, 2, 3, 5, 7, 8, Nhà Mát và 3 xã: Hiệp Thành, Vĩnh Trạch, Vĩnh Trạch Đông với 49 khóm và 18 ấp.
Bản đồ hành chính thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Bạc Liêu | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đề án số 02/ĐA-UBND về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 – 2025 của tỉnh Bạc Liêu[3]
|
Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh bỏ xưng danh địa hạt, đổi thành tỉnh, đại lý đổi thành quận. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, sắc lệnh trên được áp dụng cho toàn Nam Kỳ, trong đó có hạt tham biện Bạc Liêu đổi thành tỉnh Bạc Liêu. Tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu đặt tại làng Vĩnh Lợi thuộc quận Vĩnh Lợi. Thời Pháp thuộc, làng Vĩnh Lợi vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Vĩnh Lợi và là tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu.
Ngày 18 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định về việc thành lập các thị xã Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho trực thuộc các tỉnh cùng tên gọi. Các thị xã này đều có Ủy ban thị xã, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Thị xã Bạc Liêu lúc đó được thành lập trên phần đất làng Vĩnh Lợi.
Đất miền Hậu Giang trù phú nên có nhiều phú nông. Dưới thời Pháp thuộc, nhiều gia đình hạng cự phú có con cái ăn tiêu phóng khoáng "thả cửa" nên danh từ "công tử Bạc Liêu" đã xuất hiện để chỉ giới dân chơi giàu có miền Lục tỉnh.
Ngày 28 tháng 8 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Dụ số 50 về việc bãi bỏ quy chế thị xã. Theo quyết định này, bãi bỏ Dụ số 13 ban hành ngày 30 tháng 5 năm 1954 về quy chế thị xã. Những thị xã hiện đặt dưới quy chế trên, từ nay sẽ theo chế độ thôn, xã và được quản trị bởi một Ủy ban Hành chính do tỉnh trường bồ nhiệm. Theo đó, giải thể thị xã hỗn hợp Bạc Liêu.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh số 143-NV về việc để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Ba Xuyên được thành lập trên cơ sở hợp nhất phần đất tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Bạc Liêu trước đó, tỉnh lỵ đặt tại Sóc Trăng nhưng lúc này lại bị đổi tên là "Khánh Hưng".
Như vậy, lúc này tỉnh Bạc Liêu đã bị giải thể, đồng thời xã Vĩnh Lợi chỉ còn đóng vai trò là quận lỵ quận Vĩnh Lợi.
Bạc Liêu thời Pháp thuộc rất sung túc, dân cư đông đảo, nổi tiếng là xứ ăn xài, lắm khách hào hoa phong nhã, chợ búa mua bán phồn thịnh, nền kinh tế dồi dào. Cho đến khi chính phủ Ngô Đình Diệm chấp chánh, tỉnh Bạc Liêu bị sáp nhập vào tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng cũ) trước kia thịnh vượng đông đảo bao nhiêu, bây giờ lại hóa ra u trệ bấy nhiêu. Vì bỗng dưng bị thu hẹp lại thành một quận là quận Vĩnh Lợi, trọn 9 năm châu thành Bạc Liêu lâm vào cảnh vắng vẻ, nền kinh tế bị sụp đổ, du khách có dịp đi ngang qua cảm tưởng cho là một tỉnh bị chiến tranh tàn phá.
Suốt 9 năm dưới thời chính quyền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm, Bạc Liêu từ một tỉnh phát triển mạnh ngày nào dưới thời Pháp thuộc thì giờ đây bị thu hình lại chỉ thành một quận lỵ nhỏ (tức quận Vĩnh Lợi). Thời Pháp thuộc, Cà Mau ngày nào chỉ là một quận lỵ nhỏ hơn nhiều tỉnh lỵ Bạc Liêu thì lúc này, Bạc Liêu lại trở thành quận lỵ Vĩnh Lợi nhỏ hơn cả tỉnh lỵ Quản Long (tức Cà Mau cũ). Do không nghiên cứu kỹ, nhắm mục đích tuyên truyền chính trị hơn là nghĩ đến lợi ích thiết thực của đại đa số quần chúng nhân dân, chính quyền Ngô Đình Diệm đã động phạm đến luật tự nhiên. Rốt cuộc thì vẫn phải trở về đường cũ.
Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 254/NV về việc quy định kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1964 về việc tái lập tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở tách các quận Vĩnh Lợi, Giá Rai, Vĩnh Châu của tỉnh Ba Xuyên và quận Phước Long của tỉnh Chương Thiện và thị xã Bạc Liêu có dân số lúc đó khoảng 40.000 người, mật độ trung bình 825 người/km².[7]
Tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu khi đó lại có tên là Vĩnh Lợi, do lấy theo tên xã Vĩnh Lợi thuộc quận Vĩnh Lợi là nơi đặt tỉnh lỵ. Trong giai đoạn 1964–1975, xã Vĩnh Lợi vẫn tiếp tục giữ hai vai trò là quận lỵ quận Vĩnh Lợi và là tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu như thời Pháp thuộc.
Ngày 13 tháng 11 năm 1948, thành lập thị xã Bạc Liêu trên cơ làng Vĩnh Trạch và làng Vĩnh Lợi của quận Vĩnh Lợi.[8]
Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây giải thể tỉnh Bạc Liêu, đồng thời đưa thị xã Bạc Liêu giao về tỉnh Sóc Trăng quản lý.
Tháng 6 năm 1953, giải thể thị xã Bạc Liêu để thành lập thành lập huyện Châu Thành – Vĩnh Lợi.[8]
Trong gia đoạn 1964 – 1973, địa bàn tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Sóc Trăng của chính quyền cách mạng quản lý, vì vậy thị xã Bạc Liêu lúc này vẫn thuộc tỉnh Sóc Trăng.
Tháng 11 năm 1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ ban hành Quyết định về việc tái lập tỉnh Bạc Liêu, lúc này thị xã Bạc Liêu trở lại thuộc tỉnh Bạc Liêu cho đến đầu năm 1976. Địa bàn thị xã Bạc Liêu tương ứng với xã Vĩnh Lợi và xã Vĩnh Trạch cùng thuộc quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt thị xã Bạc Liêu thuộc tỉnh Bạc Liêu cho đến đầu năm 1976.
Tháng 2 năm 1976, tỉnh Minh Hải được thành lập trên cơ sở tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu trước đó. Lúc này, thị xã Bạc Liêu đổi tên thành thị xã Minh Hải và được chọn làm tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải. Tuy nhiên, thị xã Minh Hải (thị xã Bạc Liêu) chỉ đóng vai trò là tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải trong thời gian ngắn 1976–1984.
Ngày 25 tháng 7 năm 1979, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 275-CP[9] về việc:
Ngày 17 tháng 5 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 75-HĐBT[10] về việc đổi tên thị xã Minh Hải thành thị xã Bạc Liêu thuộc tỉnh Minh Hải.
Ngày 18 tháng 12 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 170-HĐBT[11] về việc chuyển tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải từ thị xã Bạc Liêu về thị xã Cà Mau.
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 33B-HĐBT[12] về việc thành lập xã Hiệp Thành trên cơ sở xã Vĩnh Hiệp và xã Vĩnh Thành.
Xã Hiệp Thành có 4.405 ha đất và 9.735 nhân khẩu.
Ngày 2 tháng 2 năm 1991, Ban Tổ chức Chính phủ ban hành Quyết định số 51/QĐ-TCCP[13] về việc:
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết[14] về việc chia tỉnh Minh Hải thành tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau. Khi đó, thị xã Bạc Liêu trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Bạc Liêu.
Ngày 25 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/1999/NĐ-CP[15] về việc thành lập xã Vĩnh Trạch và Vĩnh Trạch Đông trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Thuận Hòa:
Ngày 13 tháng 5 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2002/NĐ-CP[16] về việc thành lập Phường 1 trên cơ sở điều chỉnh 582,6 ha diện tích tự nhiên và 17.568 nhân khẩu của Phường 7.
Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 166/2003/NĐ-CP[17] về việc thành lập phường Nhà Mát trên cơ sở điều chỉnh 2.439 ha diện tích tự nhiên và 9.237 nhân khẩu của xã Hiệp Thành.
Ngày 26 tháng 12 năm 2006, Bộ Xây Dựng ban hành Quyết định số 1779/QĐ-BXD[18] về việc công nhận thị xã Bạc Liêu là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Bạc Liêu.[19]
Ngày 27 tháng 8 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 32/NQ-CP[1] về việc thành lập thành phố Bạc Liêu trực thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bạc Liêu.
Thành phố Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 17.538,19 ha và 188.863 nhân khẩu; có 10 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 7 phường: 1, 2, 3, 5, 7, 8, Nhà Mát và 3 xã: Hiệp Thành, Vĩnh Trạch, Vĩnh Trạch Đông.
Ngày 16 tháng 4 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 537/QĐ-TTg[2] về việc công nhận thành phố Bạc Liêu là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Thành phố Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 17.525 ha, dân số 190.045 người[20], có 10 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 7 phường: 1, 2, 3, 5, 7, 8, Nhà Mát và 3 xã: Hiệp Thành, Vĩnh Trạch, Vĩnh Trạch Đông.
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1254/NQ-UBTVQH15[21] về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2023 – 2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2024). Theo đó, điều chỉnh 5,26 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 3.553 người của Phường 8 vào Phường 3.
Thành phố Bạc Liêu có 7 phường và 3 xã như hiện nay.
Cơ cấu kinh tế thành phố Bạc Liêu trong 5 năm qua (2016–2020) có sự chuyển dịch và phát triển theo hướng tăng mạnh tỷ trọng thương mại, dịch vụ, công nghiệp xây dựng và giảm về tỷ trọng nông nghiệp – thủy sản: cơ cấu thương mại – dịch vụ – du lịch, chiếm 48,20%; công nghiệp – xây dựng, chiếm 42,12%; nông nghiệp – thủy sản 9,68%). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn thành phố trong 5 năm đạt 28.822 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 1.402 tỷ 278 triệu đồng, với 428 công trình.[5]
Thương mại, dịch vụ: Đây được xem là lĩnh vực mũi nhọn, có bước chuyển biến nhanh trong những năm gần đây, đóng góp ngày càng nhiều vào tăng trưởng của thành phố, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chung của nền kinh tế địa phương. Tuy nhiên, tình hình cung cầu hàng hóa năm 2020 tuy gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh Covid-19, nhưng bằng sự nỗ lực của các doanh nghiệp và sự chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo địa phương, mức tăng trưởng vẫn giữ ổn định và cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ thương mại – dịch vụ ước thực hiện trong năm 2020 là 16.285 tỷ 200 triệu đồng, đạt 100% so với kế hoạch, tăng 23,3% so với cùng kỳ. Trên địa bàn thành phố hiện có 5.420 cơ sở kinh doanh thương mại – dịch vụ, tăng 135 cơ sở so với cùng kỳ, với 16.945 lao động, tăng 173 lao động so với cùng kỳ.[5]
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: là lĩnh vực có tỷ trọng đứng thứ hai trong ba khu vực kinh tế của thành phố. Trong năm 2020, sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tuy gặp khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19 nhưng vẫn phát triển ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ước thực hiện năm 2020 là 2.351 tỷ 020 triệu đồng, tăng 0,1% so với kế hoạch, tăng 19,2% so với cùng kỳ. Đến nay, thành phố có 1.019 cơ sở sản xuất, tăng với 30 cơ sở so với cùng kỳ, với 4.350 lao động, tăng 86 lao động so với cùng kỳ gồm các mặt hàng chủ lực, như: chế biến thực phẩm và đồ uống, sản xuất sản phẩm dệt may, sửa chữa và sản xuất các sản phẩm bằng kim loại, sản xuất giường – tủ – bàn – ghế, rượu... Tổng giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2016 – 2020 trên 8.802 tỷ đồng, so với chỉ tiêu vượt 7,58%, tốc độ tăng trưởng bình quân 14,58%/năm (tăng 86,08% so với giai đoạn 2011 – 2015). Hoàn thành cơ bản các đoạn tuyến điện lưới quốc gia về các khu, cụm dân cư. Về xây dựng, tổng nguồn vốn đầu tư công đã được triển khai thực hiện trong nhiệm kỳ là 1.402 tỷ 278 triệu đồng. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất – kinh doanh trên địa bàn thành phố đã có nhiều nỗ lực để duy trì hoạt động, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động và vẫn duy trì hoạt động có hiệu quả để góp phần tăng trưởng kinh tế của thành phố Bạc Liêu.[5]
Nông nghiệp: Là lĩnh vực chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong cơ cấu kinh tế, tuy thế thành phố vẫn chú trọng phát triển với quy mô vừa và nhỏ, ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất, sử dụng những loại giống tốt đạt chất lượng và năng suất cao nhằm nâng cao nguồn thu nhập cho các hộ dân sản xuất nông nghiệp.[5]
Tổng sản lượng khai thác, đánh bắt thủy sản ước đạt 19.850 tấn (trong đó: tôm 1.500 tấn; Cá và thủy sản khác 18.350 tấn) đạt 100% so với kế hoạch, tăng 4,3% so với cùng kỳ. Trên địa bàn thành phố hiện có 307 phương tiện khai thác thủy sản đang hoạt động; tổng công suất bình quân: 54.098CV (trong đó: 112 phương tiện <50CV; 29 phương tiện từ 50-90CV; 166 phương tiện >90CV); tổng số lao động 2.240 lao động.[5]
Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản là 31.612 tấn, trong đó: sản lượng tôm là 29.412 tấn, bao gồm 1.000 tấn tôm nuôi theo mô hình công nghệ cao; cá và thủy sản khác là 2.200 tấn, đạt 96,3% so với kế hoạch (giảm 4,6% so với cùng kỳ). Diện tích đã thả nuôi 6.975 ha, trong đó: tôm CN-BCN là 6.050 ha (bao gồm: tôm sú 2.500 ha; tôm thẻ chân trắng 3.550 ha); tôm QCCT 620 ha; cá và thủy sản khác 305 ha, đạt 96,9% so với kế hoạch (giảm 11% so với cùng kỳ); năng suất bình quân nuôi trồng thủy sản: tôm sú 03 tấn/ha, tôm thẻ chân trắng 10 tấn/ha; quãng canh cải tiến: 1,1 tấn/ha; cá và các loài thủy sản khác: 3 - 12 tấn/ha.[5]
Mô hình nuôi tôm công nghệ cao: Trên địa bàn thành phố Bạc Liêu hiện có 75 hộ dân và 10 công ty, doanh nghiệp đã, đang thực hiện mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng ứng dụng công nghệ cao trên tổng diện tích 509,1ha, bao gồm: 126 ao ương, diện tích là: 21.300 m²; 306 ao nuôi trên 34,82 ha tổng diện tích mặt nước, trong đó thực hiện mô hình nuôi tôm thẻ chân trăng quy mô theo công nghệ CP có 1 công ty, doanh nghiệp và 38 hộ, tổng diện tích 120,4ha, số ao nuôi 127 ao; tổng diện tích mặt nước 12.640 m²; diện tích đang thả nuôi: 29 ha/205 ao; diện tích thu hoạch: 29 ha; sản lượng thu hoạch: 1.000 tấn (chủ yếu là tôm thẻ chân trăng); năng suất bình quân 50 tấn/ha.[5]
Thành phố luôn thực hiện tốt chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh, xây dựng thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh. Triển khai thực hiện tốt các Luật, Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ về lĩnh vực an ninh quốc phòng. Tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng hàng năm cho các đối tượng trong hệ thống chính trị và nhân dân, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh. Công tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, công tác quân sự được thực hiện thường xuyên. Công tác đảm bảo an ninh quốc gia được lực lượng chức năng thực hiện có hiệu quả; bảo vệ tuyệt đối an toàn các sự kiện chính trị, các hoạt động lễ, hội trong và ngoài tỉnh. Tăng cường công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật và bảo đảm nguyên tắc kỷ cương. Phối hợp chặt chẽ với mặt trận, đoàn thể vận động nhân dân, đưa các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước đến nhân dân, làm dân thông, dân hiểu; cũng cố vai trò khối nội chính; thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là ở điểm nóng vùng đồng bào dân tộc về lĩnh vực liên quan đến đất đai, đền bù giải tỏa.[5]
Dân số: Theo niên giám thống kê năm 2020, toàn thành phố có 157.351 người, mật độ dân số bình quân 736 người/km², với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,90%. Trong đó dân số thành thị có 116.259 người chiếm 74% và dân số nông thôn có 41.092 người chiếm 26% dân số toàn thành phố, với tổng số hộ có 42.850 hộ bình quân hộ 3,7 người/hộ. Đặc biệt số nam giới có 77.432 người, chiếm trên 49,21% dân số của thành phố.[5]
Lao động: Số người trong độ tuổi lao động của thành phố có 102.775 người, chiếm 65% tổng dân số (lao động nam giới là 51.751 người và nữ giới là 50.990 người). Trong đó lao động thành thị có 72.804 người, chiếm 74% số người trong độ tuổi lao động và lao động nông thôn có 26.971 người, chiếm 26% số người trong độ tuổi lao động.[5]
Việc làm và thu nhập: Trong năm 2020 thành phố đã tổ chức đào tạo nghề cho 5.426 lao động, đạt 91,43% kế hoạch. Trong đó: có 2.560 lao động làm việc trong tỉnh; 2.866 lao động làm việc ngoài tỉnh; 987 lao động tự tìm việc làm tại chỗ. Nâng tổng số lao động được đào tạo nghề trong năm 2020 là 3.580 lao động, tăng 2,29% so với kế hoạch. Với việc tập trung thực hiện tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động, mức sống của người dân trên địa bàn thành phố ngày được cải thiện, GRDP bình quân đầu người: 97 triệu đồng/người/năm.[5]
Thành phố có một cửa biển là cửa biển Nhà Mát thuộc phường Nhà Mát. Ở đây còn có khu du lịch Quán Âm Phật Đài (thường gọi Phật bà Nam Hải). Theo tín ngưỡng của những người đi biển, Phật bà Nam Hải đã chở che cho họ rất nhiều trong lúc họ hoạt động, làm ăn trên biển. Nơi đây đã trở thành một điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Bạc Liêu, thu hút hàng ngàn du khách đến viếng, thưởng ngoạn mỗi năm, nhất là vào dịp Vía Bà vào các ngày 22, 23, 24 tháng 3 âm lịch hằng năm.
Bên cạnh khu du lịch Quán âm Phật đài, thành phố còn đang xây dựng một khu du lịch mới cũng ở phường Nhà Mát. Ngoài ra, thành phố Bạc Liêu còn có khu du lịch Vườn nhãn Bạc Liêu với những cây nhãn cổ thụ và giống nhãn Vĩnh Châu nổi tiếng thơm ngon, có cánh đồng điện gió với 62 trụ điện gió to lớn giữa biển khơi tại khu vực xã Vĩnh Trạch Đông.
Về nông nghiệp, thành phố phát triển ngành nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh và tôm sú trên địa bàn các xã ngoại thành như Vĩnh Trạch và Vĩnh Trạch Đông, nghề đánh bắt hải sản cũng khá phổ biến tại các xã, phường giáp biển.
Về công nghiệp, trên địa bàn thành phố có một số khu, cụm công nghiệp dạng vừa như khu công nghiệp Trà Kha và cụm công nghiệp Nhà Mát.
Thành phố Bạc Liêu có 3 dân tộc chính: Kinh, Khmer và Hoa. Do đó văn hoá ẩm thực của địa phương này cũng khá đa dạng, nhiều món ăn được biết tới như: bánh xèo, bún nước lèo, bún bò cay,...
Trong những năm qua, thành phố Bạc Liêu luôn cố gắng, nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo một cách toàn diện, trong đó đặc biệt quan tâm thực hiện xây dựng trường đạt Chuẩn quốc gia. Tổng số trường mầm non, phổ thông công lập đạt chuẩn quốc gia của thành phố tính đến thời điểm hiện tại là 25/34 trường, tăng 5 trường so với cùng; đạt tỷ lệ 73,53% (10 trường MN–MG, 7 trường tiểu học, 8 trường THCS); trong đó có 4 trường Mầm non, 3 trường Tiểu học và 1 trường THCS đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 (tăng 5 trường đạt mức độ 2).[5]
Về huy động học sinh đến trường: Đầu năm học 2020-2021 đã huy động trẻ trong độ tuổi đến trường toàn thành phố có 27.033 học sinh đến trường, đạt 99,26% so với kế hoạch (kế hoạch 27.234 học sinh). Trong đó:
Về mạng lưới cơ sở giáo dục: toàn thành phố có 41 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông. Trong đó:
Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có Trường Đại học Bạc Liêu, Trường Cao đẳng nghề, Trường Trung cấp nghề, Trường trung cấp y tế, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trường kỹ thuật nghiệp vụ giao thông vận tải,... đã đáp ứng được phần nào về nhu cầu đào tạo các ngành nghề cho người dân trong và ngoài thành phố.[5]
Trong những năm qua, tỉnh nói chung và thành phố nói riêng luôn tiếp tục đầu tư hạ tầng, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật y tế các tuyến tỉnh, thành phố, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa y tế tư nhân. Đến nay, thành phố có 10/10 phường, xã đều có trạm y tế. Với hệ thống cơ sở y tế đã đáp ứng được nhu cầu khám và điều trị bệnh cho người dân không chỉ của thành phố mà cả những huyện, thị khác trong và ngoài tỉnh.[5]
Trong những năm gần đây, các khu thương mại, siêu thị và chợ được các doanh nghiệp và lãnh đạo thành phố đầu tư phát triển mạnh, hệ thống được bố trí đều khắp các phường, xã trên địa bàn thành phố, chủ yếu tập trung ở ngay trung tâm xã, phường được xây dựng kiên cố, cơ sở hạ tầng chợ được quan tâm đầu tư và đang từng bước hoàn thiện. Hiện ngay trung tâm thành phố đã có hệ thống của hàng Điện máy xanh, Bách Hóa Xanh, Vinmart,.. đáp ứng được nhu cầu mua bán của nhân dân.[5]
Với sự quyết tâm của các cấp, các ngành việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố đạt được kết quả nhất định. Cơ sở hạ tầng xây dựng nông thôn mới nâng cao đã và đang được đầu tư nâng cấp ngày một tốt hơn, bộ mặt nông thôn từng bước được đổi mới, đã tạo ra một động lực lớn, góp phần chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng tích cực.[5]
Đến nay thành phố được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2020 tại Quyết định số 987/QĐ-TTg ngày 23/6/2021. Trong đó đã công nhận 6 ấp đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao: Vĩnh An, xã Vĩnh Trạch; Giồng Giữa B, xã Vĩnh Trạch Đông và 4 ấp của xã Hiệp Thành; tiếp tục thực hiện công tác thẩm định các ấp đạt nông thôn mới nâng cao.
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu |
Năm 2016, dân số toàn thành phố là 155.874 người, trong đó dân tộc Kinh là 123.432 người, dân tộc Hoa là 15.702 người, dân tộc Khmer là 17.044 người, dân tộc khác là 51 người.
Thành phố Bạc Liêu có diện tích là 213,80 km², dân số năm 2018 là 157.389 người. Trong đó dân số sống ở thành thị là 118.689 người chiếm tỉ lệ 75,41% và dân số sống ở nông thôn là 38.700 người chiếm tỉ lệ 24,59%. Mật độ dân số của đạt 736 người/km².
Thành phố Bạc Liêu có diện tích là 213,80 km², dân số năm 2019 là 156.284 người, trong đó dân số thành thị là 115.806 người chiếm 74,10%, dân số nông thôn là 40.478 người chiếm 25,90%, mật độ dân số đạt 731 người/km².[22][23]
Năm 2020, dân số toàn thành phố Bạc Liêu là 157.351 người, trong đó, dân số thành thị là 116.259 người chiếm 73,88%, dân số nông thôn là 41.092 người chiếm 26,12%.[5][24]
Theo thống kê sơ bộ năm 2021, thành phố Bạc Liêu có 158.844 người.[25]
Theo thống kê dân số thành phố Bạc Liêu ngày 1 tháng 11 năm 2021 là 158.264 người. Trong đó, dân số thành thị là 117.252 người (74,09%), dân số nông thôn là 41.012 người (25,91%).[26]
Thành phố Bạc Liêu có diện tích 213,72 km², dân số năm 2022 là 157.351 người, trong đó: dân số thành thị là 116.259 người (chiếm 74%) và dân số nông thôn là 41.092 người (chiếm 26%). Mật độ dân số đạt 736 người/km².[27]
Thành phố Bạc Liêu có diện tích 213,72 km², dân số là 159.470 người.[28][29]
Thành phố Bạc Liêu có diện tích 213,72 km², dân số quy đổi tính đến ngày 31/12/2022 là 168.463 người,[3] mật độ dân số đạt 788 người/km².
Thành phố Bạc Liêu với nhiều di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và cấp tỉnh với nhiều địa danh nổi tiếng gồm: khu căn cứ, Đình, Chùa, Thành, Đền thờ, Tháp, Bia kỉ niệm, phủ thờ,.. Ngoài các di tích nêu trên, Bạc Liêu còn có khu du lịch và danh lam thắng cảnh như: khu du lịch Quán Âm Phật Đài; khu du lịch Nhà Mát; khu du lịch Vườn nhãn Bạc Liêu; cánh đồng điện gió với 62 trụ điện gió to lớn giữa biển khơi tại xã Vĩnh Trạch Đông và các điểm tham quan nổi tiếng: Quảng trường Hùng Vương; Khu lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu; Khu nhà Công tử Bạc Liêu,... Nơi đây đã trở thành một điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Bạc Liêu, thu hút hàng ngàn du khách đến tham quan, mua sắm.[5]
Tính đến năm 2020, thành phố giữ vững 97% hộ gia đình văn hóa, 67/67 khóm, ấp văn hóa; 7/7 phường đạt chuẩn phường văn minh đô thị, 3/3 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; công nhận, công nhận lại 110/124 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa, đạt 88,7%.[5]
Đến nay, thành phố Bạc Liêu có 3 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh, nâng tổng số trên địa bàn có 21 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh và 7 di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia; trùng tu 2 di tích cấp quốc gia và 4 di tích cấp tỉnh. DTKTNT (di tích kiến trúc nghệ thuật)[5].
Thành phố Bạc Liêu có 9 địa điểm du lịch tiêu biểu, bao gồm:
Thành phố Bạc Liêu cách Thành phố Hồ Chí Minh 280 km, cách thành phố Cà Mau 67 km về phía Tây Bắc, cách thành phố Cần Thơ 110 km về phía Nam (theo Quốc lộ 1).
Mạng lưới giao thông đường bộ của địa bàn thành phố Bạc Liêu gồm có tuyến đường Quốc lộ 1, Đường Nam Sông Hậu và các tuyến ĐT.977, ĐT.977B, tỉnh lộ 38. Hệ thống giao thông phát triển đồng bộ, các tuyến đường giao thông nội thành như đường: Hùng Vương, Trần Phú, Cao Văn Lầu, Trần Huỳnh,... Những năm gần đây, trên địa bàn thành phố nhiều tuyến đường được chú trọng đầu tư cải tạo, mở rộng, nhựa hóa, hệ thống giao thông thuận lợi đi lại và giao thương vận tải hàng hóa trong và ngoài thành phố được đảm bảo thông suốt.[5]
Các tuyến đường chính trên địa bàn thành phố:
|
|
|
Có các cầu: cầu Kim Sơn (cầu Quay hoặc Bạc Liêu 1), cầu Võ Thị Sáu (cầu Bạc Liêu 2), cầu Tôn Đức Thắng (cầu Bạc Liêu 3), cầu Xáng, cầu Kè, cầu Vườn Chim, cầu Trường Sơn, (cầu Nhà Mát), cầu Út Đen (cầu Nguyễn Văn Út),...
|
|
Với tuyến kênh chính như kênh Cà Mau - Bạc Liêu chạy dọc thành phố Bạc Liêu với chiều dài 15 km, rộng hơn 30m; kênh 30/4 dài 10 km, rộng 35m thông ra biển Đông tại cửa biển Nhà Mát, đây là khu vực hậu cần rất quan trọng cho việc đánh bắt thủy hải sản, lưu thông tàu có trọng tải lớn trong vận chuyển hàng hóa; giúp chia sẻ không gian vận tải thủy trên địa bàn thành phố. Đồng thời là trục giao thông thủy kết nối kênh trục Bạc Liêu - Cà Mau với tuyến kênh Trường Sơn nối các tuyến đường thủy ở vùng ven biển với thành phố được xem là tuyến huyết mạch phục vụ vận chuyển hàng hóa, có vai trò hết sức quan trọng trong hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh nói riêng và khu vực ĐBSCL nói chung trong việc giao thương thủy bộ.[5]
Biển Đông: Nằm ở phía Nam TP. Bạc Liêu, tạo điều kiện giao lưu quốc tế và phát triển du lịch.
Kênh Xáng Cà Mau – Bạc Liêu: Do Trung ương quản lý, điểm đầu từ Sóc Trăng đến Cà Mau, đoạn qua tỉnh Bạc Liêu dài 48,5 km, chiều rộng 40m, chiều sâu 7m, sông cấp III.
Kênh Cổ Cò – Bạc Liêu: điểm đầu từ Sóc Trăng đến Cà Mau, đoạn qua tỉnh Bạc Liêu dài 18 km, chiều rộng 40m, chiều sâu 7m, sông cấp III (Trung ương quản lý).
Kênh Cầu Sập – Ngan Dừa: Kênh cấp V do Tỉnh quản lý, kênh bắt đầu từ kênh Phụng Hiệp đến kênh Cà Mau - Bạc Liêu, chiều rộng 20m, chiều sâu 1,2m.
Kênh 30/4: Kênh cấp V do Tỉnh quản lý, kênh thuộc TP. Bạc Liêu, bắt đầu từ sông Bạc Liêu ra biển Đông, chiều dài 8,8 km, chiều rộng 20m, chiều sâu 1,2m.
Đường bộ: Hiện có bến xe khách liên tỉnh tại phường 7, TP. Bạc Liêu.
Đường thủy: Có cửa sông, biển Nhà Mát có khả năng xây dựng cảng biển, cảng du lịch điều kiện để phát triển giao thông biển.
Thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.