Bad Blood (bài hát của Taylor Swift)

"Bad Blood"
Đĩa đơn của Taylor Swift
hợp tác cùng Kendrick Lamar
từ album 1989
Phát hành17 tháng 5 năm 2015 (2015-05-17)
Thời lượng3:31
Hãng đĩa
Sáng tác
Sản xuất
  • Max Martin
  • Shellback
  • Ilya
Thứ tự đĩa đơn của Taylor Swift
"Style"
(2015)
"Bad Blood"
(2015)
"Wildest Dreams"
(2015)
Thứ tự đĩa đơn của Kendrick Lamar
"King Kunta"
(2015)
"Bad Blood"
(2015)
"Alright"
(2015)
Video âm nhạc
"Bad Blood" trên YouTube

"Bad Blood" là một bài hát của ca sĩ người Mỹ Taylor Swift nằm trong album phòng thu thứ năm của cô, 1989 (2014). Phiên bản remix của bài hát, với sự tham gia góp giọng của rapper người Mỹ Kendrick Lamar, được phát hành vào ngày 17 tháng 5 năm 2015, bởi Republic Records như là đĩa đơn thứ 4 trích từ album. Phiên bản gốc của nó do Swift, Max Martin, và Shellback đồng sáng tác, trong khi Lamar viết phần rap của mình cho bản remix. Nội dung của "Bad Blood" đề cập đến sự phản bội của một người bạn thân, mà theo suy đoán của giới phê bình thì ca sĩ Katy Perry chính là nhân vật được đề cập đến.[1][2][3][4]

Việc làm mới phần sản xuất cũng như sự góp mặt của Lamar trong "Bad Blood" đã nhận được nhiều lời tán dương từ các nhà phê bình đương đại.[5][6] Nó đạt vị trí số một ở 6 quốc gia trong đó có Billboard Hot 100 của Mỹ, trở thành đĩa đơn thứ 3 từ 1989 làm được điều này,đồng thời bán được gần 20 triệu bản trên toàn cầu. Video âm nhạc của bài hát do Joseph Kahn làm đạo diễn với sự tham gia của dàn nghệ sĩ hùng hậu, đã phá vỡ kỷ lục về số lượt xem trong ngày đầu phát hành trên Vevo, trước khi bị "Hello" của Adele vượt qua.[7] Nó giành giải thưởng Video của năm tại Lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 2015. Bài hát nhận được một đề cử giải Grammy ở hạng mục Trình diễn Song ca/Nhóm nhạc pop xuất sắc nhất trong khi video của nó đã chiến thắng giải Video ca nhạc xuất sắc nhất.

Một phiên bản hát lại của "Bad Blood" đã được phát hành như là đĩa đơn quảng bá đầu tiên trích từ album hát lại 1989 của Ryan Adams vào tháng 9 năm 2015.

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc được đạo diễn bởi Joseph Kahn, người từng thực hiện video âm nhạc cho "Blank Space". Video được ghi hình tại Los Angeles, California từ ngày 9 đến 13 tháng 4 năm 2015, nhưng lại lấy bối cảnh tại Đường Liverpool, Luân Đôn. Swift bắt đầu hé lộ video trên Instagram bằng những tấm ảnh của từng nhân vật với tên được chọn bởi mỗi diễn viên,[8] trước khi video được ra mắt ngày 17 tháng 5 năm 2015, mở đầu cho lễ trao giải Billboard Music Awards 2015.[9]

Rolling Stone mô tả đây là video "neo-noir của tương lai".[8] Daniel D’Addario từ Time gọi đây là video âm nhạc "tỉ mỉ nhất" của Swift và so sánh với Sin City.[10][11] Billboard so sánh video này với "Toxic" và "Womanizer" của Britney Spears, khi cả hai đều do Kahn đạo diễn.[12]

Tính đến ngày 1/1/2023, MV đã có hơn 1,5 tỷ lượt xem, là MV nhiều view thứ 3 của cô

Những người thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội ngũ tham gia sản xuất 1989 dựa trên phần bìa ghi chú.[13]

Xếp hạng và chứng nhận doanh số

[sửa | sửa mã nguồn]

Phiên bản của Ryan Adams

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng (2015) Vị trí
cao nhất
Hoa Kỳ Rock Airplay (Billboard)[55] 36

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[56] 3× Bạch kim 210.000^
Canada (Music Canada)[57] 3× Bạch kim 240.000*
New Zealand (RMNZ)[58] Vàng 7.500*
Anh Quốc (BPI)[59] Bạc 200.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[61] 4× Bạch kimdagger 3,000,000[60]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

dagger Kể từ tháng 5 năm 2013, chứng nhận của RIAA cho doanh thu nhạc số còn bao gồm lượt yêu cầu bài hát hoặc/và lượt xem video của bài hát trực tuyến.[62]

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày Định dạng Nhãn thu âm
Hoa Kỳ 17 tháng 5 năm 2015 Tải nhạc số[63] Big Machine
19 tháng 5 năm 2015 Contemporary hit radio[64]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Strecker, Erin (ngày 9 tháng 9 năm 2014). “Did Katy Perry Confirm Taylor Swift's 'Bad Blood' Song Is About Her?”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2015.
  2. ^ Drell, Cady (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “12 Biggest Feuds of 2014: Taylor Swift vs. Katy Perry”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2015.
  3. ^ D'Addario, Daniel (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Is Taylor Swift's 'Bad Blood' About Katy Perry? A Textual Analysis”. Time. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2015.
  4. ^ Yahr, Emily (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 'Bad Blood': How we can tell she's singing about Katy Perry”. The Washington Post. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2015.
  5. ^ “Taylor Swift 1989 Track by Track Album Review”. HitFix.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
  6. ^ McIndoe, Joe (ngày 29 tháng 10 năm 2014). “Track-by-Track Album Review: Taylor Swift - 1989”. CultNoise.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
  7. ^ Strecker, Erin (ngày 21 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift's 'Bad Blood' Video Breaks Vevo Record”. Billboard. (Prometheus Global Media). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2015.
  8. ^ a b “Watch Taylor Swift's Futuristic, Neo-Noir 'Bad Blood' Video”. Rolling Stone. ngày 17 tháng 5 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2015.
  9. ^ “Taylor Swift to Debut 'Bad Blood' Video During 2015 Billboard Music Awards”. Billboard. ngày 7 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2015.
  10. ^ D’Addario, Daniel (ngày 18 tháng 5 năm 2015). “Watch Taylor Swift's Star-Studded Music Video for 'Bad Blood'. Time. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2015.
  11. ^ Shetty, Sharan (ngày 18 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift's "Bad Blood" Video Has Enough Celebrities to Be an Actual Movie”. Slate. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2015.
  12. ^ Strecker, Erin (ngày 17 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift's 'Bad Blood' Video: 15 Things We Need To Talk About Right Now”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2015.
  13. ^ 1989 (Compact disc liner notes). Taylor Swift. Big Machine Records. 2014. BMRBD0500A.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  14. ^ "Australian-charts.com – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar – Bad Blood" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015.
  15. ^ "Austriancharts.at – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar – Bad Blood" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2015.
  16. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar – Bad Blood" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2015.
  17. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar – Bad Blood" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2015.
  18. ^ “Top 100 Billboard Brasil - weekly”. Billboard Brasil. ngày 6 tháng 7 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2015.
  19. ^ "Taylor Swift Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2015.
  20. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2015.
  21. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada CHR/Top 40)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2015.
  22. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada Hot AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2015.
  23. ^ = ngày 28 tháng 5 năm 2015 “Top 40 Chile - weekly” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Chile Singles Chart. ngày 28 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  24. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 23. týden 2015. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  25. ^ "Taylor Swift Chart History (Euro Digital Song Sales)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
  26. ^ "Taylor Swift feat.Kendrick Lamar: Bad Blood" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  27. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – Bad Blood" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015.
  28. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Single (track) Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
  29. ^ "Chart Track: Week 22, 2015" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2015.
  30. ^ “Top Digital - Classifica settimanale WK 21 (dal 2015-05-18 al 2015-05-24)”. Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2015.
  31. ^ “מדיה פורסט - לדעת שאתה באוויר”. Mediaforest.biz. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2015.
  32. ^ "Taylor Swift Chart History (Japan Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  33. ^ "Nederlandse Top 40 – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2015.
  34. ^ "Charts.nz – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar – Bad Blood" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2015.
  35. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2015.
  36. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 23. týden 2015. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  37. ^ "EMA Top 10 Airplay: Week Ending ngày 28 tháng 7 năm 2015" (bằng tiếng Anh). Entertainment Monitoring Africa. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2015.
  38. ^ "Spanishcharts.com – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar – Bad Blood" (bằng tiếng Anh). Canciones Top 50. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2015.
  39. ^ "Swisscharts.com – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar – Bad Blood" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2015.
  40. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2015.
  41. ^ "Taylor Swift Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2015.
  42. ^ "Taylor Swift Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2015.
  43. ^ "Taylor Swift Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2015.
  44. ^ "Taylor Swift Chart History (Dance Mix/Show Airplay)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2015.
  45. ^ "Taylor Swift Chart History (Dance Club Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2015.
  46. ^ "Taylor Swift Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2015.
  47. ^ "Taylor Swift Chart History (Rhythmic)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2015.
  48. ^ “ARIA Charts - End of Year Charts - Top 100 Singles 2015”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
  49. ^ “Canadian Hot 100 Year End 2015”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  50. ^ “End of Year Singles Chart Top 100 - 2015”. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  51. ^ “Hot 100: Year End 2015”. Billboard. billboard.com. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  52. ^ “Adult Contemporary Songs Year End 2015”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  53. ^ “Adult Pop Songs Year End 2015”. Billboard. Prometheus Media Group. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  54. ^ “Pop Songs Year End 2015”. Billboard. Prometheus Media Group. Truy cập December 9; 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  55. ^ "Ryan Adams Chart History (Rock Airplay)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2016.
  56. ^ Ryan, Gavin (ngày 5 tháng 12 năm 2015). “ARIA Singles: Adele 'Hello' Spends Sixth Week at No 1”. Noise11. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2015.
  57. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Canada – Taylor Swift – Bad Blood” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2015.
  58. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Taylor Swift feat. Kendrick Lamar – Bad Blood” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2015.
  59. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Taylor Swift – Bad Blood” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2015. Chọn single trong phần Format. Chọn Bạc' ở phần Certification. Nhập Bad Blood vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  60. ^ “2015 Nielsen Music U.S. Report” (PDF). Nielsen. ngày 6 tháng 1 năm 2016. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
  61. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Taylor Swift – Bad Blood” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  62. ^ “RIAA Adds Digital Streams To Historic Gold & Platinum Awards”. Recording Industry Association of America. ngày 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2015.
  63. ^ “Bad Blood (feat. Kendrick Lamar) – Single”. iTunes Store (US). Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2015.
  64. ^ “Future Rleases”. All Access. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2015.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Những nhân vật Black Myth sẽ khai thác tiếp sau Wukong
Những nhân vật Black Myth sẽ khai thác tiếp sau Wukong
Sau Wukong, series Black Myth sẽ khai thác tiếp Thiện Nữ U Hồn, Phong Thần Bảng, Khu Ma Đế Chân Nhân, Sơn Hải Kinh, Liêu Trai Chí Dị…
"I LOVE YOU 3000" Câu thoại hot nhất AVENGERS: ENDGAME có nguồn gốc từ đâu?
“I love you 3000” dịch nôm na theo nghĩa đen là “Tôi yêu bạn 3000 ”
Chiều cao của các nhân vật trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
Chiều cao của các nhân vật trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
Thực sự mà nói, Rimuru lẫn Millim đều là những nấm lùn chính hiệu, có điều trên anime lẫn manga nhiều khi không thể hiện được điều này.
Marley and Me - Life and love with the world's worst dog
Marley and Me - Life and love with the world's worst dog
Một cuốn sách rất đáng đọc, chỉ xoay quanh những câu chuyện đời thường nhưng vô cùng giản dị. Chú chó lớn lên cùng với sự trưởng thành của cặp vợ chồng, của gia đình nhỏ đấy