Bài viết này cần được cập nhật do có chứa các thông tin có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách cập nhật cho bài viết này.(12/2024)
Ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift đã cho phát hành 61 đĩa đơn với vai trò chính, 8 đĩa đơn với vai trò hợp tác và 39 đĩa đơn quảng bá. Cô đã bán được 150 triệu đĩa đơn trên toàn cầu tính đến tháng 12 năm 2016.[1] Theo Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), các đĩa đơn kỹ thuật số của Swift đã đạt được 137,5 triệu đơn vị được chứng nhận, dựa trên doanh số bán hàng và phát trực tuyến, tính đến tháng 7 năm 2023.[2] Trên bảng Billboard Hot 100 Hoa Kỳ, tính đến tháng 11 năm 2023, Swift là nữ nhạc sĩ có nhiều bài hát lọt vào bảng xếp hạng nhất (231), nhiều bài hát vươn lên top 40 nhất (137), nhiều bài hát đạt top 20 nhất (85), nhiều bài hát leo lên được top 10 nhất (49), nhiều bài hát ra mắt trong tuần đầu ở top 10 nhất (38), nhiều bài hát đứng trong top 5 nhất (31) và có nhiều bài hát mở màn ở vị trí quán quân nhất (6).[3][4]
Album phòng thu thứ bảy Lover (2019) của Swift có 2 đĩa đơn top 2 Billboard Hot 100 là "Me!", "You Need to Calm Down", 1 đĩa đơn top 10 của "Lover", và mang về 1 đĩa đơn quán quân "Cruel Summer" vào năm 2023 trên Hot 100 Hoa Kỳ.[11] Sau khi tung ra album thứ tám, Folklore (2020) cùng đĩa đơn chủ đạo "Cardigan", Swift trở thành nghệ sĩ đầu tiên có màn ra mắt cả Billboard 200 lẫn Hot 100 ở vị trí quán quân trong một tuần;[12] cô đã đạt được thành tích này bốn lần nữa với "Willow" từ Evermore (2020), "All Too Well (10 Minute Version)" (bài hát có thời lượng dài nhất để đạt vị trí quán quân)[13] từ Red (Taylor's Version) (2021), "Anti-Hero" từ Midnights (2022), và "Is It Over Now?" từ 1989 (Taylor's Version) (2023).[4][14]Red (Taylor's Version) có 26 bài hát lọt đồng thời vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100 cùng tuần, lập kỷ lục về số bài hát xuất hiện trên một tuần bảng xếp hạng nhiều nhất của một phụ nữ.[15] Sau khi ra mắt Midnights, Swift trở thành nghệ sĩ đầu tiên độc chiếm toàn bộ top 10 của Billboard Hot 100.[16]
^"Carolina" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 5 tại NZ Hot Singles Chart.[187]
^"If This Was a Movie (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 2 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"If This Was a Movie (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 12 tại NZ Hot Singles Chart.[191]
^"Eyes Open (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 9 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Eyes Open (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 15 tại NZ Hot Singles Chart.[191]
^"Safe & Sound (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 4 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Safe & Sound (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 14 tại NZ Hot Singles Chart.[191]
^Bảng xếp hạng Pop 100 đã ngưng hoạt động vào năm 2009.
^"I'm Only Me When I'm with You" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 15 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Invisible" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 3 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Umbrella" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 4 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Tell Me Why" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 1 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"The Best Day" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 3 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Drops of Jupiter (Live)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 7 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Treacherous" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 2 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Holy Ground" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 12 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Sad Beautiful Tragic" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 18 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"The Lucky One" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 13 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Starlight" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 5 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"All You Had to Do Was Stay" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 14 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"How You Get the Girl" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 4 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"This Love" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 19 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"I Did Something Bad" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 14 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"I Did Something Bad" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 5 tại NZ Heatseeker Singles Chart.[110]
^"I Forgot That You Existed" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 3 tại NZ Hot Singles Chart.[220]
^"Paper Rings" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 4 tại NZ Hot Singles Chart.[220]
^"Right Where You Left Me" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 12 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Right Where You Left Me" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 15 tại NZ Hot Singles Chart.[240]
^"It's Time to Go" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 4 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"It's Time to Go" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 13 tại NZ Hot Singles Chart.[240]
^"Fearless (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 4 tại NZ Hot Singles Chart.[242]
^"Fifteen (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 7 tại NZ Hot Singles Chart.[242]
^"Hey Stephen (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 1 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"White Horse (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 2 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"You Belong with Me (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 5 tại NZ Hot Singles Chart.[242]
^"Breathe (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 8 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Tell Me Why (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 13 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"You're Not Sorry (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 11 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"The Best Day (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 19 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"We Were Happy" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 15 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"That's When" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 3 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Don't You" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 14 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Girl at Home (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 1 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
^"Ronan (Taylor's Version)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng vẫn đạt vị trí cao nhất ở thứ 9 tại Bubbling Under Hot 100.[79]
Bài hát đến từ Lover: "ARIA Chart Watch #540". auspOp. ngày 31 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
"Cowboy like Me" và "Marjorie": "The ARIA Report: Week Commencing 21 tháng 12 năm 2020". The ARIA Report. Số 1607. Australian Recording Industry Association. ngày 21 tháng 12 năm 2020. tr. 4.
Bài hát đến từ Fearless (Taylor's Version): "The ARIA Report: Week Commencing 19 tháng 4 năm 2021". The ARIA Report. Số 1624. Australian Recording Industry Association. ngày 19 tháng 4 năm 2021. tr. 4.
"Renegade": "The ARIA Report: Week Commencing 12 tháng 7 năm 2021". The ARIA Report. Số 1636. Australian Recording Industry Association. ngày 12 tháng 7 năm 2021. tr. 4.
"Forever Winter (Taylor's Version)": "The ARIA Report: Week Commencing 22 tháng 11 năm 2021". The ARIA Report. Số 1655. Australian Recording Industry Association. ngày 22 tháng 11 năm 2021. tr. 4.
"Carolina": "The ARIA Report: Week Commencing 4 tháng 7 năm 2022". The ARIA Report. Số 1687. Australian Recording Industry Association. ngày 4 tháng 7 năm 2022. tr. 4.
Bài hát đến từ Speak Now (Taylor's Version): "The ARIA Report: Week Commencing 17 tháng 7 năm 2023". The ARIA Report. Số 1741. Australian Recording Industry Association. ngày 17 tháng 7 năm 2023. tr. 4.
"Bad Blood (Taylor's Version)": "The ARIA Report: Week Commencing 6 tháng 11 năm 2023". The ARIA Report. Số 1757. Australian Recording Industry Association. ngày 6 tháng 11 năm 2023. tr. 4.
All except where noted: "Discography Taylor Swift"(Scroll down to the "Singles" section). irish-charts.com. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2023.
^ abcdefg"Discography Taylor Swift"(Switch to the "Charts" tab). swisscharts.com (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2021.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
"Fearless", "Breathless", "Ours", and "If This Was a Movie": "Chart Log UK". zobbel.de. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2016.
"The Moment I Knew" và "Come Back... Be Here": "Chart: CLUK Update 3.11.2012". zobbel.de. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2020.
^ ab"NZ Heatseeker Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 11 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2017.
^"Country Aircheck Chart Info"(PDF). Country Aircheck. Số 577. ngày 20 tháng 11 năm 2017. tr. 18. Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2021.
^"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 31 tháng 1 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
^"NZ Heatseeker Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 30 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
^"NZ Hot Singles Chart". Recorded Music NZ. ngày 1 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2021.
^"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 12 tháng 7 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2021.
^"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 8 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2023.
^"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 25 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2020.
^"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 10 tháng 2 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2020.
^"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 5 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2021.
^"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 4 tháng 7 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2022.
^ abc"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 27 tháng 3 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
^ ab"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 2 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
^ ab"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 18 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2021.
^ abc"NZ Hot Singles Chart". [[Recorded Music New Zealand]]. ngày 19 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Tên của 11 Quan Chấp hành Fatui được lấy cảm hứng từ Commedia Dell’arte, hay còn được biết đến với tên gọi Hài kịch Ý, là một loại hình nghệ thuật sân khấu rất được ưa chuộng ở châu