Red (album của Taylor Swift)

Red
Bìa phiên bản tiêu chuẩn
Album phòng thu của Taylor Swift
Phát hành22 tháng 10 năm 2012 (2012-10-22)
Thu âmk. 2011–2012
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng65:09
Hãng đĩaBig Machine
Sản xuất
Thứ tự album của Taylor Swift
Speak Now World Tour – Live
(2011)
Red
(2012)
1989
(2014)
Đĩa đơn từ Red
  1. "We Are Never Ever Getting Back Together"
    Phát hành: 13 tháng 8 năm 2012 (2012-08-13)
  2. "Begin Again"
    Phát hành: 1 tháng 10 năm 2012 (2012-10-01)
  3. "I Knew You Were Trouble"
    Phát hành: 27 tháng 11 năm 2012 (2012-11-27)
  4. "22"
    Phát hành: 12 tháng 3 năm 2013 (2013-03-12)
  5. "Red"
    Phát hành: 24 tháng 6 năm 2013 (2013-06-24)
  6. "Everything Has Changed"
    Phát hành: 16 tháng 7 năm 2013 (2013-07-16)
  7. "The Last Time"
    Phát hành: 4 tháng 11 năm 2013 (2013-11-04)

Redalbum phòng thu thứ tư của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift được Big Machine Records phát hành vào ngày 22 tháng 10 năm 2012. Tựa đề của album đề cập đến những cảm xúc "màu đỏ" đầy mãnh liệt và hỗn loạn mà Swift đã trải qua trong quá trình thực hiện album, cùng với các bài hát trong album khai tác về những cảm xúc phức tạp và mâu thuẫn cũng những tổn thương trong những mối tình cũ của Swift. Nhằm thử nghiệm những thể loại mới mẻ hơn so với âm thanh country pop trong các album trước kia, Swift đã mời các nhà sản xuất mới Dann Huff, Max Martin, Shellback, Jeff Bhasker, Dan Wilson, Jacknife Lee, Butch Walker, cùng với cộng tác viên lâu năm Nathan Chapman. Kết quả cuối cùng là một đĩa nhạc kết hợp các phong cách nhạc pop, đồng quêrock với các thể loại khác bao gồm arena rock, Britrock, dance-popdubstep.

Big Machine và Swift đã từng gắn thể loại Red là một album nhạc đồng quê nhưng nhiều nhà phê bình phản đối cách phân loại này và cho rằng đây là một đĩa nhạc pop. Album mang về cho cô 2 đề cử "Album nhạc đồng quê xuất sắc nhất" và "Album của năm" tại mùa Giải Grammy lần thứ 56, trong khi giành giải "Album nhạc đồng quê được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2013. Red gặt hái thành công rực rỡ về mặt thương mại, khi giành ngôi đầu bảng tại Hoa Kỳ, Anh Quốc, Úc, Canada, IrelandNew Zealand, là album bán chạy thứ hai trên toàn cầu trong năm 2012, với doanh số đến nay đã chạm mốc 8 triệu bản.

Swift đã chính thức phát hành 7 đĩa đơn trong Red, trong đó "We Are Never Ever Getting Back Together" là đĩa đơn quán quân đầu tiên của cô ở Hoa Kỳ. Kế đến, "I Knew You Were Trouble" vươn đến top 10 tại nhiều lãnh thổ khác nhau. Đây là hai trong số những đĩa đơn lọt vào danh sách bán chạy nhất thế giới. Những đĩa đơn tiếp theo của album gồm có: "Begin Again", "Red", "22", "Everything Has Changed", và tất cả đều được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận Bạch kim. Chuyến lưu diễn quảng bá vòng quanh thế giới The Red Tour (2013–2014) của Swift xuyên khắp các quốc gia tại Bắc Mỹ, Châu Đại Dương, Châu ÁChâu Âu đạt thành công lớn, đem về cho cô 150 triệu đô la Mỹ trên toàn cầu.

Các nhà phê bình đương thời khen ngợi khả năng sáng tác của Swift trong Red nhưng lại tranh cãi về phần sản xuất của album. Nhiều cây viết tán dương tính đa dạng âm thanh của album nhưng không ít người đã chỉ trích về sự thiếu nhất quán của nó. Các nhà phê bình sau này coi Red là một trong những album hay nhất của Swift và là một album mang tính chuyển tiếp giữa nguồn gốc đồng quê của cô và nhạc pop chính thống. Red xuất hiện trong danh sách các album hay nhất của thập niên 2010 của nhiều ấn phẩm âm nhạc uy tín và xếp ở vị trí thứ 99 trong phiên bản sửa đổi năm 2020 của danh sách "500 Album hay nhất mọi thời đại" do Rolling Stone phát hành. Phiên bản tái thu âm của album mang tên Red (Taylor's Version) đã được ra mắt vào ngày 12 tháng 11 năm 2021 sau cuộc tranh cãi quyền sở hữu tác phẩm của Swift.

Bối cảnh và phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Swift trên phim trường Good Morning America trong tuần lễ phát hành Red vào tháng 10 năm 2012.

Trong khi tự thân đảm nhiệm sáng tác trong toàn bộ album Speak Now (2010), Swift lại tham gia hợp tác cùng nhiều nhà sản xuất khác nhau trong Red, trong đó có Max Martin, Ed SheeranShellback.[2] Trong một bài phỏng vấn cùng Rolling Stone vào tháng 8 năm 2012, Swift mô tả việc mình "có cơ hội được cộng tác với nhiều người mà tôi mến mộ trong làng nhạc. Album này bao gồm nhiều nhà đồng sáng tác và nhiều người sản xuất nhiều thứ khác nhau."[2] Cô xác nhận việc đã sáng tác hơn 30 bài hát[3] và bỏ ra thời gian hơn hai năm để hoàn thành quá trình thu âm, sáng tác và chuẩn bị cho album lần này,[4] đồng thời chia sẻ "Những câu chuyện tình ngọt ngào nhưng cũng lắm chông gai trắc trở luôn gợi cho tôi rất nhiều suy nghĩ, sáng tác ca khúc về đề tài ấy thật sự thú vị, nhưng cũng lắm khi khiến bạn buồn lây. Tuy nhiên chắc chắn đề tài ấy là một nguồn cảm hứng bất tận."[5]

Ban đầu, Swift thực hiện 20 bài hát cùng Nathan Chapman, cộng tác viên lâu năm cùng Swift ở 3 album phòng thu trước đây.[6] Tuy nhiên, sau khi cảm thấy mình cần phải "bước ra khỏi vùng an toàn" ở sản phẩm lần này, cô quyết định tham gia hợp tác cùng nhiều nhà sản xuất khác.[7] Trong lần phỏng vấn cùng MTV News, cô tiết lộ việc album này "rất thú vị vì mỗi bài hát đều có một chỗ đứng riêng của nó".[8] Cô cho biết bài hát "Red" chính là bước ngoặt của album này, khiến cô phải tự hỏi những khả năng mà cô có thể thực hiện.[6]

Vào ngày 7 tháng 8 năm 2012, Swift đăng tải một đoạn video lên tài khoản YouTube của mình và thông báo về một buổi webchat diễn ra vào ngày 13 tháng 8, nơi cô thông báo tựa đề, kết cấu và ngày phát hành album trước 72.500 khán giả.[9] Swift phát hành "Begin Again", "Red" và "I Knew You Were Trouble" dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số vào mỗi thứ Hai hàng tuần trên hệ thống iTunes và chương trình Good Morning America, từ ngày 24 tháng 9 đến ngày 15 tháng 10.[10] Các phiên bản thường và cao cấp của album được phát hành vào ngày 22 tháng 10 năm 2012 tại Ý, Hoa Kỳ, New Zealand và nhiều quốc gia khác.[11][12][13] Một phiên bản karaoke của album cũng được phát hành vào ngày 5 tháng 2 năm 2013 trên iTunes Store, bao gồm các phiên bản nhạc khí từ tất cả bài hát của phiên bản thường.[14]

Sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Swift tham gia sáng tác cho tất cả các bài hát trong phiên bản thường lẫn cao cấp của Red,[1] cùng nhiều tác giả khác như Dan Wilson, Max Martin, Shellback, Liz Rose, Jacknife Lee, Gary Lightbody, Ed SheeranPatrick Warren.[15] Về nhạc lý, album chủ yếu bao gồm các thể loại nhạc đồng quê, pop rockpop đồng quê,[1] với mô tả từ Billboard cho rằng đây là "album pop trưởng thành đầu tiên" của Swift.[16] Album bắt đầu bằng nhạc phẩm "State of Grace", một bài hát alternative rock với những tiếng trốngguitar dứt khoát,[16] cùng những ảnh hưởng từ ban nhạc The Stone Roses, The Cure,[17] U2, Florence + The MachineThe Cranberries.[18] Theo Swift, lời bài hát kể về "lần đầu bạn phải lòng ai đó" với giai điệu khiến ta cảm thấy như "được yêu theo một cách sử thi".[18] Bài hát cùng tên với album sở hữu "nhịp điệu aerobic làm nền tảng vững chắc cho chất giọng đăm chiêu của Swift, với phần sản xuất liên tưởng đến bài hát ăn khách 'Love Story'".[19] Billy Dukes từ State of Country cho rằng "Red" là một trong những bài hát mang ca từ xuất sắc nhất trong album.[20] Swift sáng tác "Treacherous" cùng với Dan Wilson và là bài hát đầu tiên trong album có chứa phần "nhạc cụ tổng hợp".[1] Trong khi About.com cho rằng ca từ bài hát này kể về việc "đánh mất sự trinh trắng",[21] Jessica Zaleski từ Taste of Country lại cho rằng bài hát gợi lên sự day dứt cùng một chuyện tình hoặc một người nào đó không tốt.[22]

Bài hát Swift tâm đắc nhất trong album,[23] "I Knew You Were Trouble" mang ảnh hưởng của dòng nhạc dubsteppop,[16] với sự góp mặt của Max Martin và Shellback trong vai trò đồng sáng tác và sản xuất.[16] Phần ca từ bài hát kể về một chuyện tình từng chấm dứt, nơi mà nhân vật chính luôn nhận biết được đoạn cùng của mối quan hệ.[24] "All Too Well" là sáng tác của Swift cùng Liz Rose,[1] nói về lúc "Swift bay nhảy quanh bếp trong ánh sáng của chiếc tủ lạnh cùng những ký ức lãng mạn tưởng chừng đã chôn vùi theo thời gian",[22] với chi tiết "chàng trai gửi trả lại mọi thứ, anh vẫn giữ lại chiếc khăn choàng cổ của cô" được so sánh với mối tình giữa Swift và Gyllenhaal.[24] "22" là "bài hát nhạc pop vô tư nhất trong sự nghiệp của cô"[16] khi đề cập về việc "quên đi những ràng buộc" và "trở nên trẻ trung, thư giãn và ăn mặc như hipster".[25] Bản ballad "I Almost Do" được mô tả "đơn giản nhưng đầy cảm xúc",[16] với ca từ thuật lại cảm giác "day dứt với người tình cũ sau một mối quan hệ".[22][26] "We Are Never Ever Getting Back Together" mang giai điệu pop nổi bật và cho thấy "tính trưởng thành rõ rệt" của Swift.[1][27][28][29]

"Stay Stay Stay" là một trong những bài hát mang đậm âm điệu đồng quê nhất trong album[26] và được mô tả là "phiên bản ngốc nghếch hơn của 'Ours'".[16] Do Swift cộng tác cùng Gary Lightbody và Jacknife Lee, "The Last Time" "gợi lên phiên bản không lời của 'Set the Fire to the Third Bar'".[1][16][16] "Holy Ground" là một trong những bài hát được Swift tự thân sáng tác, với giai điệu đồng quê rock, kể về khoảnh khắc phấn khích trong một mối tình mà "mọi nơi ta dừng chân đều là thánh địa".[1][16] Bài hát thứ 12 trong album, "Sad Beautiful Tragic" thể hiện sự "tươi sáng một cách u buồn, gợi nhớ đến cặp đôi Mazzy Star."[1] Theo Swift, "Sad Beautiful Tragic" là bài hát rất gần gũi với cô, khi được cô sáng tác sau một buổi diễn và nghĩ rằng "chuyện tình này đã kết thúc nhiều tháng trước đây".[6] "The Lucky One" ám chỉ đến "sự nguy hiểm nơi danh vọng Hollywood",[16] được Swift lấy ý tưởng từ "huyền thoại dòng nhạc folk pop" Joni Mitchell.[16] "Everything Has Changed" là bài hát được Swift song ca và đồng sáng tác cùng Ed Sheeran,[1] lột tả việc "đang yêu và biết được ai đó bỗng dưng thay đổi cái nhìn của bạn về thế giới."[30] "Starlight" mang giai điệu disco sôi động với phần lời nhạc kể về thời điểm mà Swift cùng bạn trai mới chỉ 17 tuổi,[16] nơi "cô gái trong bài hát nhảy suốt đêm cùng bạn trai của mình."[26] Phiên bản thường của album được kết thúc bằng bài hát thứ 16, "Begin Again",[1] kể về việc "tìm được hy vọng ở đoạn cùng của sự hỗn loạn."[16] Phiên bản cao cấp của album có chứa thêm 3 bài hát mới, "Come Back... Be Here", "Girl At Home" và "The Moment I Knew"; hai bản thu thử cho bài hát "Treacherous" và "Red"; và 1 một phiên bản phối lại của "State of Grace".[31]

Quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
Swift biểu diễn trong chuyến lưu diễn Red Tour vào năm 2013.

Vào ngày 25 tháng 10 năm 2012, Swift công bố thực hiện chuyến lưu diễn quảng bá The Red Tour trên trang mạng chính thức của mình,[32] chia sẻ rằng đây là chuyến lưu diễn mang tính "trưởng thành hơn" trước đây nhờ vào các hiệu ứng hình ảnh mà cô áp dụng.[33] Chuyến lưu diễn kéo dài 15 tháng, bắt đầu từ ngày 13 tháng 3 năm 2013 tại Omaha, Nebraska[32] và kết thúc vào ngày 12 tháng 6 năm 2014 tại Singapore,[34] với tổng cộng 86 đêm diễn tại 12 quốc gia.[35] Trong ngày bán vé đầu tiên vào 16 tháng 11 năm 2012, tình trạng cháy vé diễn ra tại nhiều sân vận động và đấu trường Hoa Kỳ chỉ trong vòng vài phút.[36] Vì lượng yêu cầu cao, 4 đêm diễn nữa được tổ chức tại Toronto, FoxboroughLos Angeles lần lượt trong tháng 6, 7 và 8.[36]

Trong một cuộc khảo sát vào giữa năm 2013, đọc giả của Billboard bình chọn Red Tour là "Chuyến lưu diễn xuất sắc nhất của năm", cùng Diamonds World Tour của RihannaBecause We Can Tour của Bon Jovi.[37] Với ghi nhận tổng doanh thu đạt 150 triệu đô-la Mỹ từ 1.702.933 vé, đây là chuyến lưu diễn thành công nhất của một nghệ sĩ đơn ca nhạc đồng quê, phá vỡ kỷ lục 141 triệu đô-la Mỹ của Soul2Soul do Tim McGrawFaith Hill khởi xướng vào năm 2006.[35] Đây cũng là chuyến lưu diễn thành công nhất năm 2013 tại khu vực Bắc Mỹ và đứng ở vị trí thứ 8 trên toàn cầu với lượng doanh thu đạt 112.7 triệu đô-la Mỹ.[38] The Red Tour nhận được một đề cử tại Teen Choice Awards 2013 trong hạng mục "Chuyến lưu diễn mùa hè xuất sắc nhất", nhưng lại chào thua trước Take Me Home Tour của One Direction.[39]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 13 tháng 8 năm 2012, Swift trình làng đĩa đơn đầu tiên từ buổi webchat cùng người hâm mộ, "We Are Never Ever Getting Back Together".[9][40] Đĩa đơn đạt 623.000 bản kỹ thuật số trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ, xếp thứ ba trong những đĩa đơn bán chạy nhất trong tuần lễ ra mắt và từng là đĩa đơn kỹ thuật số có mở đầu thành công nhất bởi một nữ nghệ sĩ.[41][42][43] Đây là bài hát đầu tiên của Swift đoạt ngôi quán quân Billboard Hot 100[44] và là bài hát thứ 11 của cô đạt đến top 10, phá vỡ kỷ lục có nhiều bài hát đạt top 10 nhất của một nghệ sĩ nhạc đồng quê mà Kenny Rogers từng nắm giữ.[45] Bài hát còn đạt ngôi quán quân tại CanadaNew Zealand, trong khi vươn đến top 10 tại Úc, Ireland và Na Uy.[46] Tính đến tháng 11 năm 2014, bài hát đã đạt ngưỡng 3.9 triệu bản tại Hoa Kỳ.[47] "Begin Again" được chọn ra mắt dưới dạng đĩa đơn chính thức vào ngày 1 tháng 10 năm 2012,[48] dẫn đầu Billboard Hot Digital Songs với 299.000 bản trong tuần đầu phát hành, trở thành nhà quán quân thứ năm của Swift tại đó.[49] Sau cùng, bài hát đạt đến vị trí thứ 7 trên Billboard Hot 100 vào ngày 4 tháng 10 năm 2012,[50] được chứng nhận Bạch kim bởi RIAA.[51] Bài hát đồng thời đạt đến vị trí thứ 4, 11 và 20 lần lượt tại Canada, New ZealandÚc.[52]

"I Knew You Were Trouble" được phát hành dưới dạng đĩa đơn chính thức thứ 3 từ Red,[53] mở đầu tại vị trí thứ 3 tại Billboard Hot 100 và ngôi đầu bảng Hot Digital Songs với 416.000 bản trong tuần đầu phát hành, trở thành bài hát thứ 14 của Swift đạt đến top 10, là bài hát thứ 11 của cô mở đầu trong khuôn khổ top 10 và là bài hát thứ hai của cô dẫn đầu Digital Songs.[54] Bài hát sau đó đạt đến vị trí Á quân Hot 100 với 582.000 bản được tiêu thụ,[55] trở thành đĩa đơn có lượng doanh số trong một tuần cao thứ năm mọi thời đại.[41][55] Bài hát đạt chứng nhận Bạch kim lần thứ 5 bởi RIAA vào tháng 12 năm 2013[51] Bài hát còn đạt ngôi vị Á quân tại Canada và Anh Quốc, đứng tại vị trí thứ 3 tại New Zealand và Úc, trong khi nằm ở top 10 tại Bỉ, Đan Mạch và Ireland.[54][56][57]

Big Machine Records tiếp tục cho phát hành "22" làm đĩa đơn thứ 4 trích từ Red vào ngày 12 tháng 3 năm 2013,[58] đạt đến vị trí thứ 44 trên Billboard Hot 100[59] và vị trí thứ 7 trên Hot Digital Songs với doanh số đạt 108.000 bản trong tuần lễ phát hành album.[60] Từ khi được chọn phát hành làm đĩa đơn, bài hát này đạt đến vị trí thứ 20 tại Hot 100[61] và vị trí thứ 9 trên UK Singles Chart.[62] Tính đến tháng 11 năm 2014, bài hát đã tiêu thụ 2 triệu bản tại Hoa Kỳ.[47] "Red" được chọn ra mắt dưới dạng đĩa đơn thứ 4 trích từ album, đạt đến vị trí thứ 6 tại Hoa Kỳ,[61] với doanh số đạt ngưỡng 1.4 triệu bản.[47] "Everything Has Changed" là đĩa đơn thứ năm vào ngày 16 tháng 4 năm 2013.[63] Tại Hoa Kỳ, "Everything Has Changed" giữ ngôi vị thứ 32 trên Billboard Hot 100; vị trí thứ 11 trên Adult Contemporary và thứ 14 trên Mainstream Top 40.[61] Trên Canadian Hot 100, đĩa đơn đạt đến vị trí thứ 28.[61] Bài hát đến nay đã được chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm New Zealand,[64] Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ,[51] và 2 lần Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.[65] "The Last Time" là đĩa đơn cuối cùng được chọn ra mắt từ Red vào ngày 4 tháng 11 năm 2013.[66]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic77/100[67]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[1]
The A.V. ClubB+[68]
Billboard86/100[16]
Entertainment WeeklyB+[69]
The Guardian[70]
Los Angeles Times[71]
Robert ChristgauA−[72]
Rolling Stone[73]
Spin8/10[74]

Red nhận được nhiều phản hồi tích cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc. Trên Metacritic, một trang mạng tổng hợp điểm đánh giá trung bình của các nhà phê bình với thang điểm 100, album nhận được 77 điểm, dựa trên 23 bài đánh giá.[67] Melissa Maerz từ Entertainment Weekly cho album này điểm B+ và cho rằng Red tìm được hình ảnh của cô "khi hát về lúc tiến thẳng đến vũng cát lún hỗn tạp, trong lúc đang tán tỉnh những gã tồi mà Kanye West có thể cùng nâng rượu mừng" và kết thúc bài nhận xét bằng việc nhận định album này có thể nói về việc "ve vãn với sự nguy hiểm".[69] The Guardian cũng cho một đánh giá tích cực, khi phong tặng album 4/5 sao và cho rằng "Red dường như được lấy cảm hứng từ những trải nghiệm và tiết tấu nhanh về tình yêu của cô, về những chuyến phiêu lưu điên rồ, cách mà cô bỏ ra thời gian để chào đón một đoàn duyệt binh của những người tình tốt và xấu, chỉ có Chúa mới biết được."[70] Jon Dolan từ Rolling Stone tìm thấy một vài ảnh hưởng trong album này từ Joni MitchellU2, đồng thời phong tặng album 3.5/5 sao và cho rằng "dự án tự khám phá bản thân của cô ấy là một trong những câu chuyện xuất sắc nhất trong làng nhạc pop."[73] Billboard tiếp tục cho một đánh giá tích cực khác, khi gọi đây là "album hấp dẫn nhất của cô ấy cho đến nay" và khen ngợi "phần hook vĩ đại và lực lưỡng giúp cô chuyển từ gốc nhạc đồng quê sang một bản thu âm đa dạng thể loại, đạt đến tầm cao chưa từng thấy kể từ Up! của Shania Twain."[16]

Stephen Thomas Erlewine từ Allmusic cảm thấy Red "sử dụng sự nữ tính của Swift làm cốt yếu và cho phép cô thử nghiệm những xu thế mới nhất trong khi vẫn nghe hệt như chính cô ấy."[1] Robert Christgau đề cao album này khi anh yêu thích những bài hát vui tươi trong album và khen ngợi "Begin Again" và "Stay Stay Stay" cho sự hạnh phúc và bắt tai của nó.[72] Michael Gallucci từ The A.V. Club cho rằng "Về mặt ca từ, đây vẫn là con đường cũ mà Swift từng rảo bước từ thuở đầu vào năm 2006, chỉ có đôi chút sâu sắc và tối màu hơn mà thôi. Nhưng về mặt nhạc lý, đây là động thái lớn và táo bạo hơn bất cứ điều gì mà cô từng thực hiện ở dòng nhạc pop", dù vậy vẫn cho rằng album "phức tạp và đôi lúc khó hiểu".[68] Los Angeles Times đề cao album này khi nhận định "sự linh hoạt chính là tính đặc thù nổi bật nhất của album này".[71] Slant Magazine lại cho một nhận xét khắt khe hơn, khi cho rằng "Nếu Red quá thất thường để trở thành một album pop xuất sắc, thì chính những điểm nhấn của nó lại giúp đây là sản phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp Swift, người mà giờ đây nghe hệt như một ngôi sao nhạc pop được định sẵn từ trước đây rất lâu."[75]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Red góp mặt tại vị trí thứ hai trong bảng tổng sắp của Idolator[76]The New York Times, cho rằng "[Swift] trở nên rực rỡ trong những khoảnh khắc bất ngờ nhất của album này, album thứ tư và cũng là album đầu tiên mà cô không còn giả vờ thành bất cứ ai ngoài một ngôi sao nhạc pop."[77] MTV xếp Red ở vị trí thứ 3, khi khẳng định rằng "Swift đang có những bước to lớn để trở thành một nghệ sĩ thật sự".[78] Rolling Stone xếp album tại vị trí thứ 31 trong danh sách của họ, khi cho rằng album này "sâu sắc và đề bật lên khả năng trời phú của Swift trong việc dẫn dắt và những đoạn hook không thể chối bỏ được".[79] Album còn xuất hiện trong danh sách 10 album xuất sắc nhất năm 2012 của Billboard,[80] vị trí thứ 10 tại HitFix[81]Newsday xếp album ở vị trí thứ 6.[82]

Vào năm 2013, album nhận được hai đề cử dành cho "Album của năm" tại giải thưởng Academy Of Country Music Awards.[83] Tại lễ trao giải Juno, cô nhận được đề cử cho "Album quốc tế của năm", nhưng lại chào thua trước Babel của ban nhạc Mumford & Sons.[84] Tại Billboard Music Awards năm 2013, cô thắng đậm khi mang về 8 giải, trong đó có 2 giải "Album xuất sắc nhất Billboard 200" và "Album đồng quê xuất sắc nhất" cho Red.[85] Cô tiếp tục giành giải "Album Đồng quê được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ lần thứ 5 liên tiếp trong sự nghiệp, nhưng lại tuột mất giải "Album Pop/Rock được yêu thích nhất" về tay Take Me Home của One Direction.[86] Tại giải Grammy lần thứ 56 tổ chức tại Staples Center, Los Angeles vào ngày 26 tháng 1 năm 2014,[87] Red được đề cử cho "Album của năm" và "Album nhạc đồng quê xuất sắc nhất", trong khi "We Are Never Ever Getting Back Together" giành được đề cử cho "Thu âm của năm" và "Begin Again" cho "Bài hát nhạc đồng quê xuất sắc nhất".[88]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]
Với Red, Swift trở thành nghệ sĩ đầu tiên có 3 album liên tiếp đạt 6 tuần dẫn đầu Billboard 200, kể từ khi The Beatles đạt được thành tích này vào 43 năm trước.

Trong ngày đầu tiên phát hành tại Hoa Kỳ, album đạt hơn 500.000 bản, bao gồm 160.000 đĩa phiên bản cao cấp bán ra tại Target.[89] Với 1.21 triệu bản (bao gồm 465.000 bản kỹ thuật số) chỉ trong tuần phát hành,[90] Red trở thành album bán chạy nhất trong hơn 1 thập kỷ, là album thứ 18 trong lịch sử có cú mở đầu đạt ngưỡng 1 triệu bản, giúp Swift có album phòng thu thứ 3 đạt ngôi quán quân Billboard 200 và là một trong những album có mở đầu thành công nhất bởi một nữ nghệ sĩ.[90][91] Red có tuần lễ doanh số lớn nhất trong năm 2012,[92] và xếp bằng tổng doanh số của 52 album đứng đầu Billboard 200 trong tuần lễ đó. Đây cũng là album nhạc đồng quê có doanh số trong 1 tuần lễ cao nhất trong lịch sử, vượt mặt Double Live (1998) của Garth Brooks với 1.085 triệu bản. Trong tuần lễ thứ hai trên Billboard 200, album tiếp tục giữ vững ngôi quán quân tại Hoa Kỳ, với 344.000 bản (giảm 72%).[93] Tuần kế tiếp, Red vẫn đứng tại ngôi đầu bảng với 196.000 bản (giảm 43%), nâng tổng doanh số lên 1.749 bản và trở thành album bán chạy thứ 3 trong năm 2012, chỉ đứng sau 21 của AdeleUp All Night của One Direction.[94] Trong tuần lễ thứ 4, album bị truất ngôi bởi Take Me Home của One Direction.[95][96] 3 tuần sau, Red quay lại ngôi đầu bảng với 167.000 bản, giúp Swift sánh ngang cùng Jay-ZWhitney Houston cho nghệ sĩ có nhiều tuần lễ đứng đầu Billboard 200 nhất kể từ khi Nielsen SoundScan bắt đầu thống kê vào năm 1991.[97]

Swift tiếp tục giữ ngôi đầu Billboard 200 trong hai tuần kế tiếp,[98][99] giúp Swift trở thành nghệ sĩ đầu tiên có 3 album liên tiếp đạt 6 tuần dẫn đầu Billboard 200, kể từ khi The Beatles đạt được thành tích này vào năm 1969. Đồng thời, đây cũng là lần thứ 3 Swift có album đạt ngôi đầu bảng trong tuần lễ trước dịp Giáng Sinh, thời điểm cạnh tranh nhất trong năm.[100] Red chính thức chấm dứt 11 tuần không liên tiếp ở ngôi quán quân vào tuần lễ ngày 30 tháng 12 năm 2012, với doanh thu 241.000 bản (giảm 12%). Thành tích này nâng tổng số tuần giữ ngôi đầu bảng Billboard 200 trong sự nghiệp của Swift lên con số 24, san bằng với Adele cho nữ nghệ sĩ có nhiều tuần đạt ngôi quán quân nhất kể từ khi SoundScan bắt đầu thống kê Billboard 200 vào tháng 5 năm 1991.[101] Red là album bán chạy thứ hai trong năm 2012, cho dù chỉ mới được phát hành trong vòng 2 tháng cuối năm, với doanh số đạt 3.11 triệu bản, đánh dấu lần thứ 4 mà Swift có mặt trong top 3 album bán chạy nhất năm.[102] Tính đến tháng 7 năm 2014, album đã đạt ngưỡng 4.045.000 bản tại Hoa Kỳ.[103]

Tại Canada, Red giúp Swift có album thứ 3 đạt ngôi quán quân, với 93.000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu và dễ dàng đạt chứng nhận Bạch kim tại đó. Với doanh số kỷ lục trên, Red là album có tuần lễ doanh số cao nhất tại Canada kể từ khi Christmas của Michael Bublé đạt 107.000 bản trong mùa Giáng Sinh một năm trước và là album có doanh thu mở màn thành công nhất kể từ 2008.[104] Cho đến nay, Red đã 4 lần được chứng nhận Bạch kim bởi Music Canada.[105] Tại Anh Quốc, Red giúp Swift có album đầu tiên đạt ngôi quán quân, với doanh số đạt 61.000 bản trong tuần đầu phát hành.[106] Tại Úc, album đạt ngôi quán quân trong tuần lễ đầu tiên với 29.369 bản được tiêu thụ và tiếp tục đứng tại đó trong suốt 3 tuần liên tiếp.[107][108][109] Album hiện đã 4 lần đạt chứng nhận Bạch kim bởi ARIA, tương đương với doanh số 280.000 bản.[110] Tại New Zealand, đây là album thứ ba của Swift đạt ngôi quán quân và hiện đã được chứng nhận Bạch kim hai lần bởi RIANZ.[111] Album còn đạt ngôi quán quân tại Scotland[112] và Ireland, nơi Red kịp đạt 15.000 bản và giữ chứng nhận Bạch kim bởi Irish Recorded Music Association vào thời điểm cuối năm 2012.[113] Tại Nhật Bản, album bán ra 32.073 bản trong tuần đầu,[114] đạt chứng nhận Vàng với 106.072 bản, trước khi đạt tổng doanh số 140.885 bản trong tuần lễ xếp hạng thứ 11.[115] Tại Nam Phi, album đạt đến vị trí thứ 4 trên MediaGuide.[116]

Trên toàn thế giới, Red đạt ngưỡng 1.459 triệu bản trong tuần đầu tiên phát hành, bao gồm 560.545 bản trên Cửa hàng iTunes, trở thành album có tuần lễ doanh số kỹ thuật số mở đầu cao nhất trong lịch sử.[117] Sau đó, The 20/20 Experience của Justin Timberlake phá vỡ kỷ lục này với 580.000 bản trong tuần đầu phát hành vào năm 2013.[118] Tính đến tháng 5 năm 2013, album đã vượt ngưỡng 6 triệu bản trên toàn cầu.[119]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
RedPhiên bản thường
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."State of Grace"Taylor Swift4:55
2."Red"Swift
3:43
3."Treacherous"
Wilson4:02
4."I Knew You Were Trouble"
  • Martin
  • Shellback
3:39
5."All Too Well"
  • Chapman
  • Swift
5:29
6."22"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:52
7."I Almost Do"Swift
  • Chapman
  • Swift
4:04
8."We Are Never Ever Getting Back Together"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:11
9."Stay Stay Stay"Swift
  • Chapman
  • Swift
3:25
10."The Last Time" (hợp tác với Gary Lightbody từ Snow Patrol)
Lee4:59
11."Holy Ground"SwiftJeff Bhasker3:22
12."Sad Beautiful Tragic"Swift
  • Chapman
  • Swift
4:44
13."The Lucky One"SwiftJeff Bhasker4:00
14."Everything Has Changed" (hợp tác với Ed Sheeran)
  • Swift
  • Sheeran
Butch Walker4:05
15."Starlight"Swift
  • Huff
  • Chapman
  • Swift
3:40
16."Begin Again"Swift
  • Huff
  • Chapman
  • Swift
3:57
Tổng thời lượng:65:09
RedPhiên bản cao cấp (đĩa 2)
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."The Moment I Knew"Swift
  • Chapman
  • Swift
4:46
2."Come Back... Be Here"
  • Swift
  • Wilson
Dan Wilson3:43
3."Girl at Home"Swift
  • Chapman
  • Swift
3:40
4."Treacherous" (bản thu thử gốc)
  • Swift
  • Wilson
Dan Wilson4:00
5."Red" (bản thu thử gốc)Swift
  • Chapman
  • Swift
3:47
6."State of Grace" (phiên bản mộc)Swift
  • Chapman
  • Swift
5:23
Tổng thời lượng:25:16
RedPhiên bản có hạn tại Pháp (DVD) - Trực tiếp tại Seine
STTNhan đềSáng tácThời lượng
1."Red"Swift 
2."You Belong with Me"
  • Swift
  • Rose
 
3."22"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
 
4."I Knew You Were Trouble"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
 
5."Love Story"
  • Swift
 
6."We Are Never Ever Getting Back Together"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
 

Những người thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội ngũ tham gia sản xuất Red dựa trên phần bìa ghi chú.[120]

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận doanh số

[sửa | sửa mã nguồn]
Chứng nhận của Red cùng với doanh số thuần nếu có
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[201] 5× Bạch kim 350.000double-dagger
Áo (IFPI Áo)[202] Bạch kim 20.000*
Bỉ (BEA)[203] 2× Bạch kim 60.000double-dagger
Brasil (Pro-Música Brasil)[204] Vàng 20.000*
Canada (Music Canada)[205] 4× Bạch kim 320.000^
Colombia[206] Vàng  
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[207] Bạch kim 20.000double-dagger
Pháp (SNEP)[208] Vàng 50.000double-dagger
Đức (BVMI)[209] Bạch kim 300.000double-dagger
Ireland (IRMA)[210] Bạch kim 15.000^
Nhật Bản (RIAJ)[211] Bạch kim 250.000^
Nhật Bản (RIAJ)[212]
Tải kỹ thuật số
Vàng 100.000*
México (AMPROFON)[213] Vàng 30.000^
New Zealand (RMNZ)[214] 2× Bạch kim 30.000^
Ba Lan (ZPAV)[215] Vàng 10.000*
Singapore (RIAS)[216] 2× Bạch kim 20.000*
Thụy Điển (GLF)[217] Vàng 20.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[219] 2× Bạch kim 619.000[chú thích 5]
Hoa Kỳ (RIAA)[51] 7× Platinum 4.490.000[chú thích 6]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Ngày phát hành Phiên bản Nhãn thu âm Nguồn
Canada 22 tháng 10 năm 2012
  • Phiên bản thường
  • phiên bản cao cấp
Universal Music
[221][222]
Ấn Độ
Phiên bản thường
[223]
New Zealand
  • Phiên bản thường
  • phiên bản cao cấp
[13]
Anh Quốc
Mercury Records
[224][225]
Hoa Kỳ
  • Phiên bản thường
  • phiên bản cao cấp
Big Machine Records
[12][226][227][228]
4 tháng 12 năm 2012
LP Đĩa than
5 tháng 2 năm 2013
Karaoke CD+G/DVD
Ý
23 tháng 10 năm 2012
  • Phiên bản thường
  • phiên bản cao cấp
Universal Music
[11][229]
Tây Ban Nha
[230][231]
Nhật Bản
24 tháng 10 năm 2012
[232][233]
Đức
26 tháng 10 năm 2012
[234][235]
Pháp
5 tháng 11 năm 2012
  • Phiên bản thường
  • phiên bản cao cấp
Mercury Records
[236][237][238]
22 tháng 4 năm 2013
CD/DVD giới hạn
Trung Quốc
31 tháng 12 năm 2012
Phiên bản thường
Guangdong StarSing
[239][240]
25 tháng 5 năm 2013
Phiên bản cao cấp

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Các vị trí bảng xếp hạng được liệt kê bên dưới trùng với thời điểm phát hành bản tái thu âm năm 2021 Red (Taylor's Version). Ở Áo, Đức và Thụy Sĩ, doanh số bán hàng của Red bản gốc sẽ gộp với bản (Taylor's Version).
  2. ^ Tính theo album trong giai đoạn 1963–2015 của Billboard[196][197]
  3. ^ Tính theo album trong giai đoạn 1963–2017 của Billboard[198][199]
  4. ^ Tính theo album trong giai đoạn 1963–2016 của Billboard[200]
  5. ^ Doanh số của Red ở Anh tính đến tháng 6 năm 2021[218]
  6. ^ Doanh số của Red của Hoa Kỳ tính đến tháng 10 năm 2020[220]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Erlewine, Stephen Thomas. “Red – Taylor Swift”. AllMusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2012.
  2. ^ a b JoE Pinsker (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift to Release New 'Red' Album in October”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2014.
  3. ^ Effron, Lauren (ngày 13 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift Reveals New Album, 'Red,' Drops New Single, 'We Are Never Ever Getting Back Together': ABC Exclusive”. American Broadcasting Company. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2013.
  4. ^ Garibaldi, Christina (ngày 22 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift 'Freaking Out' Over Red's Instant Success”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2013.
  5. ^ “Taylor Swift háo hức vì album mới toanh - Red”. MTV Việt Nam. MTV Networks. ngày 3 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  6. ^ a b c Phil Gallo (ngày 19 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift Q&A: The Risks of 'Red' and The Joys of Being 22”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  7. ^ Chuck Dauphin (ngày 13 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift Announces 'Red' Album, New Single”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2012.
  8. ^ Garibaldi, Christina (ngày 23 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift Calls Red A 'Patchwork Quilt' Of Emotions”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2015.
  9. ^ a b Grady Smith (ngày 14 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift releases single 'We Are Never Ever Getting Back Together', announces new album 'Red'. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2012.
  10. ^ Alyssa Bernstein (ngày 21 tháng 9 năm 2013). "Good Morning America" Exclusive: Taylor Swift Launches Red Album Release With 4-Week Song Preview Countdown – Exclusively on ABC's "Good Morning America". American Broadcasting Company. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2013.
  11. ^ a b “Red Deluxe: Taylor Swift: Amazon.it: Musica”. Amazon.it. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2012.
  12. ^ a b Red. “Red: Taylor Swift: Music”. Amazon. Amazon.com. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2012.
  13. ^ a b “Red: Mightyape: Music”. mightyape.co.nz. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2012.
  14. ^ “Taylor Swift Karaoke: Red”. iTunes Store. Apple Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2013.
  15. ^ “Red [Deluxe Download Version] - Taylor Swift”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012.
  16. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r “Taylor Swift, 'Red': Track-By-Track Review”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  17. ^ Sam Lansky (ngày 16 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift's "State of Grace": Review Revue”. Idolator. SpinMedia. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  18. ^ a b Jessica Sager (ngày 15 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift, 'State of Grace' – Song Review”. PopCrush. Townsquare Media. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  19. ^ Sam Lansky (ngày 2 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift's "Red": Hear The Jangly Country Track”. Idolator. SpinMedia. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  20. ^ Billy Dukes. “Best Taylor Swift 'Red' Lyrics”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2012.
  21. ^ Robert Silva. 'Treacherous' - Song Review”. About.com. The New York Times Company. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  22. ^ a b c Billy Dukes (ngày 19 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift, 'Red' – Album Review”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  23. ^ Jessica Nicholson (ngày 8 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift Premieres 'I Knew You Were Trouble' on 'Good Morning America'. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  24. ^ a b Monaghan, Patricia (ngày 23 tháng 10 năm 2012). “Swift Analysis: The (Almost) Definitive Guide to the Subjects of All 19 'Red' Songs”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  25. ^ Robert Silva. '22' - Song Review”. About.com. The New York Times Company. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  26. ^ a b c Jessica Zaleski. “Decoding Taylor Swift's Red: We Figured Out Who Each Song Is About”. Crushable. Defy Media. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2013.
  27. ^ James Montgomery. “Taylor Swift's 'Never Ever Getting Back Together:' No More Tears”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2012.
  28. ^ Grady Smith. “Taylor Swift releases single 'We Are Never Ever Getting Back Together', announces new album 'Red'. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012.
  29. ^ Billy Dukes (ngày 13 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift, 'We Are Never Ever Getting Back Together' – Song Review”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  30. ^ Lewis Corner (ngày 18 tháng 10 năm 2012). “Music Taylor Swift, Ed Sheeran duet 'Everything Has Changed' leaks - listen”. Digital Spy. The Hearst UK Entertainment Network. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2012.
  31. ^ Christina Garibaldi (ngày 23 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift Unveils Early Red 'Demos' On Deluxe LP”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2012.
  32. ^ a b “Taylor Swift Announces 'Red' Tour Dates”. Rolling Stone. ngày 27 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  33. ^ Jocelyn Vena (ngày 3 tháng 12 năm 2013). “Taylor Swift Ending Her Fairy Tale Days On 'More Mature' Red Tour”. MTV News. MTV Network. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013.
  34. ^ John Walker (ngày 6 tháng 12 năm 2012). “Taylor Swift Wraps Her Red Tour With An Epic 'All Too Well' Hair Flip, Fans Tweet Through The Tears”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2013.
  35. ^ a b Bob Allen (ngày 13 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift's Red Wraps as All-Time Country Tour”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2012.
  36. ^ a b Megan Pacella (ngày 16 tháng 11 năm 2012). “Taylor Swift Red Tour Tickets Sell Out in Minutes”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2012.
  37. ^ “Taylor Swift Rules Billboard.com's 2013 Mid-Year Music Awards”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 1 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  38. ^ Amy Sciarretto (ngày 11 tháng 1 năm 2014). “Taylor Swift Had Highest-Grossing North American Tour of 2013”. Taste of Country. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2014.
  39. ^ “2013 Teen Choice Awards: The Winners List”. MTV News. MTV Networks. ngày 8 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2013.
  40. ^ “Taylor Swift: We Are Never Ever Getting Back Together”. Google Play. Google Inc. ngày 13 tháng 8 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2012.
  41. ^ a b Gary Trust & Keith Caulfield (ngày 4 tháng 11 năm 2015). “Adele's 'Hello' Has Biggest Sales Week for a Single Since Elton John's Princess Diana Tribute in 1997”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2015.
  42. ^ Silvio Pietroluongo (ngày 18 tháng 2 năm 2009). “Flo Rida Topples Single-Week Download Mark”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2012.
  43. ^ Caulfield, Keith (ngày 21 tháng 8 năm 2012). “Official: Taylor Swift's 'Never' Song Sells 623,000; Sets Female Digital Record”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2012.
  44. ^ Gary Trust (ngày 22 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift Scores First Hot 100 No. 1”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2012.
  45. ^ Paul Grein (ngày 20 tháng 8 năm 2012). “Week Ending Aug. 19, 2012. Songs: Swift Makes Digital History”. Nielsen SoundScan. Yahoo! Music. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2012.
  46. ^ “Taylor Swift - We Are Never Ever Getting Back Together”. aCharts. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2012.
  47. ^ a b c Trust, Gary (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “Ask Billboard: All-Taylor Swift Edition”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2014.
  48. ^ “Limited Edition: "Begin Again" Single CD”. Amazon.com (US) Amazon, Inc. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2012.
  49. ^ Keith Caulfield (ngày 3 tháng 10 năm 2012). “Mumford & Sons, Green Day, No Doubt Debut at Nos. 1-3 otn Billboard 200 Chart”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2012.
  50. ^ Gary Trust (ngày 3 tháng 10 năm 2012). “PSY Can't Beat Maroon 5 In Close Race For Hot 100's Top Spot”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2012.
  51. ^ a b c d “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  52. ^ “Taylor Swift - Begin Again”. aCharts. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2012.
  53. ^ Boardman, Madeline (ngày 9 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift's 'I Knew You Were Trouble' Is Latest Single Off 'Red'. The Huffington Post. Arianna Huffington. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  54. ^ a b Grein, Paul (ngày 18 tháng 10 năm 2012). “Week Ending Oct. 14, 2012. Songs: Taylor Swift's Digital Record”. Nielsen SoundScan. Yahoo! Music. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2012.
  55. ^ a b Keith Caulfield (ngày 3 tháng 1 năm 2013). “Taylor Swift Leads Record Breaking Digital Sales Week”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2013.
  56. ^ “Taylor Swift - I Knew You Were Trouble”. aCharts. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2012.
  57. ^ Gary Trust (ngày 27 tháng 12 năm 2012). “Bruno Mars Marks a Chart First With Hot 100 Leader 'Heaven'. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  58. ^ “Top 40/M Future Releases (5 tháng 3 năm 2013)”. All Access Music Group. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2013.
  59. ^ “Hot 100 – Week of January 12, 2013 (Biggest Jump)”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013.
  60. ^ Grein, Paul (ngày 31 tháng 10 năm 2012). “Week Ending Oct. 28, 2012. Songs: Chris Brown's Comeback”. Yahoo! Music. Yahoo!. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013.
  61. ^ a b c d “Taylor Swift - Chart History”. Billboard Hot 100 for Taylor Swift. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2014.
  62. ^ Zywietz, Tobias. “Chart Log UK: New Entries Update – 3.11.2012 (Week 43)”. zobbel.de. Tobias Zywietz. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2012.
  63. ^ Sam Lansky (ngày 23 tháng 4 năm 2013). “Taylor Swift Preps Ed Sheeran Duet "Everything Has Changed" As Next Single”. Idolator. SpinMedia. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2013.
  64. ^ “NZ Top 40 Singles Chart”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2014.
  65. ^ “Accreditations – 2013 Singles”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2014.
  66. ^ Lane, Daniel (ngày 4 tháng 11 năm 2013). “This week's new releases 04-11-2013”. Official Charts. Official Charts Company. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2014.
  67. ^ a b “Red Reviews, Ratings, Credits, and More”. Metacritic. CBS Interactive. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  68. ^ a b Gallucci, Michael (ngày 24 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift: Red”. The A.V. Club. The Onion, Inc. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2012.
  69. ^ a b Maerz, Melissa (ngày 18 tháng 10 năm 2012). “Red – review – Taylor Swift Review”. Entertainment Weekly. Time Warner. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2012.
  70. ^ a b Mossman, Kate (ngày 18 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift: Red – review”. The Guardian. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2012.
  71. ^ a b Roberts, Randall (ngày 22 tháng 10 năm 2012). “Album review: Taylor Swift's 'Red' brims with confidence”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  72. ^ a b Christgau, Robert (ngày 13 tháng 11 năm 2012). “Taylor Swift/Donald Fagen The ingenue and the roue”. MSN. Microsoft Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2012.
  73. ^ a b Dolan, Jon (ngày 18 tháng 10 năm 2012). “Review: Taylor Swift – Red”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2014.
  74. ^ Robbins, Michael (ngày 25 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift, 'Red' (Big Machine)”. Spin. Buzzmedia. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  75. ^ Keefe, Jonathan (ngày 22 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift: Red”. Slant Magazine. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  76. ^ Robbie Daw (ngày 20 tháng 6 năm 2012). “2012′s Best Albums: Idolator Editors Pick Their Favorite 10”. Idolator. SpinMedia. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
  77. ^ Jon Caramanica (ngày 12 tháng 12 năm 2012). “Jon Caramanica's Top 10 Albums of 2012”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
  78. ^ James Montgomery (ngày 13 tháng 12 năm 2012). “Best Albums Of 2012”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
  79. ^ “50 Best Albums of 2013; Taylor Swift, Red”. Rolling Stone. ngày 2 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2012.
  80. ^ “10 Best Albums of 2012: Critics' Picks”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 17 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
  81. ^ Melinda Newman (ngày 7 tháng 12 năm 2012). “Frank Ocean and Bruno Mars make our Top 10 albums of 2012”. HitFix. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
  82. ^ Glenn Gamboa (ngày 27 tháng 12 năm 2012). “Best of 2012: Albums #10-#6”. Newsday. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
  83. ^ “Nominations Announced for the 48th Annual Academy Of Country Music® Awards Country Music's Party of the Year®”. Academy Of Country Music Awards. ngày 13 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2013.
  84. ^ “Juno Awards 2013: the winners”. CBC Music. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2013.
  85. ^ Phil Gallo (ngày 19 tháng 5 năm 2013). “Taylor Swift, Gotye and Rihanna Win Big at Billboard Music Awards”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2013.
  86. ^ “American Music Awards: The Complete Winners List”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2013.
  87. ^ Jon Weisman (ngày 13 tháng 5 năm 2013). “Grammy Awards Set for Jan. 26”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2013.
  88. ^ “56th Annual GRAMMY Awards Winners & Nominees”. Giải Grammy. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2014.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  89. ^ “Album Red của Taylor Swift phá kỉ lục về doanh số”. MTV Việt Nam. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
  90. ^ a b Keith Caulfield (1 tháng 10 năm 2009). “Taylor Swift's 'Red' Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2012.
  91. ^ Grein, Paul (ngày 30 tháng 10 năm 2012). “Week Ending Oct. 28, 2012. Albums: 1,208,000! | Chart Watch (NEW) - Yahoo! Music”. Yahoo! Music. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  92. ^ Keith Caulfield (ngày 14 tháng 9 năm 2009). “One Direction's 'Take Me Home' Debuts at No. 1 With Year's Third-Biggest Opening”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  93. ^ Sisario, Ben (ngày 7 tháng 11 năm 2012). “Taylor Swift Holds On at No. 1”. The New York Times. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  94. ^ Trust, Gary (ngày 14 tháng 9 năm 2009). “Taylor Swift's 'Red' Still No. 1, 'Now 44' Scores Top Debut”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  95. ^ Trust, Gary (ngày 14 tháng 9 năm 2009). “One Direction Tops Billboard 200 Chart, 'Twilight' Debuts at No. 3”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  96. ^ Grein, Paul (ngày 21 tháng 11 năm 2012). “Week Ending Nov. 18, 2012. Albums: Xtina Slips Despite "The Voice" | Chart Watch (NEW) - Yahoo! Music”. Music.yahoo.com. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  97. ^ “Taylor Swift's 'Red' Back At No. 1, Wiz Khalifa And Kesha Debut In Top 10”. The Hollywood Reporter. ngày 13 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  98. ^ “Taylor Swift Going For Six Weeks At No. 1 With Red On Billboard 200”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  99. ^ Trust, Gary (ngày 14 tháng 9 năm 2009). “Taylor Swift Going for Six Weeks at No. 1 With 'Red' on Billboard 200”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  100. ^ Grein, Paul (ngày 27 tháng 12 năm 2012). “Week Ending Dec. 23, 2012. Albums: Swift Is First Since The Beatles | Chart Watch (NEW) - Yahoo! Music”. Music.yahoo.com. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013.
  101. ^ “Taylor Swift's 'Red,' 'Les Mis' Soundtrack Lead Billboard 200 Chart”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013.
  102. ^ “Adele's '21' 2012's Best Selling Album; Gotye Has Top Song”. Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013.
  103. ^ Gary Trust (ngày 8 tháng 7 năm 2014). “Ask Billboard: Ed Sheeran & Taylor Swift's Red Reigns”. Billboard.
  104. ^ “Taylor Swift's Red Debuts at #1”. Universal Music Canada. Universalmusic.ca. ngày 31 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  105. ^ “Gold/Platinum”. Music Canada. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2015.
  106. ^ “Taylor Swift Has 'Red' Hot Debut in U.K.”. Billboard. Billboard. ngày 14 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2012.
  107. ^ Eliezer, Christie. “Report: Taylor Swift's 1989 Sales Buzz In US, Australia”. The Music Network. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2017.
  108. ^ Ryan, Gavin (ngày 28 tháng 10 năm 2012). “ARIA Goes From Pink To Red With Taylor Swift Number One”. Noise11.com. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2017.
  109. ^ Ryan, Gavin (ngày 11 tháng 11 năm 2012). “Taylor Swift Red Blocks Pink And Stays ARIA Number One - Noise11.com”. Noise11.com. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2017.
  110. ^ “ARIA Charts - Accreditations - 2014 Albums”. ARIA Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2017.
  111. ^ “NZ Top 40 Albums Chart | The Official New Zealand Music Chart”. Nztop40.co.nz. ngày 24 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2017.
  112. ^ “ngày 3 tháng 11 năm 2012 Top 40 Scottish Albums Archive”. Official Charts Company. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  113. ^ “Red (Album) by Taylor Swift - Music Charts”. αCharts. Acharts.us. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2014.
  114. ^ “【オリコン】テイラー・スウィフト、ラジオPr奏功で初Top3入り”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 5 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  115. ^ “CDアルバム 週間ランキング-ORICON STYLE ランキング (2012年12月17日付)” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  116. ^ “SA TOP 20 - ngày 24 tháng 11 năm 2012”. RSG FM. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2012.
  117. ^ “TAYLOR SHATTERS RECORD WITH 1.2 MILLION SOLD”. Taylor Swift. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  118. ^ “Justin Timberlake breaks worldwide iTunes record with new album - Music News”. Digital Spy. Digital Spy. ngày 28 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013.
  119. ^ CAMERON ADAMS (9 tháng 5 năm 2013). “Taylor Swift to play stadiums on Australian Red tour”. The Advertiser. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2014.
  120. ^ “Red - Taylor Swift | Credits”. AllMusic. Allmusic. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012.
  121. ^ "Australiancharts.com – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  122. ^ “ARIA Australian Top 40 Country Albums”. ARIA Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  123. ^ "Austriancharts.at – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  124. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  125. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  126. ^ "Taylor Swift Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  127. ^ “Comprehensive Chart for Week 21, 2013” (bằng tiếng Trung Quốc). Sino Chart. ngày 26 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  128. ^ “Taylor Swift – Red”. Top of the Shops. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2013.
  129. ^ "Danishcharts.dk – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  130. ^ "Dutchcharts.nl – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  131. ^ "Taylor Swift: Red" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  132. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  133. ^ "Offiziellecharts.de – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  134. ^ “Top 75 Artist Album, Week Ending 8 tháng 11 năm 2012”. GfK Chart-Track. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  135. ^ "Italiancharts.com – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  136. ^ 5 tháng 11 năm 2012/ "Oricon Top 50 Albums: ngày 5 tháng 11 năm 2012" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  137. ^ "Taylor Swift – Red". Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Đã lưu trữ từ bản gốc này] vào ngày ngày 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  138. ^ "Charts.nz – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  139. ^ "Norwegiancharts.com – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  140. ^ "Portuguesecharts.com – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  141. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  142. ^ “South African Top 20 Albums Chart”. RSG (Recording Industry of South Africa). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2012.
  143. ^ “Week 4 of 2012” (bằng tiếng Triều Tiên). Gaon Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  144. ^ “Week 4 of 2012” (bằng tiếng Triều Tiên). Gaon Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  145. ^ "Spanishcharts.com – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  146. ^ "Swedishcharts.com – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  147. ^ "Swisscharts.com – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  148. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  149. ^ "Taylor Swift Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  150. ^ "Taylor Swift Chart History (Top Country Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  151. ^ "Austriancharts.at – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  152. ^ “Lista prodaje 51. tjedan 2021. (13 tháng 12 năm 2021. - 19 tháng 12 năm 2021.)”. HDU (bằng tiếng Croatia). ngày 28 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  153. ^ "Offiziellecharts.de – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  154. ^ “Official IFPI Charts – Top-75 Albums Sales Chart (Week: 06/2023)”. IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  155. ^ "Swisscharts.com – Taylor Swift – Red" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  156. ^ "Taylor Swift Chart History (Independent Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  157. ^ “ARIA Top 100 Albums 2012”. ARIA Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2013.
  158. ^ “Canada Albums – Year-End 2012”. Billboard. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2013.
  159. ^ “Album Top-100 2012” (bằng tiếng Đan Mạch). Hitlisten.NU. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  160. ^ “2012 Year-End Oricon Album Charts” (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 20 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  161. ^ “Los Más Vendidos 2012” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2013.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  162. ^ “Top Selling Albums of 2012”. Official New Zealand Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2013.
  163. ^ “2012 Album Chart” (bằng tiếng Triều Tiên). Gaon Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  164. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2012”. Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2019.
  165. ^ Billboard 200 Albums – 2012 Year End Charts”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2013.
  166. ^ “Year-End Top Selling Country Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2014.
  167. ^ “End of Year Charts – ARIA Top 100 Albums 2013”. ARIA Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2014.
  168. ^ “Jaaroverzichten 2013”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  169. ^ “Top Canada Albums – Year-End 2013”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  170. ^ “2013 Year End Oricon Album Charts” (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 15 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2013.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  171. ^ “Le Top de l'année : Top Albums Fusionnés”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. ngày 10 tháng 6 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2015.
  172. ^ “Top Selling Albums of 2013”. Official New Zealand Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2016.
  173. ^ “2013 Album Chart” (bằng tiếng Triều Tiên). Gaon Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  174. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2013”. Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2015.
  175. ^ Billboard 200 Albums – 2013 Year End Charts”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2014.
  176. ^ “Country Albums: 2013 Year End Charts”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2014.
  177. ^ “End of Year Charts – ARIA Top 100 Albums 2014”. ARIA Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2015.
  178. ^ 2014年度 唱片销量排行榜 年终榜 [Bảng xếp hạng album tổng hợp cuối năm 2014] (bằng tiếng Trung Quốc). Sino Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  179. ^ “2014 Gaon Album Chart” (bằng tiếng Triều Tiên). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  180. ^ Billboard 200 Albums – 2014 Year End Charts”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2015.
  181. ^ “Country Albums: 2014 Year End Charts”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  182. ^ “Hot Albums 2015 Year End”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  183. ^ “Top Billboard 200 Albums – Year-End 2015”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  184. ^ “Top Country Albums – Year-End 2017”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  185. ^ “Top Country Albums – Year-End 2018”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  186. ^ “Top Country Albums – Year-End 2019”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  187. ^ “Top Country Albums – Year-End 2020”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  188. ^ “Ö3-Austria Top40 Longplay-Jahrescharts 2021”. Ö3 Austria Top 40. ngày 8 tháng 11 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  189. ^ “Independent Albums – Year-End 2021”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  190. ^ “Top Country Albums – Year-End 2021”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  191. ^ “Top Country Albums – Year-End 2022”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  192. ^ “ARIA End of Decade Albums Chart”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  193. ^ Copsey, Rob (ngày 11 tháng 12 năm 2019). “The UK's Official Top 100 biggest albums of the decade”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  194. ^ “Decade-End Charts: Billboard 200”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  195. ^ “Top Country Albums – Decade-End”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  196. ^ “Greatest of All Time Billboard 200 Albums : Page 1”. Billboard. ngày 12 tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  197. ^ Caulfield, Keith (ngày 12 tháng 11 năm 2015). “Greatest Billboard 200 Albums & Artists of All Time: Adele's 21 & The Beatles Are Tops”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  198. ^ “Greatest of All Time Billboard 200 Albums By Women”. Billboard. ngày 30 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  199. ^ Trust, Gary (ngày 30 tháng 11 năm 2017). “Madonna, Barbra Streisand, Adele & LeAnn Rimes Are Hot 100 & Billboard 200's Leading Ladies”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  200. ^ “Greatest of All Time Top Country Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  201. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2021 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  202. ^ “Chứng nhận album Áo – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  203. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2022” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  204. ^ “Chứng nhận album Brasil – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  205. ^ “Chứng nhận album Canada – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  206. ^ “Taylor Swift Obtiene disco de oro en Columbia con 'Red' (bằng tiếng Tây Ban Nha). Los 40 Principales. ngày 20 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  207. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  208. ^ “Chứng nhận album Pháp – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  209. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Taylor Swift; 'Red')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  210. ^ “The Irish Charts - 2012 Certification Awards - Platinum” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Âm nhạc Thu âm Ireland. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  211. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024. Chọn 2013年4月 ở menu thả xuống
  212. ^ “Chứng nhận album kỹ thuật số Nhật Bản – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Chọn 2016年4月 ở menu thả xuống
  213. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024. Nhập Taylor Swift ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Red ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  214. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  215. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2013 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  216. ^ “Chứng nhận album Singapore” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Singapore. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  217. ^ “Sverigetopplistan – Taylor Swift” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan.
  218. ^ George Griffiths (ngày 21 tháng 6 năm 2021). “The Biggest Hits and Chart Legacy of Taylor Swift's Red Ahead of Its Rerelease”. Official Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
  219. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Taylor Swift – Red” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  220. ^ Caulfield, Keith (ngày 25 tháng 10 năm 2020). “Taylor Swift's Folklore Becomes First Million-Selling Album of 2020 in U.S.”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
  221. ^ “RED: Amazon.ca: Music”. Amazon.ca. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2013.
  222. ^ “RED (Deluxe): Amazon.ca: Music”. Amazon.ca. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2012.
  223. ^ “Red”. releasedateindia.in. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013.
  224. ^ “Red: Amazon.co.uk: Music”. Amazon UK. Amazon.co.uk. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2013.
  225. ^ “Red: Amazon.co.uk: Music”. Amazon UK. Amazon.co.uk. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2012.
  226. ^ “Taylor Swift - Red Deluxe - with 6 bonus tracks - Only at Target”. Target.com. Target Corporation. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  227. ^ “Red”. Amazon. Amazon.com (US) Amazon.com Inc. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
  228. ^ “Red: Karaoke Edition”. Amazon. Amazon.com (US) Amazon.com Inc. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
  229. ^ “Red: Taylor Swift: Amazon.it: Musica”. Amazon.it. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2012.
  230. ^ “Red Deluxe: Taylor Swift: Amazon.it: Musica”. Amazon.es. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2012.
  231. ^ “Red: Taylor Swift: Amazon.it: Musica”. Amazon.es. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2012.
  232. ^ “Red Taylor Swift: Amazon.jp: Music”. Amazon.jp. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2012.
  233. ^ “Red Deluxe: Taylor Swift: Amazon.jp: Music”. Amazon.jp. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2012.
  234. ^ “Red: Amazon.de: Musik”. Amazon Germany. Amazon.de. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2012.
  235. ^ “Red (Deluxe Edition): Amazon.de: Musik”. Amazon Germany. Amazon.de. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2012.
  236. ^ “Red: Taylor Swift: Amazon.fr: Musique”. Amazon.fr. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2012.
  237. ^ “Red: Taylor Swift: Amazon.fr: Musique”. Amazon.fr. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2012.
  238. ^ “Red”. Amazon.com (Fr) Amazon.com, Inc. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
  239. ^ “泰勒史薇芙特:红(CD)-正版泰勒史薇芙特:红(CD)音乐在线销售”. Amazon.cn. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
  240. ^ “泰勒•史薇夫特:红(2CD 豪华版)-音乐-亚马逊中国”. Amazon.cn. ngày 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Lôi Thần] Không về phe Thiên Lý và mục đích của
[Lôi Thần] Không về phe Thiên Lý và mục đích của "Lệnh truy nã Vision"
Chỉ cần dám ngăn cản tầm nhìn của vĩnh hằng, hay chỉ cần làm tổn thương người của Inazuma, thì sẽ trở thành kẻ thù của nàng
Phân tích về nhân vật Yimir và mối quan hệ giữa tình cảnh của cô và Mikasa
Phân tích về nhân vật Yimir và mối quan hệ giữa tình cảnh của cô và Mikasa
Là một nô lệ, Ymir hầu như không có khả năng tự đưa ra quyết định cho chính bản thân mình, cho đến khi cô quyết định thả lũ heo bị giam cầm
Những điều mình học được từ quyển sách tâm lí học về tiền
Những điều mình học được từ quyển sách tâm lí học về tiền
Là một quyển sách tài chính nhẹ nhàng và gần gũi. Với những câu chuyện thú vị về thành công và thất bại của những chuyên trong lĩnh vực tài chính
Nhân vật Narberal Gamma (Nabe) - Overlord
Nhân vật Narberal Gamma (Nabe) - Overlord
Narberal Gamma (ナ ー ベ ラ ル ・ ガ ン マ, Narberal ・ Γ) là một hầu gái chiến đấu doppelgänger và là thành viên của "Pleiades Six Stars