"Can't Stop the Feeling!" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Justin Timberlake từ album Trolls: Original Motion Picture Soundtrack | ||||
Phát hành | 6 tháng 5 năm 2016 | |||
Thu âm | 2016 | |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 3:56 | |||
Hãng đĩa | RCA | |||
Sáng tác |
| |||
Sản xuất |
| |||
Thứ tự đĩa đơn của Justin Timberlake | ||||
| ||||
Video âm nhạc | ||||
"Can't Stop the Feeling!" trên YouTube |
"Can't Stop the Feeling!" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Justin Timberlake nằm trong album nhạc phim của bộ phim hoạt hình năm 2016 Trolls mà anh tham gia lồng tiếng và đóng vai trò điều hành sản xuất cho nhạc phim. Nó được phát hành vào ngày 6 tháng 5 năm 2016 như là đĩa đơn đầu tiên và duy nhất trích từ album bởi RCA Records. Bài hát được đồng viết lời và sản xuất bởi Timberlake, Max Martin và Shellback, và đánh dấu sự hợp tác đầu tiên giữa nam ca sĩ với Martin kể từ album phòng thu thứ ba của nhóm nhạc mà anh từng đóng vai trò thành viên NSYNC Celebrity (2001). Được lấy cảm hứng từ bài hát năm 1978 của Earth, Wind & Fire "September", "Can't Stop the Feeling!" là một bản disco-pop và soul-pop kết hợp với những yếu tố từ funk mang nội dung đề cập đến một người đàn ông bị thu hút bởi một cô gái đam mê nhảy múa trên sàn nhảy, cũng như cảm giác hân hoan và hạnh phúc của anh trước cô gái và âm nhạc. Một phiên bản khác xuất hiện trong bộ phim cũng được phát hành, với sự tham gia góp giọng từ dàn diễn viên của Trolls như Anna Kendrick, James Corden, Zooey Deschanel và Gwen Stefani.
Sau khi phát hành, "Can't Stop the Feeling!" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu bắt tai và thích hợp với mùa hè sản xuất nó. Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm đề cử giải Quả cầu vàng lẫn Oscar cho Bài hát gốc xuất sắc nhất cũng như chiến thắng một giải Grammy cho Bài hát nhạc phim xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 59. "Can't Stop the Feeling!" cũng tiếp nhận những thành công ngoài sức tưởng tượng về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Thụy Điển và Thụy Sĩ, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Úc, Áo, Đan Mạch, Ireland, Hà Lan, New Zealand, Na Uy và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, nó ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành bài hát thứ 26 trong lịch sử bảng xếp hạng làm được điều này và giúp Timberlake đạt được đĩa đơn quán quân thứ năm, đồng thời là đĩa đơn bán chạy nhất năm 2016 tại đây.
Video ca nhạc cho "Can't Stop the Feeling!" được đạo diễn bởi Mark Romanek, trong đó bao gồm những cảnh Timberlake nhảy múa ở tất cả những nơi anh đến trong ngày như tiệm giặt ủi, quán ăn, tiệm hớt tóc và một cửa hàng bánh, và mọi người đều cùng nhau nhảy múa với nam ca sĩ ở mỗi điểm dừng. Nó đã thu hút một số lượng lớn những video nhảy múa theo bài hát do người hâm mộ thực hiện sau khi phát hành. Để quảng bá cho "Can't Stop the Feeling!", nam ca sĩ đã trình diễn nó trên một số chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm Cuộc thi Bài hát Eurovision năm 2016, giải Oscar lần thứ 89 và Buổi diễn giữa hiệp Super Bowl LII, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của anh. Kể từ khi phát hành, bài hát đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như Lady Antebellum, Olly Murs, Hunter Hayes, The Vamps, Tyler Ward và Boyce Avenue, cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm Coronation Street, EastEnders, Golic and Wingo và Speechless. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 10 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.
Tải kĩ thuật số[1]
Đĩa CD và 12"[2]
Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của đĩa đơn "Can't Stop the Feeling", RCA Records.[3]
Xếp hạng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng mọi thời đại[sửa | sửa mã nguồn]
|
Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Úc (ARIA)[109] | 10× Bạch kim | 700.000 |
Áo (IFPI Áo)[110] | Bạch kim | 30.000 |
Bỉ (BEA)[111] | 4× Bạch kim | 80.000 |
Brasil (Pro-Música Brasil)[112] | Kim cương | 250.000 |
Canada (Music Canada)[113] | 6× Bạch kim | 0* |
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[114] | 3× Bạch kim | 270.000 |
Pháp (SNEP)[115] | Kim cương | 233.333 |
Đức (BVMI)[116] | 3× Vàng | 450.000 |
Ý (FIMI)[117] | 5× Bạch kim | 250.000 |
México (AMPROFON)[118] | 2× Bạch kim | 120.000* |
New Zealand (RMNZ)[119] | 2× Bạch kim | 30.000* |
Ba Lan (ZPAV)[120] | Kim cương | 100.000 |
Hàn Quốc (Gaon Chart) | None | 454,922[121] |
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[122] | 3× Bạch kim | 120.000 |
Thụy Điển (GLF)[123] | 7× Bạch kim | 140.000 |
Thụy Sĩ (IFPI)[124] | 2× Bạch kim | 60.000 |
Anh Quốc (BPI)[125] | 3× Bạch kim | 1.800.000 |
Hoa Kỳ (RIAA)[126] | 4× Bạch kim | 4.000.000 |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |