Hòa Thạc Cung Thân vương (tiếng Trung: 和碩恭親王, tiếng Mãn: ᡥᠣᡧᠣᡳ
ᡤᡠᠩᠨᡝᠴᡠᡴᡝ
ᠴᡳᠨ ᠸᠠᠩ, Möllendorff: Hošoi gungnecuke cin wang, Abkai: Hoxoi gungnequke qin wang)[1] là một tước vị Thân vương truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
Tước vị Cung Thân vương lần đầu tiên được phong hiệu vào năm Khang Hi thứ 10 (1671), phong cho Hoàng tử thứ năm của Thuận Trị là Thường Ninh. Ông từng được phong chức An Bắc Đại tướng quân, thành viên Nghị chính Vương Đại thần. Tuy nhiên sau khi ông qua đời năm 1703, ông không được triều đình ban thụy, con cháu không có quyền thế tập tước vị, mà chỉ được giáng đẳng thừa tập trong 10 đời.
Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), theo di chiếu của Đạo Quang Đế, Hoàng tử thứ 6 là Dịch Hân được phong cho tước hiệu Cung Thân vương. Sau chính biến Tân Dậu, ông được Lưỡng cung Thái hậu ban cho đặc ân tước vị được thế tập truyền đời, trở thành Thiết mạo tử vương. Khi ấy, Cung vương phủ được xếp vào Tương Lam kỳ, địa vị ngang hàng với Khánh vương phủ, chỉ dưới Kỳ chủ là Trịnh vương phủ. Tuy nhiên, Vương vị chỉ truyền được 3 đời thì nhà Thanh sụp đổ.
Phong hiệu ["Cung"] của Thường Ninh và Dịch Hân, Mãn văn là 「gungnecuke」, ý là "Cung kính".
Thường Ninh có tất cả 6 con trai, trong đó đích trưởng tử lại mất sớm. Tuy nhiên, người được tập tước là con trai thứ 3 Hải Thiện mà không phải người con thứ 2 Mãn Đô Hỗ dù cả hai đều là thứ xuất, nhiều tin đồn cho rằng lý do là Mãn Đô Hỗ không hiếu thuận, vì vậy Khang Hi Đế cho Hải Thiện tập tước. Về sau Hải Thiện bị hoạch tội, đại tông lại do Mãn Đô Hỗ thừa kế. Mãn Đô Hỗ có tất cả 7 con trai, nhưng tất cả đều mất sớm, vì vậy sau khi Mãn Đô Hỗ qua đời, lại do hậu duệ của Hải Thiện thừa kế Đại tông.
Về sau, con trai thứ năm Trác Thái và con trai thứ sáu Văn Thù Bảo của Thường Ninh đều tuyệt tự, vì vậy hậu duệ của Thường Ninh kéo dài chỉ có 2 chi là Đại tông của Hải Thiện và Tiểu tông Phụ quốc Tướng quân Đối Thanh Ngạch - con trai thứ tư của Thường Ninh. Trong đó hậu duệ của Hải Thiện là phồn thịnh hơn cả.
Lão Cung vương phủ được phân vào Chính Lam kỳ, thuộc vào Viễn chi Tông thất Chính Lam ky Đệ lục tộc, độc chiếm một mình một tộc.
Ung Chính Đế từng nhắc đến Thường Ninh: "Trẫm thúc Cung Thân vương Thường Ninh, năm xưa được Hoảng khảo hữu hữu ái thâm ân, không biết cảm kích đền đáp, luôn lười biếng, nhàn rỗi cả đời, điều này mọi người đều biết". Vì vậy thái độ đối xử của cả Khang Hi Đế lẫn Ung Chính Đế đối với Cung vương phủ đều không đặc biệt tốt. Thái độ của Khang Hi Đế đối với anh trai là Phúc Toàn hơn xa đối với Thường Ninh, vì vậy Thường Ninh cũng không được truy thụy. Đến thời Ung Chính, qua những chỉ dụ lần lượt chỉ trích hậu duệ Cung vương phủ có thể thấy được rõ ràng.
Tuy nhiên đến thời Thanh trung hậu kỳ, Tiểu tông của Lão Cung vương phủ lại xuất hiện mấy cái Khoa cử Thế gia, xuất ra 10 vị Tiến sĩ, 7 Thượng Thư, được truy thụy cũng có 3-4 người.
Tung Sâm (嵩森, tiếng Mãn: ᠰᡠᠩᠰᡝᠨ, chuyển tả: Sungsen) là tằng tôn của Tồn Thành (存诚) - con trai thứ 9 của Long Ải (隆霭) - trưởng tử của Hải Thiện, đỗ Tiễn sĩ vào năm Đồng Trị thứ 4 (1865), làm quan đến Lý phiên viện Thượng thư. Con trai ông là Thọ Kỳ (寿耆, tiếng Mãn: ᡧᡝᠣᡶᡠ, Möllendorff: Šeofu, Abkai: Xeufu), tự Tử Niên (子年), hiệu Chi Nham (芝巌), là Tiến sĩ năm Quang Tự thứ 6 (1880), nhiều lần đảm nhiệm Lại bộ Hữu Thị lang, làm quan đến Lý phiên viện Thượng thư, Kinh Châu Tướng quân. Đây là cha con đều là Tiến sĩ, hơn nữa còn là cha con đều là Thượng thư.
Khánh Kỳ (庆祺), tự Vân Thảng (云舫), là cháu nội của Tinh Minh (精明) - con trai thứ 10 của Long Ải, đỗ Tiến sĩ vào năm Đạo Quang thứ 12 (1832), nhiều lần đảm nhiệm Binh bộ Thị lang, Thịnh Kinh Tướng quân, Trực Lệ Tổng đốc, sau khi qua đời được truy thụy "Cung Túc" (恭肃). Con trai Khánh Kỳ là Duyên Hú (延煦), tự Thụ Nam (树南), là Tiến sĩ năm Hàm Phong thứ 6 (1856), nhiều lần đảm nhiệm Nội các Đại học sĩ, Hộ bộ Thị lang, Tả đô Ngự sử, Lễ bộ Thượng thư. Con trai của Duyên Hú là Hội Chưởng (会章), tự Đông Kiều (东乔), là Tiến sĩ năm Quang Tự thứ 3 (1877), nhiều lần đảm nhiệm Nội các Học sĩ, Lý phiên viện Thị lang, Phó Đô thống. Đây là một nhà 3 đời đều là Tiến sĩ, còn làm chức quan cao.
Vụ Bổn (務本) là con trai thứ hai của Tấn Long, đậu Tiến sĩ vào năm Đạo Quang thứ 6 (1826). Con trai ông là Linh Quế (灵桂), là Tiến sĩ năm Đạo Quang thứ 18 (1838), nhiều lần đảm nhiệm Tả đô Ngự sử, Lý phiên viện Thượng thư, cuối cùng lên đến Võ Anh điện Đại học sĩ, sau khi qua đời được nhập tự Hiền Lương từ, truy thụy "Văn Cung" (文恭). Đây không chỉ là một nhà Tiến sĩ mà còn là gia đình Đại học sĩ.
Cung Thân vương Thường Ninh 1657 - 1671 - 1703 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Phụng ân Trấn quốc công Mãn Đô Hỗ 1674 - 1712 - 1731 | Dĩ cách Bối lặc Hải Thiện 1676 - 1703 - 1712 - 1743 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lộc Mục Bố 1700 - 1729 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bối lặc Phỉ Tô 1715 - 1731 - 1763 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bối tử Minh Thiều 1742 - 1763 - 1787 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Phụng ân Trấn quốc công/Phụ quốc công Tấn Xương 1759 - 1788 - 1803 - 1817 - 1828 | Dĩ cách Phụng ân Phụ quốc công Tấn Long 1761 - 1803 - 1817 - 1819 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bất nhập Bát phân Trấn quốc công Tường Lâm 1791 - 1828 - 1834 - 1848 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bất nhập Bát phân Trấn quốc công Thừa Hi 1832 - 1834 - 1891 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bất nhập Bát phân Trấn quốc công Sùng Lược 1850 - 1892 - 1894 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bất nhập Bát phân Trấn quốc công Đức Ấm 1868 - 1894 - 1895 | Bất nhập Bát phân Trấn quốc công Đức Mậu 1882 - 1895 - ? | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chấn Cương 1920 - ? | |||||||||||||||||||||||||||||||||||
Quá kế | |||||||||||||||||||||||||||||
Cung Trung Thân vương Dịch Hân 1833 - 1850 - 1898 | |||||||||||||||||||||||||||||
Quả Mẫn Bối lặc Tái Trừng 1858 - 1885 | Dĩ cách Bối lặc Tái Huỳnh 1861 - 1909 | ||||||||||||||||||||||||||||
Cung Hiền Thân vương Phổ Vĩ 1880 - 1898 - 1936 | |||||||||||||||||||||||||||||
Cung Thân vương Dục Giang 1923 - 1936 - 1945 - 2016 | |||||||||||||||||||||||||||||