Kim quất (/ˈkʌmkwɒt/;[1] tiếng Trung: 金橘 ), là một nhóm cây ăn quả nhỏ trong họ thực vật có hoa Rutaceae. Phân loại của nhóm thực vật này đang gây tranh cãi. Trước đây, chúng được phân loại thành chi Fortunella theo lịch sử hiện tại hoặc được đưa vào chi Citrus, sensu lato. Cách thức phân loại trước đây đã xếp kim quất bất kỳ gom tụ lại thành một loài đơn nhất, C. japonica, còn nhiều loài khác dùng để đại diện cho mỗi giống cây trồng. Tuy nhiên, phân tích bộ gen gần đây xác định có ba loài thuần chủng là Citrus hindsii, C. margarita và C. crassifolia, với C. x japonica là giống lai của hai loài cuối cùng.
Quả kim quất ăn được, gần giống với quả cam (Citrus sinensis) về màu sắc và hình dạng nhưng nhỏ hơn nhiều, có kích thước xấp xỉ quả ô liu lớn. Kim quất là loại cây có múi chịu lạnh tốt.
Tên gọi "kim quất" trong tiếng Việt và "kumquat" trong tiếng Anh lẫn tiếng Pháp đều được phiên âm ra từ tiếng Trung Hoa Quảng Châu kām kwāt (tiếng Trung: 金橘), với nghĩa đen là "quả cam vàng kim".[2]
Kim quất có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc.[3][4] Tham khảo lịch sử về kim quất xuất hiện trong văn học Trung Hoa ít nhất từ thế kỷ 12.[5] Cây đã được trồng từ lâu ở các khu vực khác của Đông Á (Nhật Bản), Nam Á (Ấn Độ) và Đông Nam Á (đặc biệt là Philippines). Chúng được Robert Fortune, nhà sưu tập của Hiệp hội Làm vườn London, giới thiệu đến châu Âu vào năm 1846, ngay sau đó được đưa đến Bắc Mỹ.[6] Kim quất là thực vật nguyên thủy nhất còn sống thuộc nhóm cam quýt.[7]
Cây kim quất có thể đạt chiều cao từ 2,5 đến 4,5 m (8,2 đến 14,8 ft), với các cành rậm rạp, đôi khi có gai nhỏ.[5] Lá đơn mọc so le, hình ngọn giáo, dài 3,25 đến 8,6 cm (1,28 đến 3,39 in), có răng mịn từ đỉnh đến giữa, màu xanh đậm, mặt trên bóng, mặt dưới nhạt hơn.[3] Hoa có 5 cánh, màu trắng, hương thơm ngọt ngào, giống như các loại hoa của cây có múi khác, mọc đơn lẻ hoặc thành chùm từ 1 đến 4 ở nách lá.[3][5] Tùy theo kích thước, kim quất có thể cho hàng trăm, thậm chí hàng nghìn quả mỗi năm.[5] Cây ra quả có hình bầu dục thuôn dài hoặc hình tròn. Quả có thể rộng 1,6 đến 4 cm (0,63 đến 1,57 in). Vỏ quả có màu vàng kim, vàng cam đến đỏ cam, có tuyến dầu to, dễ nhận ra. Thịt quả dày, bám chặt, ăn được, lớp ngoài cay, lớp trong ngọt. Cùi ít, chia thành 3 đến 6 múi, không mọng nước lắm, từ chua đến chua nhẹ. Hạt nhỏ, nhọn hoặc đôi khi không hạt, hạt kim quất xanh lục bên trong.[3] Tất cả kim quất đều tự thụ phấn. Kim quất có thể chịu được cả nhiệt độ lạnh và nóng. Kim quất được cho là thực vật Chi Cam chanh nhỏ nhất và là quả duy nhất thường ăn được cả vỏ.[8]
Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năng lượng | 296 kJ (71 kcal) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
15.9 g | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đường | 9.36 g | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chất xơ | 6.5 g | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
0.86 g | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1.88 g | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thành phần khác | Lượng | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nước | 82 g | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
† Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trên khuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành,[9] ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từ Học viện Quốc gia.[10] |
Một quả kim quất tươi chứa 81% nước, 16% carbohydrate, 2% protein và 1% chất béo (bảng). Trong một lượng tham chiếu là 100 gam (3,5 oz), kim quất tươi cung cấp 71 calo và là nguồn vitamin C phong phú (53% giá trị hàng ngày ), không có vi chất dinh dưỡng nào khác có hàm lượng đáng kể (bảng).
Phân loại và phát sinh chủng của kim quất rất phức tạp và gây tranh cãi.[11] Nhiều hệ thống khác nhau xếp các loại kim quất đa dạng thành các loài khác biệt nhau hoặc hợp nhất chúng thành chỉ còn hai loài. Về mặt thực vật, nhiều loại kim quất được phân loại theo loài sinh học riêng biệt, chứ không phải là giống cây trồng. Trong lịch sử, chúng được xét thuộc chi Citrus, nhưng hệ thống phân loại cây có múi của Swingle đã nâng kim quất thành chi riêng biệt, Fortunella. Phân tích phát sinh loài gần đây nhận ra cây thuộc họ Citrus. Swingle đã chia kim quất thành hai phân chi, Protocitrus, chứa kim quất Hồng Kông nguyên thủy, Eufortunella, gồm kim quất tròn, bầu dục, kim quất Meiwa.[7] Theo đó, Tanaka đã thêm vào hai loại khác, kim quất Mã Lai và kim quất Giang Tô. Phân tích nhiễm sắc thể gợi ý rằng Eufortunella của Swingle đại diện cho một loài 'đúng' duy nhất, trong khi các loài bổ sung của Tanaka được tiết lộ là giống lai giữa Fortunella với Citrus khác, được gọi là x Citrofortunella.[11]
Một phân tích bộ gen gần đây đã kết luận rằng chỉ có một loài kim quất thực sự, nhưng phân tích không bao gồm giống Hồng Kông được xem là một loài khác biệt trong tất cả các phân tích trước đó.[12] Một đánh giá năm 2020 đã kết luận rằng dữ liệu bộ gen không đủ để đưa ra kết luận chắc chắn về việc các giống kim quất đại diện cho các loài khác nhau.[13] Vào năm 2022, phân tích ở cấp độ bộ gen của các giống cây trồng và giống hoang dã đã đưa ra một số kết luận. Nghiên cứu đã tìm ra bằng chứng cho việc phân chia kim quất thành các phân chi: Protocitrus, đối với giống Hồng Kông hoang dã và Eufortunella đối với các giống trồng trọt, với sự khác biệt trước khi kết thúc kỷ băng hà Đệ tứ, có lẽ giữa hai quần thể tổ tiên bị cô lập về phía nam và phía bắc, tương ứng, theo dãy núi Ngũ Lĩnh. Trong nhóm tiếp theo, mỗi loại kim quất bầu dục, tròn và Meiwa đều chỉ ra mức độ khác biệt lớn hơn so với giữa các loài cam quýt đã được công nhận khác, chẳng hạn như giữa bưởi và thanh yên. Do đó, mỗi loại đều xứng đáng được phân loại ở cấp độ loài. Mặc dù Swingle suy đoán rằng kim quất Meiwa là giống lai giữa kim quất bầu dục và kim quất tròn, nhưng thay vào đó, phân tích bộ gen cho thấy kim quất tròn là cây lai giữa bầu dục/Meiwa.[14]
Hình ảnh | Danh pháp khoa học | Tên thường gọi | Phân bố |
---|---|---|---|
Citrus hindsii | kim quất Hồng Kông | Trung Quốc | |
Citrus crassifolia | kim quất Meiwa | Trung Quốc, Nhật Bản | |
Citrus margarita | kim quất bầu dục, kim quất Nagami | Nhật Bản | |
Citrus japonica | kim quất tròn, kim quất Marumi, kim quất Morgani | Trung Quốc, Nhật Bản | |
Citrus obovata | kim quất Giang Tô, kim quất Fukushu | Trung Quốc, Nhật Bản | |
Citrus swinglei | kim quất Mã Lai | bán đảo Mã Lai |
Kim quất chịu khắc nghiệt hơn nhiều so với cây có múi như cam. Gieo hạt vào mùa xuân là lý tưởng nhất vì nhiệt độ dễ chịu, cơ hội mưa và nắng tốt hơn. Điều này cũng giúp cây có đủ thời gian để phát triển tốt trước mùa đông. Đầu mùa xuân là thời điểm tốt nhất để cấy cây con. Chúng phát triển tốt nhất dưới ánh nắng trực tiếp (cần 6–7 giờ mỗi ngày) và được trồng trực tiếp xuống đất. Kim quất sinh trưởng tốt ở vùng khắc nghiệt 9 và 10 của USDA và có thể tồn tại ở nhiệt độ thấp đến −7 °C (19 °F). Khoảng 90 ngày sẽ đủ trưởng thành.
Trong lĩnh vực trồng trọt ở Vương quốc Anh, Citrus japonica đã giành được Giải thưởng Bằng khen Làm vườn của Hiệp hội Làm vườn Hoàng gia[15] (xác nhận năm 2017).[16]
Kim quất không phát triển tốt từ hạt và do đó được nhân giống sinh dưỡng bằng cách sử dụng gốc ghép của một loại cây có múi khác, phân lớp không khí hoặc giâm cành.[3]
Tinh dầu của vỏ kim quất chứa nhiều mùi thơm của quả. Có thành phần chủ yếu là limonene, chiếm khoảng 93% trên tổng số.[17] Ngoài limonene và alpha-pinene (0,34%), cả hai đều được xem là monoterpen, tinh dầu còn giàu bất thường (0,38% tổng số) sesquiterpen như α- bergamotene (0,021%), caryophyllene (0,18%), α- humulene ( 0,07%) và α-muurolene (0,06%). Những chất này góp phần tạo nên hương gỗ và cay của quả. Các hợp chất carbonyl chiếm phần lớn phần còn lại và chúng chịu trách nhiệm tạo ra phần lớn hương vị đặc biệt. Các hợp chất này bao gồm este như isopropyl propanoate (1,8%) và terpinyl axetat (1,26%); xeton như carvone (0,175%); và một loạt các aldehyde như citronellal (0,6%) và 2-methylundecanal. Các hợp chất oxy hóa khác bao gồm nerol (0,22%) và Trans-lialool oxide (0,15%). [17]
Các dạng lai của kim quất bao gồm: