Maseru

Maseru
Maseru nhìn từ đồi Nghị Viện
Vị trí của Maseru trong Lesotho
Vị trí của Maseru trong Lesotho
Maseru trên bản đồ Lesotho
Maseru
Maseru
Vị trí trong Lesotho
Tọa độ: 29°19′N 27°29′Đ / 29,31°N 27,48°Đ / -29.31; 27.48
Quốc giaLesotho
HuyệnMaseru
Thành lập1869
Diện tích
 • Tổng cộng138 km2 (53 mi2)
Độ cao1.600 m (5,200 ft)
Dân số (2016)
 • Tổng cộng330.760
 • Mật độ2.397/km2 (6,210/mi2)
Múi giờUTC+2
Thành phố kết nghĩaAustin, Koblenz
Khí hậuCwb

Maseruthủ đô và thành phố lớn nhất của Lesotho. Đây cũng là thủ phủ của huyện Maseru. Maseru tọa lạc bên sông Caledon, ngay cạnh biên giới Lesotho-Nam Phi. Maseru có dân số 330.760 (2016). Thành phố được thành lập như một trại cảnh sát và được chọn làm thủ đô khi Lesotho trở thành một sứ bảo hộ của Anh năm 1869. Từ khi Lesotho giành được độc lập vào năm 1966 đến nay, Maseru giữ vai trò thủ đô. Tên thành phố có nghĩa là "sa thạch đỏ" trong tiếng Sotho.[1][2]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Maseru được thành lập như một trại cảnh sát nhỏ vào năm 1869, sau khi chiến tranh Orange–Basotho kết thúc với kết quả Basutoland trở thành sứ bảo hộ Anh.[3][4] Maseru nằm cạnh "những lãnh thổ chiếm được" bị cắt cho Đất nước tự do Orange (nay là tỉnh Free State của Nam Phi). Nó cách "cựu thành trì" Thaba Bosiu của Vua Moshoeshoe I 24 kilômét (15 mi) về phía tây.[5]

Maseru ban đầu có chức năng là trung tâm hành chính từ năm 1869 đến 1871, trước khi việc quản lý Basutoland được chuyển giao cho Thuộc địa Cape. Trong thời gian 1871 đến 1884, cư dân Basutoland bị đối xử tương tự như ở những thuộc địa khác, khiến người Sotho tại đây chán ghét.[6] Điều này đã dẫn đến Chiến tranh súng Basuto năm 1881, phá hủy nhiều tòa nhà tại Maseru.[1] Năm 1884, Basutoland trở thành thuộc địa Vương thất lần nữa, và Maseru lại là thủ đô. Khi Basutoland giành được độc lập và trở thành Vương quốc Lesotho năm 1966, Maseru tiếp tục đóng vai trò thủ đô quốc gia.[4]

Trước thời kỳ độc lập, Maseru là một đô thị tương đối nhỏ, nằm trọn trong lãnh thổ do thực dân vẽ ra; người Anh cũng không chú tâm phát triển thành phố. Sau năm 1966, Maseru phát triển nhánh chóng: diện tích của nó tăng khoảng bảy lần, từ 20 kilômét vuông (7,7 dặm vuông Anh) đến 138 kilômét vuông (53 dặm vuông Anh) hiện tại, một phần do sự sáp nhập những ngôi làng lân cận vào lãnh thổ thành phố.[1][4] Tỉ lệ tăng dân số duy trì ở mức 7% trong vài thập niên, trước khi giảm xuống 3.5% trong thập niên 1986-1996.[4]

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Maseru có khí hậu cao nguyên cận nhiệt đới (phân loại khí hậu Köppen Cfb).

Dữ liệu khí hậu của Maseru
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Trung bình ngày tối đa °C (°F) 28
(82)
27
(81)
25
(77)
21
(70)
18
(64)
15
(59)
16
(61)
19
(66)
23
(73)
24
(75)
26
(79)
28
(82)
23
(72)
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) 14
(57)
14
(57)
12
(54)
8
(46)
3
(37)
0
(32)
−1
(30)
2
(36)
6
(43)
9
(48)
12
(54)
13
(55)
8
(46)
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) 114
(4.5)
89
(3.5)
96
(3.8)
67
(2.6)
29
(1.1)
12
(0.5)
14
(0.6)
15
(0.6)
19
(0.7)
63
(2.5)
80
(3.1)
93
(3.7)
691
(27.2)
Số ngày giáng thủy trung bình (≥ 0.1 mm) 13 10 11 8 6 3 3 3 3 8 10 10 88
Độ ẩm tương đối trung bình (%) 37 42 43 42 38 35 32 27 24 30 34 35 35
Số giờ nắng trung bình tháng 287 263 259 241 247 232 254 279 278 276 279 307 3.202
Nguồn: Viện Khí tượng Đan Mạch[7]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Sam Romaya; Alison Brown (tháng 4 năm 1999). “City profile: Maseru, Lesotho”. Cities. 16 (2): 123–133. doi:10.1016/S0264-2751(98)00046-8.
  2. ^ A. Mabille; H. Dieterlen (1993). Southern Sotho English Dictionary . Morija: Morija Sesuto Book Depot. tr. 349.
  3. ^ Baffour Ankomah; Khalid Bazid (tháng 5 năm 2003). “Lesotho: Africa's Best Kept Secret”. New African.
  4. ^ a b c d Karen Tranberg Hansen; Mariken Vaa (2004). Reconsidering Informality: Perspectives from Urban Africa. Nordic African Institute. tr. 180. ISBN 91-7106-518-0.
  5. ^ Willie Olivier; Sandra Olivier (2005). Touring in South Africa: The Great SA Road Trip Guide. Struik. tr. 116. ISBN 1-77007-142-3.
  6. ^ James S. Olson, Robert S. Shadle (ed.) (1996). Historical Dictionary of the British Empire. Greenwood Press. tr. 118. ISBN 0-313-27917-9.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  7. ^ Cappelen, John; Jensen, Jens. “Lesotho - Maseru” (PDF). Climate Data for Selected Stations (1931-1960) (bằng tiếng Đan Mạch). Danish Meteorological Institute. tr. 166. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Vật phẩm thế giới Momonga's Red Orb - Overlord
Vật phẩm thế giới Momonga's Red Orb - Overlord
Momonga's Red Orb Một trong những (World Item) Vật phẩm cấp độ thế giới mạnh mẽ nhất trong Đại Lăng Nazarick và là "lá át chủ bài" cuối cùng của Ainz .
Cách chúng tôi lần ra mắt sản phẩm trên Product hunt và xếp hạng Top #1 ngày
Cách chúng tôi lần ra mắt sản phẩm trên Product hunt và xếp hạng Top #1 ngày
Đây là lần đầu tiên mình quảng bá một sản phẩm công nghệ trên Product Hunt.
Spoiler Volume 19 LN: Rimuru nuốt chửng Michael
Spoiler Volume 19 LN: Rimuru nuốt chửng Michael
Rimuru đang dự hội nghị ở Ingrasia thì nghe tin chỗ Dagruel có biến nên xách theo Souei và Diablo chạy đến
Nhân vật Entoma Vasilissa Zeta - Overlord
Nhân vật Entoma Vasilissa Zeta - Overlord
Entoma Vasilissa Zeta (エ ン ト マ ・ ヴ ァ シ リ ッ サ ・ ゼ ー タ, εντομα ・ βασιλισσα ・ ζ) là một chiến hầu người nhện và là thành viên của "Pleiades Six Stars," đội chiến hầu của Great Tomb of Nazarick. Cô ấy được tạo ra bởi Genjiro.