Speak Now World Tour

Speak Now World Tour
Chuyến lưu diễn của Taylor Swift
Áp phích quảng bá vào năm 2011
Album liên kếtSpeak Now
Ngày bắt đầu9 tháng 2 năm 2011
Ngày kết thúc18 tháng 3 năm 2012
Số chặng diễn4
Số buổi diễn
  • 7 tại châu Á
  • 12 tại châu Âu
  • 79 tại Bắc Mỹ
  • 12 tại châu Đại Dương
  • 110 tổng cộng
Doanh thu123,7 triệu USD (157.678 triệu USD theo thời giá năm 2022[1])
Thứ tự buổi diễn của Taylor Swift

Speak Now World Tour là chuyến lưu diễn thứ hai của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift nhằm quảng bá cho album phòng thu thứ ba của cô, Speak Now (2010). Chuyến lưu diễn bắt đầu vào ngày 9 tháng 2 năm 2011 tại Singapore rồi tiếp tục xuyên qua châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ và châu Đại Dương trước khi kết thúc vào ngày 18 tháng 3 năm 2012 tại Auckland, New Zealand.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
"Tôi rất vui mừng khi trở lại lưu diễn lần nữa vào năm 2011. Fearless Tour thật sự rất vui và khó quên nhiều hơn tôi tưởng, và tôi không thể chờ đợi ngày trở lại để trình diễn nhiều ca khúc mới từ album Speak Now! Người hâm mộ thực sự rất tuyệt và tôi vô cùng phấn khởi khi sắp được lưu diễn vòng quanh thế giới và gặp gỡ nhiều khán giả hơn trong năm 2011!"

 —Swift bày tỏ sự hào hứng của mình về chuyến lưu diễn.[2]

Sau khi phát hành Fearless vào năm 2008, Swift liền bắt tay vào thực hiện dự án tiếp theo. Cô tự thân đảm nhiệm sáng tác hầu hết các bài hát và đồng sản xuất album cùng Nathan Chapman.[3] Trong một chương trình phát sóng trực tuyến từ Nashville vào tháng 7 năm 2010, Swift xác nhận sẽ phát hành album phòng thu thứ ba với tựa đề Speak Now vào ngày 25 tháng 10 cùng năm, đồng thời khẳng định sẽ lập kế hoạch lưu diễn vòng quanh thế giới sau khi album ra mắt.[3][4] Từ giữa tháng 10 năm 2010, Swift đã bắt đầu ấn định ngày diễn tại Anh,[5] Pháp, Đức,[6] Tây Ban Nha,[7] Na Uy và Nhật Bản.[8] Ở Philippines, công ty Ovation Production xác nhận Swift sẽ tổ chức một buổi hòa nhạc tại Manila vào tháng 2 năm 2011 nhưng vẫn chưa chọn ngày diễn mãi cho đến đầu tháng 11.[9] Sau ngày album lên kệ, Swift tiếp tục thêm các đêm diễn tại Bỉ, Hà Lan, Hong Kong, Singapore, Hàn Quốc, Ireland và Bắc Ireland.[10]

Ngày 23 tháng 11 năm 2010, Swift chính thức công bố chuyến lưu diễn mang tên Speak Now World Tour trên trang web chính thức của mình. Lịch trình bao gồm toàn bộ những ngày diễn đã công bố tại châu Âu, châu Á cộng với các đêm diễn mới tại Ý,[11] Hoa Kỳ và Canada, khởi động tại Singapore vào ngày 9 tháng 2 và kết thúc vào ngày 8 tháng 10 năm 2011 tại Arlington sau 87 đêm diễn. Tuy nhiên, Swift vẫn chưa xác nhận địa điểm biểu diễn tại nhiều thành phố ở Bắc Mỹ, ngoại trừ những nơi mà chương trình tổ chức tại các sân vận động như Detroit, Pittsburgh, Foxborough, Philadelphia, thành phố Kansas và Arlington.[2] Tại Đức, chuyến lưu diễn định ghé thăm Oberhausen và Munich lần lượt vào ngày 12 và 14 tháng 3.[6] Tuy nhiên, do trùng lắp với các hoạt động quảng bá của Swift, đêm nhạc tại Munich đã không thể diễn ra.[12] Ngày 1 tháng 12 năm 2010, ban nhạc Needtobreathe xác nhận tham gia chuyến lưu diễn với vai trò là người mở màn trong suốt chặng Bắc Mỹ.[13] Tháng 1 năm 2011, Swift dời Lexington xuống cuối hành trình sau khi thêm một đêm diễn khác tại St. Louis,[14][15] hai đêm diễn ngày 19 và 20 tháng 7 tại thành phố New York cũng bị dời về Newark.[16] Đầu tháng 3 năm 2011, cô thông báo thêm bảy nghệ sĩ mở màn theo ngày chọn lọc cho chặng Bắc Mỹ, bao gồm Frankie Ballard, Danny Gokey, Hunter Hayes, Josh Kelley, Randy Montana, James Wesley và Charlie Worsham.[17] Cũng trong tháng 3, Swift quyết định kéo dài lịch diễn đến tháng 11, ấn định thêm 16 ngày diễn tại Hoa Kỳ, trong đó có hai đêm diễn cho khán giả New York, đồng thời thông báo thêm hai nghệ sĩ mở màn Adam Brand và David Nail.[18] Cuối tháng 4, nữ ca sĩ bổ sung Jacksonville vào hành trình.[19] Ngày 10 tháng 8 năm 2011, lịch diễn cho khán giả châu Đại Dương được công bố, gồm sáu buổi diễn tại Úc và New Zealand.[20] Tham gia mở màn cho chặng cuối là ban nhạc Hot Chelle Rae.[21]

Tóm tắt buổi diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Buổi diễn bắt đầu bằng lời độc thoại của Swift với thông điệp "nếu bạn biết rõ cảm giác thực sự của mình và điều bạn muốn nói...[Đừng chần chừ, hãy] nói ngay!"[22] Sau đó, nữ ca sĩ xuất hiện ở cuối sàn diễn "giữa một bức màn dày khói trắng" để mở đầu chương trình với "Sparks Fly" trong khi một vài vũ công vẫy những cây pháo sáng trên trần nhà.[23][24][25] Cô tiếp tục trình bày "Mine" cùng một cây đàn guitar điện màu đỏ trước khi dành ra vài phút giao lưu với khán giả rồi chuyển sang biểu diễn "The Story of Us", nơi vũ công "diễn lại câu chuyện của bài hát" bằng "những vũ đạo tràn đầy năng lượng".[26][27][28] Buổi diễn tiếp tục khi một vũ công diện trang phục theo phong cách vintage nhảy điệu clacket bật một công tắc điện và Swift nhảy lên từ dưới sân khấu.[25] Từ đó, cô mang băng cầm và cùng các thành viên trong ban nhạc ăn mặc như những người trong nông trại lần lượt trình diễn "Our Song" và "Mean" trước một thềm nhà kiểu đồng quê Mỹ.[27][28][29] Dẫn dắt vào tiết mục tiếp theo là một màn tuyết giả phủ đầy sân khấu, Swift diện một chiếc đầm trắng xanh khi biểu diễn "Back to December" kết hợp với "Apologize" của ban nhạc OneRepublic và "You're Not Sorry" ở cuối bài trên một cây đàn piano trắng nằm phía trước một chiếc cầu nơi tám vũ công chơi violin.[29][30][31][32] "Better Than Revenge" bắt đầu bằng một đoạn "thư thoại vui nhộn" trước khi Swift xuất hiện trên cây cầu để trình bày bài hát và "diễn cảnh đánh nhau với một cô gái".[29][31][33][34] Ở cuối tiết mục, hai thành viên trong ban nhạc có một màn độc tấu guitar sau khi nữ ca sĩ biến mất khỏi sân khấu.[31]

Swift và ban nhạc trình diễn trước một thềm nhà kiểu đồng quê Mỹ trong "Our Song" và "Mean" tại Vancouver.

Bối cảnh sân khấu chuyển thành lễ cưới trong "Speak Now", nơi Swift "cướp chú rể" và dẫn anh ta đi xuyên qua khán giả để đến sân khấu B.[26][29][34] Tại đó, cô lần lượt trình diễn liên khúc "Fearless" kết hợp với "Hey, Soul Sister" của ban nhạc Train và "I'm Yours" của Jason Mraz bằng ukulele, "Last Kiss" bằng đàn guitar trước khi đến với "You Belong with Me".[26][34] Swift lần nữa đi xuyên qua khán giả để về lại sân khấu chính, nơi cô kết thúc bài hát cùng "những điệu nhảy sôi động".[27][29] Trong "Dear John", một tràng pháo sáng xuất hiện từ trần nhà sau khi Swift hát đoạn điệp khúc.[26] "Enchanted" là tiết mục tiếp theo, nơi vũ công hóa trang thành những diễn viên múa ba lê giữa một "khu vườn đẹp mê hoặc".[28][29] "Haunted" bắt đầu khi Swift dùng búa đánh mạnh vào một chiếc chuông khổng lồ trước khi cô trình diễn bài hát trong lúc ba vũ công xuất hiện từ ba chiếc chuông treo trần nhà và thực hiện những động tác nhào lộn trên không.[27][28][35] Sau khi nhanh chóng thay đổi phục trang, nữ ca sĩ mang cây đàn guitar lấp lánh để trình diễn "Long Live" cùng ban nhạc và gởi lời cảm ơn đến khán giả.[23] Trở lại sân khấu sau lần thay phục trang cuối cùng, Swift trình diễn "Fifteen" bằng đàn guitar 12 string trên một chiếc ghế sofa trong khi hình ảnh các thành viên trong ban nhạc ở tuổi 15 và hiện tại hiện lên trên màn hình.[33][35] Buổi diễn kết thúc với "Love Story", nơi nữ ca sĩ dùng một chiếc ban công bay để di chuyển xung quanh địa điểm biểu diễn còn các vũ công đu mình trên không trung.[23] Những tràn pháo hoa và pháo giấy xuất hiện ở cuối tiết mục, Swift cùng đoàn hát của mình chào tạm biệt khán giả trước khi tấm màn đỏ chắn trước sân khấu đóng lại.[28][34]

Bố cục các buổi diễn tại châu Âu và châu Á không có nhiều thay đổi. Khi mở đầu chương trình với Sparks Fly, Swift xuất hiện đằng sau một tấm màn màu đen.[36] Cô liên tục trình diễn bốn bài hát trước khi thay đổi phục trang và trở lại trình diễn Speak Now cùng hai ca sĩ hát bè theo phong cách một nhóm nhạc nữ vào thập niên 1960.[37] Sau khi di chuyển đến sân khấu B và hoàn thành liên khúc "Fearless", "Hey, Soul Sister", "I'm Yours" cùng ukulele, nữ ca sĩ đeo cây đàn guitar 12 string để trình diễn "Fifteen".[38][39] Swift diện một chiếc đầm trắng dài khi trình diễn "Enchanted" trong khi hình ảnh "một khu rừng ma thuật" hiện lên trên màn hình.[36] Ở cuối tiết mục, cô lột bỏ chiếc đầm để lộ bộ trang phục còn lại và tiếp tục buổi diễn với "Long Live".[38]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Lượng vé bán

[sửa | sửa mã nguồn]
Swift trình diễn "Speak Now" tại Sydney vào tháng 3 năm 2012.

Vé cho một số đêm diễn tại châu Âu và châu Á đã bắt đầu bán từ cuối tháng 10 năm 2010,[7][40][41] sớm nhất là các thành phố ở Anh, nơi khán giả có thể mua vé từ ngày 22 tháng 10.[5] Đợt vé đầu tiên tại Bắc Mỹ bắt đầu chào bán từ ngày 3 tháng 12, gồm 10 đêm diễn tổ chức từ ngày 25 tháng 6 đến ngày 3 tháng 9 năm 2011. Toàn bộ các đêm diễn trong đợt này đều hết sạch vé ngay trong ngày.[42] Swift chỉ tốn hai phút để bán hết hai đêm diễn tại Los Angeles trong khi mất năm phút để tẩu tán sạch hơn 55.000 vé tại Foxborough.[43] Tình trạng tương tự vẫn tiếp diễn tại nhiều nơi khác như Newark, Detroit và Philadelphia trong các đợt bán vé sau.[18] Do nhu cầu cao, nữ ca sĩ tăng cường thêm năm ngày diễn nữa tại Foxborough (26 tháng 6), Newark (23 và 24 tháng 7) và Los Angeles (27 và 28 tháng 8).[43][44] Louis Messina, chủ tịch tập đoàn AEG, cho biết Swift rất quan tâm về giá vé và cố giữ chúng ở mức phải chăng cho tất cả mọi người. Tùy thuộc vào thị trường, ban tổ chức có sự điều chỉnh giá vé khác nhau. Những thị trường bình thường như thành phố Bossier có mức giá lần lượt là 29,50 USD, 59 USD và 69 USD trong khi những thị trường chính như Los Angeles và thành phố New York thì có giá vé có cao hơn nhưng không quá nhiều.[45] Jesse Lawrence từ Forbes cho biết giá vé trung bình của chuyến lưu diễn trên thị trường chợ đen ở mức 177,43 USD, cao hơn so với chuyến lưu diễn tiếp theo của cô, The Red Tour, mà giá vé trung bình cho hầu hết các đêm diễn ở mức 176 USD.[46] Hai ngày diễn tại thành phố New York có giá vé đắt nhất với mức giá trung bình lần lượt là 461,97 USD và 539,34 USD, trong khi giá vào cổng ở mức 109 USD và 139 USD.[47]

Sau khi vé chào bán tại châu Đại Dương vào ngày 26 tháng 8 năm 2011, Swift ngay lập tức thông báo thêm bốn đêm diễn tại Auckland, Melbourne, Sydney và Brisbane trước tốc độ bán hết nhanh chóng tại những thành phố này.[48][49] Riêng tại Melbourne và Auckland, nhu cầu vé vẫn tăng cao nên ban tổ chức tiếp tục bổ sung vào lịch trình thêm hai đêm diễn nữa, lần lượt vào ngày 12 và 18 tháng 3 năm 2012.[50][51] Michael Coppel, đại diện từ công ty quảng bá Michael Coppel Presents, chia sẻ với Billboard rằng lượng vé tiêu thụ của chuyến lưu diễn tại Úc và New Zealand "rất lớn", đồng thời kì vọng nữ ca sĩ sẽ bán nhiều vé hơn Beyoncé, Rihanna, Lady GagaKaty Perry. Swift chỉ đứng sau Justin Timberlake về lượng vé tiêu thụ tại đấu trường Vector ở Auckland với ba đêm diễn cháy vé theo Coppel tại thời điểm của bài viết.[52] Cô còn là nữ nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử trình diễn tại sân vận động Heinz Field của Pittsburgh.[53]

Doanh thu phòng vé

[sửa | sửa mã nguồn]

Billboard bắt đầu tiết lộ doanh thu cụ thể của từng đêm diễn vào cuối tháng 6 năm 2011 và lần lượt công bố trong các tháng tiếp theo cho đến khi chuyến lưu diễn kết thúc.[54][55] Trong các bảng xếp hạng của Pollstar vào tháng 7 năm 2011, Speak Now World Tour lần lượt đứng thứ 10 trong danh sách "2011 Mid-Year Top 50 Worldwide Tours" và thứ 6 trong "2011 Mid-Year Top 100 North American Tours", thu về hơn 42,9 triệu USD (55.808 triệu USD theo thời giá năm 2022[1]) từ 630.882 vé tiêu thụ sau 38 buổi diễn tại 33 thành phố,[56] trong đó 29,5 triệu USD (38.376 triệu USD theo thời giá năm 2022[1]) đến từ 18 đêm diễn tại Hoa Kỳ và Canada.[57]

Tháng 12 năm 2011, chuyến lưu diễn xếp ở vị trí thứ 5 trong "Top 25 Tours of 2011" của Billboard, kiếm hơn 97,4 triệu USD (126.706 triệu USD theo thời giá năm 2022[1]) từ 1.356.720 vé sau 89 buổi diễn, trong đó có 87 buổi diễn cháy vé.[58] Tổng doanh thu trong năm 2011 đạt 107,9 triệu USD (140.366 triệu USD theo thời giá năm 2022[1]) với hơn 1,5 triệu vé tiêu thụ theo thống kê của Billboard Boxscore.[45] Pollstar lại đưa ra số liệu khác, báo cáo chuyến lưu diễn thu về 104,2 triệu USD (135.552 triệu USD theo thời giá năm 2022[1]) từ 1.470.505 vé. Đây là chuyến lưu diễn có doanh thu cao thứ tư trên toàn cầu, cao nhất đối với một nghệ sĩ nhạc đồng quê, cao nhất đối với một nghệ sĩ hát đơn và cao nhất đối với một nghệ sĩ nữ trong năm 2011.[59] Speak Now World Tour còn đạt thành công tại Bắc Mỹ khi tẩu tán hơn 1.365.318 vé, thu về 97,7 triệu USD (127.097 triệu USD theo thời giá năm 2022[1]), đứng vị trí thứ hai trong danh sách "2011 Year-End Top 200 North American Tours",[60] đồng thời từng là chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất đối với một nghệ sĩ nhạc đồng quê tại khu vực này trước khi bị The Red Tour của chính Swift vượt qua vào năm 2013.[61] Cô cũng là nghệ sĩ chiếm nhiều vị trí nhất trong bảng xếp hạng "2011 Year-End Top 200 Concert Grosses" (tính tại Bắc Mỹ) khi sở hữu đến 22 vị trí.[62] Theo Billboard, chỉ riêng các đêm diễn tại Hoa Kỳ đã đem về cho Swift lợi nhuận hơn 29,8 triệu USD (38.766 triệu USD theo thời giá năm 2022[1]).[63]

Cuối tháng 3 năm 2012, Billboard tiết lộ số liệu phòng vé cuối cùng, báo cáo 12 đêm diễn tại châu Đại Dương thu về trên 15,8 triệu USD từ 137.879 vé, nâng tổng doanh thu của chuyến lưu diễn lên 123,7 triệu USD (157.678 triệu USD theo thời giá năm 2022[1]). Tổng cộng có hơn 1,6 triệu khán giả tham dự 110 đêm diễn trong vòng 13 tháng.[55] Đến tháng 6 năm 2012, Pollstar công bố doanh thu tại Úc và New Zealand đạt 17 triệu với 138.431 vé tiêu thụ.[64] Speak Now World Tour đứng ở thứ 40 trong danh sách "2012 Mid-Year Top 50 Worldwide Tours" và thứ 86 trong "2012 Year-End Top 100 Worldwide Tours".[64][65] Các đêm diễn tại Melbourne và Sydney lọt vào bảng xếp hạng "2012 Year-End Top 100 International Boxoffice" lần lượt ở vị trí thứ 78 và thứ 90.[66] Theo các số liệu thống kê của Pollstar trong cả hai năm 2011 và 2012, chuyến lưu diễn thu về hơn 121,2 triệu USD (154.491 triệu USD theo thời giá năm 2022[1]) từ 1.608.936 vé.[59][64]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Swift trình diễn "Enchanted" tại Paris vào tháng 3 năm 2011

Melisa Maerz từ tạp chí Entertainment Weekly cho đêm diễn đầu tiên tại Newark điểm A-, viết rằng "đối với Swift, mỗi ngày là một câu chuyện cổ tích, và Speak Now Tour không phải là một ngoại lệ".[67] Jon Parales từ The New York Times nhận thấy Speak Now vang lên "đều đặn một cách chuyên nghiệp" và "Swift, 21 tuổi, là siêu sao" của "hàng ngàn cô gái đang hát theo và la hét". Ông còn gọi bài hát của nữ ca sĩ là "những câu chuyện tường thuật cô đọng và êm tai".[68] Maura Johnston từ The Village Voice tuyên bố Swift là "một trong những ngôi sao hàng đầu trên thế giới" bởi "cô hát một cách rõ ràng về tình yêu, tình bạn và những khoảng thời gian tồi tệ liên quan, với lời bài hát được đăng đi rồi đăng lại dưới dạng blog liên tục trên Tumbrl cùng những đoạn hook cay đắng khiến mọi người ngân nga theo...Sự khác biệt giữa những người nhạy cảm bình thường và Swift là [họ] không viết những xúc cảm xảy ra hàng ngày thành bài hát và trình diễn trước hàng ngàn người mỗi đêm. Swift [cùng] các nghệ sĩ trên không và những tràng pháo sáng đã giúp cho những xúc cảm giận dữ và nhiều khoảnh khắc của niềm vui trở nên nổi bật."[69] James Reed từ The Boston Globe tỏ ra thán phục trước màn diễn dưới trời mưa tại Foxborough của Swift và nhận thấy nữ ca sĩ trình diễn tiến bộ hơn so với Fearless Tour. Ông cũng đề cao việc Swift có đầu tư hơn về mặt nghệ thuật sân khấu nhưng vẫn đảm bảo được giọng hát của mình.[70] Tham dự đêm nhạc tại thành phố New York, Annie Reuter từ Billboard cảm thấy Madison Square Garden như bị thu nhỏ thành căn phòng khách của Swift mỗi khi cô đưa khán giả vào câu chuyện của mình, đồng thời ghi nhận màn trình diễn "Enchanted" và khoảnh khắc Swift di chuyển xuyên qua khán giả để đến sân khấu B là những điểm nổi bật của chương trình.[71]

Andrew Barker từ tạp chí Variety dành lời tán dương cho khả năng trình diễn "ngày càng thú vị" của Swift và khẳng định buổi diễn là "một cảnh tượng tuyệt đỉnh mà có thể trở thành bước ngoặt trong sự nghiệp của cô". Tuy nhận định Swift không phải là một trong những ca sĩ có giọng hát khỏe nhất, ông vẫn khen ngợi cô vì "cách làm việc thông minh trong giới hạn của chính mình", nhất là qua các màn diễn acoustic, nơi giọng hát của nữ ca sĩ chiếm ưu thế.[72] Sophie Schillaci từ The Hollywood Reporter cũng có cùng suy nghĩ tương tự, cho rằng những khoảnh khắc tuyệt nhất của Swift là lúc cô độc tấu cùng các nhạc cụ, chẳng hạn như trong màn trình diễn "Back To December". Schillaci mô tả chương trình như "một bữa tiệc nhảy và hát theo hấp dẫn dành cho khán giả" và nhận thấy sự thay đổi liên tục của cảnh quan, trang phục, kiểu tóc và các nhạc cụ đã giúp cho buổi diễn không quá nhàm chán.[32] August Brown từ Los Angeles Times gọi Swift là "nàng thi sĩ nổi tiếng trong thể loại lãng mạn của thiên niên kỉ mới", đồng thời khen ngợi khả năng "sáng tác phong phú" của cô và tỏ ra thích thú trước buổi diễn, viết rằng "Swift đã hoàn thành nhiệm vụ khó nhất của cô ở cương vị là một người viết nhạc và là một nhà trình diễn."[73] Jim Harrington từ San Jose Mercury News nhận định giọng hát của Swift "là phương tiện truyền đạt tốt nhất cho những ca khúc của cô". Ông khen ngợi mặt nghệ thuật sân khấu "được thiết kế một cách khéo léo khiến khán giả cảm thấy như đang lạc vào một thế giới cổ tích" và lại "không nặng tính trào phúng như Fearless Tour".[74]

Swift trình diễn "Long Live" cùng ban nhạc của cô tại Vancouver vào tháng 9 năm 2011.

Đánh giá đêm diễn tại Seoul cho tờ The Korea Times, Ines Min cho rằng Swift quyến rũ Hàn Quốc bằng phong cách và sự rạng rỡ của cô cùng giọng hát chân thành với cao độ tuyệt vời nhưng lại nhận định việc Swift thường bị áp đảo bởi các nhạc cụ và hai ca sĩ hát bè đã khiến cô không giấu được những lỗ hổng khi trình diễn trực tiếp cũng như thấy rằng sự cổ vũ của khán giả đôi khi lấn át cả tiếng nhạc.[75] Chris Cairns từ Belfast Telegraph gọi Swift là "hoa khôi của buổi khiêu vũ" tại đấu trường Odyssey, đồng thời khẳng định đêm diễn "thực sự là một chương trình thú vị đã góp phần chứng minh vì sao cô là một trong những nghệ sĩ có lượng đĩa bán chạy nhất ngày nay".[76] Dorian Lynskey từ The Guardian phong tặng đêm diễn tại Luân Đôn bốn trên năm sao, mô tả Swift như "một người chị lớn điềm tĩnh, tài năng: quyến rũ, gần gũi, ân cần một cách nhiệt tình, tự tin nhưng cũng khiêm tốn".[39] Ludovic Hunter-Tilney của tờ Financial Times cũng phong tặng đêm diễn bốn sao, nhận thấy buổi diễn của Swift đã tái hiện xuất sắc một Nashville thật hào nhoáng và chân thực, đồng thời khen ngợi cô có một giọng hát trong trẻo và mạnh mẽ.[77] Tham dự đêm diễn đầu tiên tại Úc, Polly Coufos từ The Australian so sánh quy mô của chuyến lưu diễn với The Circus Tour của Britney Spears về quá trình dàn dựng nhưng khẳng định đêm nhạc của Swift "có hồn nhiều hơn. [Nữ ca sĩ] biết rõ khán giả của mình [và] nhận thức được độ tuổi của nhiều người xem" nên phục trang và phong cách biểu diễn của cô không quá gợi dục. Tiếp tục bài đánh giá, Coufos khen ngợi nữ ca sĩ và đội ngũ thực hiện, viết rằng "dù [Swift] không có một giọng hát mạnh mẽ nhưng cô đã thực hiện hết sức có thể. Các vũ công và thành viên trong ban nhạc luôn luôn làm cho mọi thứ trở nên bắt mắt và bắt tai.[...] Nghệ thuật dựng kịch cân xứng với sự quyến rũ một cách đơn giản. Cô đã đưa 16.000 khán giả vào câu chuyện thầm kín của mình khi chia sẻ nguồn gốc của mỗi bài hát". Cuối cùng, cây bút này kết luận Swift vẫn là "một luồng sinh khí mới trong thị trường nhạc Pop".[78]

Thành tích

[sửa | sửa mã nguồn]

Speak Now World Tour là sự kiện âm nhạc được ưa chuộng nhất tại các thành phố Hartford, Atlanta và Orlando.[79] Kelvin C.Jonson từ St. Louis Post-Dispatch ghi nhận buổi diễn tại Trung tâm Scottrade là một trong những đêm nhạc đáng nhớ nhất năm 2011 tại St. Louis,[80] trong khi Nate Chinnen từ The New York Times xếp buổi diễn ngày 22 tháng 11 tại Madison Square Garden ở vị trí thứ 10.[81] Tại Giải thưởng Lưu diễn Billboard năm 2011, chuyến lưu diễn thắng ở hạng mục "Buổi hòa nhạc được quảng bá tốt nhất",[82] đồng thời nhận hai đề cử cho "Màn kết hợp tốt nhất" và "Sự lựa chọn từ người hâm mộ của Eventful".[83][84] Sang năm 2012, Swift lần nữa góp mặt trong danh sách đề cử của giải này vẫn tại hạng mục "Màn kết hợp tốt nhất" và "Sự lựa chọn từ người hâm mộ của Eventful" nhưng đều không giành chiến thắng.[85][86] Cô cũng hai lần nhận đề cử cho "Nghệ sĩ Lưu diễn của năm" tại Giải Âm nhạc Đồng quê Mỹ trong năm 2011 và 2012.[87][88] Tại Giải Âm nhạc châu Âu của MTV năm 2012, nữ ca sĩ giành chiến thắng ở hạng mục "Trình diễn Trực tiếp Xuất sắc nhất".[89] Speak Now World Tour còn đem về cho Swift một số đề cử tại các hạng mục "Chuyến lưu diễn của năm" tại Giải thưởng Pollstar lần thứ 23, "Nghệ sĩ Lưu diễn hàng đầu" tại Giải thưởng âm nhạc Billboard năm 2012, "Nghệ sĩ Lưu diễn được yêu thích nhất" tại Giải Sự lựa chọn của Công chúng và "Sản xuất Âm thanh cho chuyến lưu diễn" tại giải thưởng TEC.[90][91][92]

Ghi hình và phát sóng

[sửa | sửa mã nguồn]
Swift trình diễn "Love Story" trong khi di chuyển xung quanh địa điểm biểu diễn bằng một chiếc ban công bay.

Hai màn trình diễn "Mine" và "The Story of Us" trong đêm nhạc gây quỹ "Speak Now...Help Now" tại Nashville đã được truyền trực tiếp thông qua Facebook, My Space, trang web chính thức của Swift và dịch vụ truyền dữ liệu Ustream vào lúc 9 giờ theo giờ miền Trung Bắc Mỹ ngày 21 tháng 5 năm 2011. Đoạn phim cũng bao gồm thông tin hướng dẫn khán giả cách thức ủng hộ các nạn nhân.[93][94] Video âm nhạc cho đĩa đơn "Sparks Fly" tập hợp nhiều phân cảnh trình diễn của Swift tại một số thành phố, trong đó có cả buổi diễn dưới trời mưa ở Foxborough.[95] Màn trình diễn Our Song giữa Swift và khách mời đặc biệt Ellen DeGeneres cộng với một số thước phim hậu trường của nữ ca sĩ tại Los Angeles được phát sóng trực tiếp trong chương trình The Ellen DeGeneres Show mùa thứ 9 vào ngày 14 tháng 9 năm 2011.[96][97] Trong chương trình 60 Minutes vào ngày 20 tháng 11 năm 2011, kênh CBS cho phát sóng nhiều thước phim hậu trường và phân cảnh trình diễn, ghi hình chủ yếu tại Los Angeles.[98][99] Vào năm 2017, nữ ca sĩ công bố độc quyền một số video hậu trường trên kênh Taylor Swift NOW thông qua dịch vụ truyền dữ liệu DirecTV.[100]

Ngày 21 tháng 9 năm 2011, Swift thông báo phát hành album Speak Now World Tour – Live dưới định dạng CD/DVD và CD/Bluray vào ngày 21 tháng 11 cùng năm thông qua hãng đĩa Big Machine Records.[101] CD là album trực tiếp đầu tiên của Swift, có độ dài khoảng 75 phút với 13 bài hát. DVD và Bluray gồm 18 màn trình diễn ghi hình từ nhiều buổi hòa nhạc khác nhau cộng với video hậu trường của chuyến lưu diễn và một đoạn phim gia đình.[102] Album đạt hơn 77.000 bản trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ, mở đầu tại vị thứ 11 trên bảng xếp hạng Billboard 200 nhưng lại vươn đến vị trí thứ hai trong Billboard Top Country Album.[103][104] Tính đến tháng 7 năm 2014, album đã vượt ngưỡng 346.000 bản chỉ tính riêng tại thị trường Hoa Kỳ.[105] Album còn đạt đến vị trí thứ 25 ở Canada trong khi dẫn đầu Top Country Album của Úc, nơi DVD ba lần đạt chứng nhận Bạch kim bởi ARIA.[106][107][108]

Danh sách tiết mục

[sửa | sửa mã nguồn]
Châu Á/ Châu Âu

Danh sách tiết mục trong các đêm diễn tại châu Âu và châu Á.[38][109][110]

  1. "Sparks Fly"
  2. "Mine"
  3. "The Story of Us"
  4. "Back to December" (kết hợp với "Apologize" và "You're Not Sorry")
  5. "Better Than Revenge"
  6. "Speak Now"
  7. "Fearless" (kết hợp với "Hey, Soul Sister" và "I'm Yours")
  8. "Fifteen"
  9. "You Belong with Me"
  10. "Dear John"
  11. "Enchanted"
  12. "Long Live"
Hát lại
  1. "Love Story"
Bắc Mỹ/ Châu Đại Dương

Danh sách tiết mục trong đêm diễn ngày 27 tháng 5 năm 2011 tại Omaha. Đây không phải là danh sách đại diện và đã được thay đổi trong nhiều đêm diễn khác nhau.[111]

  1. "Sparks Fly"
  2. "Mine"
  3. "The Story of Us"
  4. "Our Song"
  5. "Mean"
  6. "Back to December" (kết hợp với "Apologize" và "You're Not Sorry")
  7. "Better Than Revenge"
  8. "Speak Now"
  9. "Fearless" (kết hợp với "Hey, Soul Sister" và "I'm Yours")
  10. "Last Kiss"
  11. "You Belong with Me"
  12. "Dear John"
  13. "Enchanted"
  14. "Haunted"
  15. "Long Live"
Hát lại
  1. "Fifteen"
  2. "Love Story"
Ghi chú
Bài hát thêm
  • Trong một số đêm diễn như tại Houston, Swift trình diễn "Never Grow Up" trên sân khấu B.[112]
  • Trong nhiều đêm diễn ở Bắc Mỹ như tại Denver, Houston, thành phố New York, Swift trình diễn phiên bản acoustic của "Ours" trong phần hát lại.[71][112][113] Khi lưu diễn tại châu Đại Dương vào năm 2012, nữ ca sĩ trình diễn bài hát này trên sân khấu B.[28][114]
  • Trong đêm diễn tại thành phố Kansas, Swift trình diễn phiên bản acoustic của "Superman".[115]
  • Trong một số đêm diễn tại châu Đại Dương, Swift bổ sung thêm "Safe and Sound" vào phần hát lại.[116][117]
  • Trong đêm diễn thứ hai tại Auckland, Swift trình diễn phiên bản acoustic của "Eyes Open".[118]
Khách mời đặc biệt
Bài hát hát lại

Đây là danh sách một số bài hát của nhiều nghệ sĩ mà Swift đã hát lại trên sân khấu B trong suốt chặng Bắc Mỹ, không phải tất cả.

Lịch trình

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách các buổi hòa nhạc, ngày, thành phố, quốc gia, địa điểm, nghệ sĩ mở màn, số lượng vé bán ra, số lượng vé có sẵn và doanh thu
Ngày Thành phố Quốc gia Địa điểm Nghệ sĩ mở màn Số người tham dự Doanh thu
Châu Á[153]
9 tháng 2 năm 2011 Singapore Sân vận động trong nhà Singapore Sezairi Sezali 8.964 / 8.964 $916.850
11 tháng 2 năm 2011 Seoul Hàn Quốc Nhà thi đấu Thể dục dụng cụ Olympic 4.725 / 4.725 $385.374
13 tháng 2 năm 2011 Osaka Nhật Bản Hội trường Osaka-jō Johnny Saito 6.953 / 6.953 $758.113
16 tháng 2 năm 2011 Tokyo Nippon Budokan 15.955 / 15.955 $1.738.227
17 tháng 2 năm 2011
19 tháng 2 năm 2011 Manila Philippines Smart Araneta Coliseum Sam Concepcion 12.667 / 12.667 $859.037
21 tháng 2 năm 2011 Hồng Kông Trung Quốc AsiaWorld–Arena Johnny Saito 12.573 / 12.573 $1.030.633
Châu Âu[153][154]
6 tháng 3 năm 2011 Brussels Bỉ Forest National Tom Dice 4.622 / 4.622 $219.212
7 tháng 3 năm 2011 Rotterdam Hà Lan Ahoy 4.799 / 4.799 $248.314
9 tháng 3 năm 2011 Oslo Na Uy Oslo Spectrum 8.650 / 8.650 $815.246
12 tháng 3 năm 2011 Oberhausen Đức Đấu trường König Pilsener Martin and James 6.082 / 6.082 $370.028
15 tháng 3 năm 2011 Milan Ý Mediolanum Forum Emma Marrone 3.421 / 3.421 $153.303
17 tháng 3 năm 2011 Paris Pháp Zénith de Paris Double Bed 3.598 / 3.598 $201.781
19 tháng 3 năm 2011 Madrid Tây Ban Nha Palacio de los Deportes The Bright Sound 3.962 / 3.962 $251.864
22 tháng 3 năm 2011 Birmingham Anh Đấu trường LG Martin and James 9.339 / 9.339 $508.854
25 tháng 3 năm 2011 Belfast Bắc Ireland Đấu trường Odyssey 8.058 / 8.058 $379,001
27 tháng 3 năm 2011 Dublin Ireland The O2 8.681 / 8.681 $419.806
29 tháng 3 năm 2011 Manchester Anh Manchester Evening News Arena Martin and James 10.488 / 11.622 $580.558
30 tháng 3 năm 2011 Luân Đôn The O2 Arena 15.265 / 15.681 $891.152
Bắc Mỹ[155]
27 tháng 5 năm 2011 Omaha Hoa Kỳ Trung tâm Qwest Needtobreathe
Frankie Ballard
26.992 / 26.992 $1.717.104
28 tháng 5 năm 2011
29 tháng 5 năm 2011 Des Moines Đấu trường Wells Fargo 13.149 / 13.149 $862.771
2 tháng 6 năm 2011 Sunrise Trung tâm BankAtlantic 24.077 / 24.077 $1.582.951
3 tháng 6 năm 2011
4 tháng 6 năm 2011 Orlando Trung tâm Amway 12.262 / 12.262 $791.980
7 tháng 6 năm 2011 Columbus Đấu trường Nationwide 14.817 / 14.817 $955.259
8 tháng 6 năm 2011 Milwaukee Trung tâm Bradley 13.748 / 13.748 $897.042
11 tháng 6 năm 2011 Detroit Ford Field Needtobreathe
Frankie Ballard
Randy Montana
47.992 / 47.992 $3.453.549
14 tháng 6 năm 2011 St. Paul Trung tâm Xcel Energy Needtobreathe
Randy Montana
28.977 / 28.977 $1.913.737
15 tháng 6 năm 2011
18 tháng 6 năm 2011 Pittsburgh Heinz Field Needtobreathe
Randy Montana
Danny Gokey
52.009 / 52.009 $4.009.118
21 tháng 6 năm 2011 Buffalo Trung tâm First Niagara Needtobreathe
Randy Montana
14.487 / 14.487 $966.749
22 tháng 6 năm 2011 Hartford Trung tâm XL 12.436 / 12.436 $810.165
25 tháng 6 năm 2011 Foxborough Sân vận động Gillette Needtobreathe
Randy Montana
James Wesley
110.800 / 110.800 $8.026.350
26 tháng 6 năm 2011
30 tháng 6 năm 2011 Greensboro Greensboro Coliseum Needtobreathe
James Wesley
14.789 / 14.789 $990.701
1 tháng 7 năm 2011 Knoxville Đấu trường Thompson–Boling 13.754 / 13.754 $903.875
14 tháng 7 năm 2011 Montreal Canada Trung tâm Bell Needtobreathe
Danny Gokey
13.439 / 13.439 $1.254.230
15 tháng 7 năm 2011 Toronto Trung tâm Air Canada 30.144 / 30.144 $3.036.000
16 tháng 7 năm 2011
19 tháng 7 năm 2011 Newark Hoa Kỳ Trung tâm Prudential 51.487 / 51.487 $3.875.463
20 tháng 7 năm 2011
23 tháng 7 năm 2011
24 tháng 7 năm 2011
28 tháng 7 năm 2011 Grand Rapids Đấu trường Van Andel Needtobreathe
Hunter Hayes
11.012 / 11.012 $724.854
29 tháng 7 năm 2011 Indianapolis Conseco Fieldhouse 13.329 / 13.329 $877.175
30 tháng 7 năm 2011 Cleveland Đấu trường Quicken Loans 14.873 / 14.873 $976.954
2 tháng 8 năm 2011 Washington, D.C. Trung tâm Verizon 29.303 / 29.303 $2.068.789
3 tháng 8 năm 2011
6 tháng 8 năm 2011 Philadelphia Lincoln Financial Field Needtobreathe
Hunter Hayes
James Wesley
51.395 / 51.395 $4.268.678
9 tháng 8 năm 2011 Rosemont Allstate Arena Needtobreathe
Hunter Hayes
26.112 / 26.112 $1.909.603
10 tháng 8 năm 2011
13 tháng 8 năm 2011 St. Louis Trung tâm Scottrade 27.965 / 27.965 $1.850.159
14 tháng 8 năm 2011
18 tháng 8 năm 2011 Edmonton Canada Rexall Place Needtobreathe
James Wesley
25.336 / 25.336 $2.136.270
19 tháng 8 năm 2011
23 tháng 8 năm 2011 Los Angeles Hoa Kỳ Trung tâm Staples 54.900 / 54.900 $3.927.154
24 tháng 8 năm 2011
27 tháng 8 năm 2011
28 tháng 8 năm 2011
1 tháng 9 năm 2011 San Jose HP Pavilion 24.827 / 24.827 $1.825.448
2 tháng 9 năm 2011
3 tháng 9 năm 2011 Sacramento Power Balance Pavilion 12.432 / 12.432 $934.326
6 tháng 9 năm 2011 Portland Đấu trường Rose Garden 13.610 / 13.610 $903.445
7 tháng 9 năm 2011 Tacoma Tacoma Dome 19.904 / 19.904 $1.289.430
10 tháng 9 năm 2011 Vancouver Canada Đấu trường Rogers 26.030 / 26.030 $2.190.680
11 tháng 9 năm 2011
16 tháng 9 năm 2011 Nashville Hoa Kỳ Đấu trường Bridgestone Needtobreathe
Charlie Worsham
28.178 / 28.178 $1.841.134
17 tháng 9 năm 2011
20 tháng 9 năm 2011 Thành phố Bossier Trung tâm CenturyLink 11.510 / 11.510 $728.546
21 tháng 9 năm 2011 Tulsa Trung tâm BOK 12.546 / 12.546 $907.573
24 tháng 9 năm 2011 Thành phố Kansas Sân vận động Arrowhead 48.562 / 48.562 $3.148.046
27 tháng 9 năm 2011 Denver Trung tâm Pepsi 12.908 / 12.908 $834.916
28 tháng 9 năm 2011 Salt Lake City Đấu trường EnergySolutions 13.720 / 13.720 $896.946
1 tháng 10 năm 2011[a] Atlanta Philips Arena Needtobreathe
James Wesley
26.244 / 26.244 $1.726.661
2 tháng 10 năm 2011[b]
4 tháng 10 năm 2011 North Little Rock Đấu trường Verizon Needtobreathe
Charlie Worsham
13.566 / 13.566 $856.123
5 tháng 10 năm 2011 New Orleans Đấu trường New Orleans 12.943 / 12.943 $830.289
8 tháng 10 năm 2011 Arlington Sân vận động Cowboys Needtobreathe
James Wesley
Charlie Worsham
55.451 / 55.451 $4.337.062
11 tháng 10 năm 2011[c] Louisville Trung tâm KFC Yum! Needtobreathe
James Wesley
14.848 / 14.848 $1.003.828
14 tháng 10 năm 2011 Lubbock Đấu trường United Spirit Needtobreathe
David Nail
10.419 / 10.419 $710.426
15 tháng 10 năm 2011 Oklahoma City Đấu trường Chesapeake Energy 11.592 / 11.592 $758.364
20 tháng 10 năm 2011 San Diego Trung tâm Valley View Casino 10.834 / 10.834 $792.634
21 tháng 10 năm 2011 Glendale Đấu trường Jobing.com 27.029 / 27.029 $1.826.025
22 tháng 10 năm 2011
25 tháng 10 năm 2011 San Antonio Trung tâm AT&T 13.851 / 13.851 $901.535
26 tháng 10 năm 2011 Austin Trung tâm Frank Erwin 11.999 / 11.999 $752.078
29 tháng 10 năm 2011[d] Lexington Đấu trường Rupp 16.237 / 16.237 $1.041.935
30 tháng 10 năm 2011 Memphis FedExForum 12.604 / 12.604 $820.036
5 tháng 11 năm 2011 Houston Minute Maid Park Needtobreathe
David Nail
Adam Brand
42.095 / 42.095 $3.435.756
11 tháng 11 năm 2011 Jacksonville Đấu trường Veterans Memorial Needtobreathe
Adam Brand
11.785 / 11.785 $749,099
12 tháng 11 năm 2011 Tampa St. Pete Times Forum 13.695 / 13.695 $914,300
13 tháng 11 năm 2011 Miami Đấu trường American Airlines 12.153 / 12.153 $786.904
16 tháng 11 năm 2011[e] Charlotte Đấu trường Time Warner Cable Needtobreathe
Danny Gokey
14.272 / 14.272 $920.903
17 tháng 11 năm 2011 Raleigh Trung tâm RBC Needtobreathe
Adam Brand
13.567 / 13.567 $866.056
18 tháng 11 năm 2011 Columbia Đấu trường Colonial Life 12.807 / 12.807 $828.231
21 tháng 11 năm 2011[f] Thành phố New York Madison Square Garden Needtobreathe
David Nail
Adam Brand
26.652 / 26.652 $1.988.411
22 tháng 11 năm 2011[f]
Châu Đại Dương[160]
2 tháng 3 năm 2012 Perth Úc Burswood Dome Hot Chelle Rae 15.142 / 15.142 $1.878.530
4 tháng 3 năm 2012 Adelaide Trung tâm Giải trí Adelaide 8.589 / 8.589 $1.075.370
6 tháng 3 năm 2012 Brisbane Trung tâm Giải trí Brisbane 19.870 / 19.870 $2.416.030
7 tháng 3 năm 2012
9 tháng 3 năm 2012 Sydney Allphones Arena 27.900 / 27.900 $3.420.360
10 tháng 3 năm 2012
12 tháng 3 năm 2012 Melbourne Rod Laver Arena 33.793 / 33.793 $4.151.650
13 tháng 3 năm 2012
14 tháng 3 năm 2012
16 tháng 3 năm 2012 Auckland New Zealand Vector Arena 32.585 / 32.585 $2.888.560
17 tháng 3 năm 2012
18 tháng 3 năm 2012
Tổng cộng 1.645.945 / 1.647.495
(99.9%)
$123.691.409

Buổi diễn bị hủy

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách những buổi hoà nhạc bị hủy, ngày, thành phố, quốc gia, địa điểm và lý do
Ngày Thành phố Quốc gia Địa điểm Lý do
14 tháng 3 năm 2011 Munich Đức Olympiahalle Xung đột lịch trình[12]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú giải

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Buổi diễn ngày 1 tháng 10 năm 2011 tại Atlanta theo thông báo ban đầu sẽ diễn ra vào ngày 9 tháng 7 năm 2011 nhưng đã bị hoãn lại do căn bệnh viêm cuống phổi của Swift.[156]
  2. ^ Buổi diễn ngày 2 tháng 10 năm 2011 tại Atlanta theo thông báo ban đầu sẽ diễn ra vào ngày 10 tháng 7 năm 2011 nhưng đã bị hoãn lại do căn bệnh viêm cuống phổi của Swift.[156]
  3. ^ Buổi diễn tại Louisville theo thông báo ban đầu sẽ diễn ra vào ngày 2 tháng 7 năm 2011 nhưng đã bị hoãn đến ngày 11 tháng 10 năm 2011 do căn bệnh viêm cuống phổi của Swift.[157]
  4. ^ Buổi diễn tại Lexington theo thông báo ban đầu sẽ diễn ra vào ngày 13 tháng 8 năm 2011[158] nhưng đã được dời đến ngày 29 tháng 10 năm 2011[159] sau khi Swift tăng cường thêm một đêm diễn nữa tại St. Louis.[15]
  5. ^ Buổi diễn ngày 16 tháng 11 năm 2011 tại Charlotte theo thông báo ban đầu sẽ diễn ra vào ngày 8 tháng 7 năm 2011 nhưng đã bị hoãn lại do căn bệnh viêm cuống phổi của Swift.[156]
  6. ^ a b Các đêm diễn tại thành phố New York theo thông báo ban đầu sẽ diễn ra vào ngày 19 và 20 tháng 7 năm 2011[158] nhưng sau khi Swift lên lịch lại vào tháng 1 năm 2011, hai đêm diễn trên trở thành ngày diễn tại Trung tâm Prudential, Newark.[16] Mãi cho đến tháng 3 cùng năm, nữ ca sĩ mới thêm lại hai đêm diễn này cho khán giả New York.[18]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j Cụm nguồn chỉ số giá cả lạm phát tại Hoa Kỳ:
    • Giai đoạn 1634–1699: McCusker, J. J. (1997). How Much Is That in Real Money? A Historical Price Index for Use as a Deflator of Money Values in the Economy of the United States: Addenda et Corrigenda [Giá đó đổi sang tiền thật bằng bao nhiêu? Chỉ số giá cả theo lịch sử lưu lại được sử dụng làm công cụ giảm phát giá trị tiền tệ trong nền kinh tế Hoa Kỳ: Addenda et Corrigenda] (PDF) (bằng tiếng Anh). American Antiquarian Society.
    • Giai đoạn 1700–1799: McCusker, J. J. (1992). How Much Is That in Real Money? A Historical Price Index for Use as a Deflator of Money Values in the Economy of the United States [Giá đó đổi sang tiền thật bằng bao nhiêu? Chỉ số giá cả theo lịch sử lưu lại được sử dụng làm công cụ giảm phát giá trị tiền tệ trong nền kinh tế Hoa Kỳ] (PDF) (bằng tiếng Anh). American Antiquarian Society.
    • Giai đoạn 1800–nay: Cục Dự trữ Liên bang Ngân hàng Minneapolis. “Consumer Price Index (estimate) 1800–” [Chỉ số giá tiêu dùng (ước tính) 1800–] (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  2. ^ a b Mapes, Jillian (23 tháng 11 năm 2010). “Taylor Swift Announces 'Speak Now' World Tour”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  3. ^ a b Patsorek, Whitney (21 tháng 7 năm 2010). “Taylor Swift announces new album, 'Speak Now,' will drop Oct. 25”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2016.
  4. ^ Farley, Christopher John (21 tháng 7 năm 2010). “Taylor Swift Sets Release Date for New Album 'Speak Now'. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2016.
  5. ^ a b Copsey, Robert (ngày 19 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift announces UK tour dates”. Digital Spy. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  6. ^ a b KG, Musikmarkt GmbH & Co. (22 tháng 10 năm 2010). “Marek Lieberberg holt Taylor Swift nach Deutschland”. Musikmarkt (bằng tiếng Đức). Frankfurt. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2016.
  7. ^ a b Rodriguez, Alejandro (22 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift aterrizará en Madrid el próximo 19 de marzo”. El Mundo (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2016.
  8. ^ cmt.com staff (25 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift Meets Her Friends Live From New York City”. Country Music Television. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2016.
  9. ^ Ricky Lo (16 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift show in Feb”. The Philippine Star. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2016.
  10. ^ Byrne, Niall (ngày 1 tháng 11 năm 2010). “Taylor Swift – The O2, Dublin”. State Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2016.
  11. ^ “Taylor Swift Biglietti per i concerti - Mediolanum Forum Assago, Italia” (bằng tiếng Ý). Live Nation. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2016.
  12. ^ a b GmbH, Olympiapark München. “Taylor Swift sagt Münchner Konzert ab” (bằng tiếng Đức). Olympiapark.de. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2016.
  13. ^ “Taylor announces Needtobreathe as 2011 tour opening act”. TaylorSwift.com. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  14. ^ Relaxnews (ngày 28 tháng 1 năm 2011). “Weekly music agenda: Taylor Swift launches 'Speak Now' tour”. The Independent. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2016.
  15. ^ a b C. Johnson, Kevin. “Taylor Swift will perform at Scottrade in August”. St. Louis Post-Dispatch. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2016.
  16. ^ a b McCall, Tris (26 tháng 1 năm 2011). “Taylor Swift to return to Newark in July”. NJ.com. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2016.
  17. ^ CMT.com staff (3 tháng 3 năm 2011). “Taylor Swift Adds Opening Acts to North American Tour”. Country Music Television. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  18. ^ a b c AEG Live (24 tháng 3 năm 2011). “Taylor Swift Adds 16 Dates to SPEAK NOW WORLD TOUR 2011” (Thông cáo báo chí). PR Newswire. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2016.
  19. ^ 20 tháng 4 năm 2011/story/ticket-tracker-taylor-swift-coming-jacksonville-november “Ticket Tracker: Taylor Swift coming to Jacksonville in November” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). The Florida Times-Union. 20 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2016.[liên kết hỏng]
  20. ^ “Swift returns Down Under”. Country Standard Time. 10 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2016.
  21. ^ “Hot Chelle Rae Tour Dates 2012 - with Taylor Swift”. Yahoo7. Seven West Media. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2016.
  22. ^ Widdicombe, Lizzie (10 tháng 10 năm 2011). “You Belong with Me”. The New Yorker. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  23. ^ a b c Budzak, Gary. “Taylor Swift impressive in many ways”. The Columbus Dispatch. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  24. ^ Mcmullen, Paul (ngày 19 tháng 6 năm 2011). “Country superstar Swift rocks out at Heinz Field”. Pittsburgh Tribune-Review. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  25. ^ a b McDonnell, Brandy (ngày 16 tháng 12 năm 2011). “DVD review: 'Taylor Swift Speak Now World Tour Live CD+DVD'. The Oklahoman. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  26. ^ a b c d Mevis, Scott (19 tháng 6 năm 2011). “Taylor Swift brings lots of theatrics and love to Heinz Field”. Pittsburgh Post-Gazette. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  27. ^ a b c d e f Masley, Ed (22 tháng 10 năm 2011). “Taylor Swift treats Glendale to greatest hits, Jordin Sparks tune”. The Arizona Republic. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  28. ^ a b c d e f Jenkin, Lydia (ngày 17 tháng 3 năm 2012). “Concert review: Taylor Swift at Vector Arena”. New Zealand Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  29. ^ a b c d e f g Johnson, Kevin C. (15 tháng 8 năm 2011). “Taylor Swift has substance to go with style”. St. Louis Post-Dispatch. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  30. ^ Graff, Gary (ngày 11 tháng 6 năm 2011). “Concert Review: Taylor Swift spectacle dazzles at Ford Field”. The Oakland Press. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  31. ^ a b c Fontaie, Janis (3 tháng 6 năm 2011). “Taylor Swift's Speak Now Tour a visual and auditory feast”. The Palm Beach Post. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  32. ^ a b c d Schillaci, Sophie (25 tháng 8 năm 2011). “Taylor Swift at Staples Center: Concert Review”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2017.
  33. ^ a b McCall, Tris (20 tháng 7 năm 2011). “Taylor Swift at Prudential Center: song by song”. NJ.com. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  34. ^ a b c d Vena, Jocelyn (20 tháng 7 năm 2011). “Taylor Swift's Speak Now Tour Brings Honky Tonk To NJ”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  35. ^ a b c Spera, Keith (6 tháng 10 năm 2011). “Taylor Swift was true to herself at the New Orleans Arena”. The Times-Picayune. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  36. ^ a b Sträter, Andreas (ngày 13 tháng 3 năm 2011). “Blaue Augen, süße Songs: Taylor Swift in Oberhausen” [Blues, sweet songs: Taylor Swift in Overhausen]. Soester Anzeiger (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2011.
  37. ^ Herrero, Javier (ngày 19 tháng 3 năm 2011). “Taylor Swift encandila a unos 4.000 madrileños con su country edulcorado” [Taylor Swift dazzle some 4,000 locals sweetened country]. La Rioja (bằng tiếng Tây Ban Nha). Grupo Vocento. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2011.
  38. ^ a b c Madigan, Ros (ngày 30 tháng 3 năm 2011). “Review: Taylor Swift @ The O2 – March 27th 2011”. GoldenPlec. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
  39. ^ a b Lynskey, Dorian (ngày 31 tháng 3 năm 2011). “Taylor Swift – review”. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2017.
  40. ^ “Taylor Swift - Oslo Spektrum”. Oslo Spektrum Official Website. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  41. ^ “Taylor Swift Live In Hong Kong 2011”. Hong Kong Ticketing. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  42. ^ “Taylor Swift Tickets On Sale Today”. CBS News. 3 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  43. ^ a b “Swift adds LA, Boston tour dates”. Country Standard Time. 6 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  44. ^ McCall, Tris (13 tháng 3 năm 2011). “2011 summer concert schedule offers marked improvement over dreary 2010”. NJ.com. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  45. ^ a b Waddell, Ray. 10 tháng 12 năm 2011.pdf “A Born Headliner” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) (PDF). Billboard. Nielsen Business Media, Inc. 123 (45): 34. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  46. ^ Lawrence, Jesse (24 tháng 10 năm 2014). “Despite White Hot Status, Taylor Swift Tickets For A Possible Tour Would Be Her Cheapest Ever”. Forbes. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
  47. ^ Lawrence, Jesse (29 tháng 7 năm 2015). “Tickets For 1989 Tour Are Most Expensive Ever For Taylor Swift”. Forbes. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2016.
  48. ^ “Swift adds four dates to Aussie/New Zealand tour”. Country Standard Time. 26 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  49. ^ Jones, Bridget (ngày 24 tháng 8 năm 2011). “Taylor Swift announces second show”. Stuff.co.nz. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  50. ^ “Triple trouble for Taylor Swift fans”. Stuff.co.nz. ngày 29 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  51. ^ “Taylor Swift's 'Speak Now' Tour 2012”. Country Music Chanel. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  52. ^ Brandle, Lars (ngày 10 tháng 12 năm 2011). 10 tháng 12 năm 2011.pdf “Australia Awaits Taylor's Return” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) (PDF). Billboard. Nielsen Business Media, Inc. 123 (45): 40. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  53. ^ Scott, Mervis (5 tháng 6 năm 2015). “Preview: 10 Best Moments in Taylor Swift's career”. Pittsburgh Post-Gazette. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  54. ^ Billboard Hot Tour 2011
  55. ^ a b Allen, Bob (29 tháng 3 năm 2012). “Hot Tours: Taylor Swift, George Strait, Cirque Du Soleil”. Billboard. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  56. ^ “2011 Mid-Year Top 50 Worldwide Tours” (PDF). Pollstar. 2011. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  57. ^ “2011 Mid-Year Top 100 North American Tours” (PDF). Pollstar. 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  58. ^ “Top 25 Tours of 2011”. Billboard. 9 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  59. ^ a b “2011 Year-End Top 100 Worldwide Tours” (PDF). Pollstar. 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  60. ^ “2011 Year-End Top 200 North American Tours” (PDF). Pollstar. 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  61. ^ Amy Sciarretto (ngày 11 tháng 1 năm 2014). “Taylor Swift Had Highest-Grossing North American Tour of 2013”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2014.
  62. ^ “2011 Year-End Business Analysis” (PDF). Pollstar. 2011. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.[liên kết hỏng]
  63. ^ “Music's Top 40 Money Makers 2012”. Billboard. ngày 9 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2017.
  64. ^ a b c “2012 Year-End Top 100 Worldwide Tours” (PDF). Pollstar. 2012. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  65. ^ “2012 Mid-Year Top 50 Worldwide Tours” (PDF). Pollstar. 2012. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  66. ^ “2012 Year-End Top 200 Concert Grosses” (PDF). Pollstar. 2012. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.[liên kết hỏng]
  67. ^ Maerz, Melissa (ngày 27 tháng 7 năm 2011). “Speak Now Tour review”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  68. ^ Pareles, Jon (ngày 21 tháng 7 năm 2011). “Taylor Swift at the Prudential Center - Review”. The New York Times. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  69. ^ Johnston, Maura (ngày 20 tháng 7 năm 2011). “Live: Taylor Swift Sparkles And Survives At The Prudential Center”. The Village Voice. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2017.[liên kết hỏng]
  70. ^ Reed, James (27 tháng 6 năm 2011). “Taylor Swift shines in sold-out Gillette Stadium in the rain”. The Boston Globe. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2017.
  71. ^ a b c Reuter, Annie (22 tháng 11 năm 2011). “Taylor Swift Welcomes NYC Crowd to Dream World For 'Speak Now' Tour”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  72. ^ Barker, Andrew (ngày 24 tháng 8 năm 2011). “Review: 'Taylor Swift'. Variety. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2017.
  73. ^ Brown, August (ngày 24 tháng 8 năm 2011). “Review: Taylor Swift at Staples Center”. Los Angeles Times (blog). Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2017.
  74. ^ a b Harrington, Jim (1 tháng 9 năm 2011). “Review: Taylor Swift brings fairy tale to San Jose”. San Jose Mercury News. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  75. ^ Min, Ines (ngày 13 tháng 2 năm 2011). “Taylor Swift charms Korea in style”. The Korea Times. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2017.
  76. ^ Cairns, Chris (26 tháng 3 năm 2011). “Sparks Fly as Taylor Swift thrills devotees”. Belfast Telegraph. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2017.
  77. ^ Hunter-Tilney, Ludovic (2 tháng 4 năm 2011). “Taylor Swift, O2 Arena, London”. Financial Times. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2017.
  78. ^ Coufos, Polly (ngày 5 tháng 3 năm 2012). “Swift a breath of fresh air”. The Australian. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2017.
  79. ^ Sciarretto, Amy. “Taylor Swift's Speak Now Tour Drew Biggest Crowd of 2011”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2017.
  80. ^ C.Johnson, Kelvin (19 tháng 12 năm 2011). “U2 at Busch Stadium tops critic's list of best concerts of 2011”. St. Louis Post-Dispatch. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2017.
  81. ^ Pareles, Jon (ngày 28 tháng 12 năm 2011). “Pop and Jazz Concert Highs of 2011”. The New York Times. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2017.
  82. ^ Billboard Staff (10 tháng 11 năm 2011). “Billboard Touring Awards: U2, Journey, Jason Aldean Win Big”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  83. ^ Billboard Staff (4 tháng 11 năm 2011). “Billboard Touring Awards: U2, Bon Jovi, Take That Are Top Finalists”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  84. ^ “Eventful, Inc. Press Release: EVENTFUL & BILLBOARD LAUNCH THE 2011 "EVENTFUL FANS' CHOICE AWARD" (Thông cáo báo chí). San Diego: Eventful.com. 30 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  85. ^ Waddell, Ray (ngày 30 tháng 10 năm 2012). “Roger Waters, Bruce Springsteen, Madonna, Coldplay, Kenny Chesney Among 2012 Billboard Touring Awards Finalists”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  86. ^ “WHO WILL WIN THE BEST CONCERT TOUR OF THE YEAR?” (Thông cáo báo chí). San Diego, Calif. and New York, N.Y.: Eventful.com. ngày 1 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  87. ^ Hensel, Amanda (5 tháng 12 năm 2011). “2011 American Country Awards Winners – Full List”. Taste of Country. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  88. ^ Taste of Country Staff (10 tháng 12 năm 2012). “2012 American Country Awards Winners – Full List”. Taste of Country. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  89. ^ Archive-Carly-Wolkoff (11 tháng 11 năm 2012). “MTV EMA 2012 Complete Winners List” (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  90. ^ Pollstar Creative Services (2011). “2011 Pollstar Awards”. Pollstar. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  91. ^ “2012 People's Choice Awards”. PeoplesChoice.com.One Three Digital, LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  92. ^ “The 27th TEC Awards Nominees for Creative Achievement”. legacy.tecawards.org. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  93. ^ Lewis, Randy (ngày 23 tháng 5 năm 2011). “Taylor Swift benefit concert raises more than $750,000 for tornado victims”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.
  94. ^ cmt.com staff (ngày 19 tháng 5 năm 2011). “Taylor Swift Offers Live Video Streams From Fundraising Concert”. Country Music Television. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.
  95. ^ Dukes, Billy. “Taylor Swift's New 'Sparks Fly' Video Features Fans and Concert Theatrics”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.
  96. ^ a b Oldenburg, Ann (ngày 29 tháng 8 năm 2011). “Ellen DeGeneres joins Taylor Swift show”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  97. ^ Hensel, Amanda (ngày 13 tháng 9 năm 2011). “Taylor Swift Gets Grilled on Dating, Kissing and Prison on 'Ellen'. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.
  98. ^ "60 MINUTES" PROFILE OF TAYLOR TO AIR SUNDAY, NOVEMBER 20TH AT 7 PM ET / PT ON CBS”. TaylorSwift,com. 17 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2017.
  99. ^ 21 tháng 11 năm 2011/1/ “Taylor Swift: A young singer's meteoric rise” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). CBS. 21 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2017.
  100. ^ Taylor, Swift (2017). “Watch 06. I Went On Tour: Part 1 Online”. DirectTV.com. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.
  101. ^ Lipshutz, Jason (21 tháng 9 năm 2011). “Taylor Swift Announces 'Speak Now' Live CD/DVD”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2017.
  102. ^ Schillaci, Sophie (7 tháng 11 năm 2011). “Taylor Swift to Release 'Speak Now' Concert CD, DVD Set (Video)”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2017.
  103. ^ “Michael Buble's 'Christmas' Squeaks Past Nickelback to Take No. 1 on Billboard 200”. Billboard. ngày 30 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2017.
  104. ^ “Taylor Swift - Chart history”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2017.
  105. ^ Trust, Gary (8 tháng 7 năm 2014). “Ask Billboard: Ed Sheeran & Taylor Swift's Red Reigns”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2017.
  106. ^ “Top 20 Country Chart of January 2nd, 2012”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. ngày 2 tháng 1 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2017.
  107. ^ 10 tháng 12 năm 2011?order=gainer “Billboard Canadian Albums: Top Albums Chart of ngày 10 tháng 12 năm 2011” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2017.
  108. ^ “ARIA Charts - Accreditations - 2014 DVDs”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. 31 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2017.
  109. ^ Serene. “Too Swift a show”. Today. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  110. ^ “Boundless energy and frenzied screams speak for Taylor Swift's Manila concert”. Manila Bulletin. 22 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  111. ^ Coffey, Kevin (ngày 28 tháng 5 năm 2011). “Taylor Swift shimmers in Omaha”. Omaha World-Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  112. ^ a b c Haar, Pete Vonder (ngày 7 tháng 11 năm 2011). “Saturday Night: Taylor Swift At Minute Maid Park”. Houston Press. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  113. ^ a b Sciarretto, Amy (28 tháng 9 năm 2011). “Taylor Swift Performs 'Ours' for the First Time, Covers 'How to Save a Life'. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  114. ^ Quinn, Karl (13 tháng 3 năm 2012). “Love conquers all for country princess Taylor Swift”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  115. ^ Wilkenning, Matthew (25 tháng 9 năm 2011). “Taylor Swift Performs Rare 'Speak Now' Track 'Superman' in Concert”. Taste of Country. Townquare Media. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  116. ^ Joy Cooper, Brittany (9 tháng 3 năm 2012). “Taylor Swift Performs 'Safe and Sound' Live in Australia”. Taste of Country. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  117. ^ Greive, Duncan (21 tháng 3 năm 2012). “Concert review: Taylor Swift, Vector Arena”. The New Zealand Herald. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  118. ^ Kellogg, Jane (ngày 18 tháng 3 năm 2012). “Taylor Swift Debuts 'Eyes Open' From 'Hunger Games' Soundtrack (Video)”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  119. ^ “Justin Bieber and Taylor Swift 'Baby' in Los Angeles”. Rolling Stone. 24 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  120. ^ a b c d Perpetua, Mattthew (16 tháng 11 năm 2011). “Taylor Swift's Coast-to-Coast Cover Songs”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  121. ^ Lipshutz, Jason (29 tháng 8 năm 2011). “Taylor Swift Brings Out Nicki Minaj for 'Super Bass' Duet: Video”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  122. ^ a b Dang, Vivian (11 tháng 9 năm 2011). “Taylor Swift's Speak Now tour brings Nashville to Vancouver”. The Vancouver Observer. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  123. ^ Hensel, Amanda (17 tháng 9 năm 2011). “Taylor Swift and Ronnie Dunn Perform 'Bleed Red' at Nashville Show”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  124. ^ Anderson, Kyle (19 tháng 9 năm 2011). “Taylor Swift teams with Hayley Williams in Nashville for 'That's What You Get': Watch it here!”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  125. ^ “Taylor Swift And Andy Grammer Perform 'Keep Your Head up' For Nashville”. American Top 40 (Premiere Networks). 23 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  126. ^ Maher, Cristin (18 tháng 9 năm 2011). “Taylor Swift Performs With Tim McGraw and Kenny Chesney at Nashville Show”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  127. ^ a b Mitchelle, Archive Jon (3 tháng 10 năm 2011). “From T.I. And Usher To Justin Bieber And Jason Mraz, Taylor Swift Is The Queen Of Concert Duets”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  128. ^ Bain, Backy (ngày 10 tháng 10 năm 2011). “Taylor Swift Brings Out B.o.B For "Airplanes" Duet In Dallas”. Idolator. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.[liên kết hỏng]
  129. ^ a b Iasimone, Ashley (23 tháng 10 năm 2011). “Taylor Swift Covers Jimmy Eat World, Michelle Branch and Jordin Sparks Songs”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  130. ^ a b Hensel, Amanda (27 tháng 10 năm 2011). “Taylor Swift Pays Tribute to Jack Ingram, Brings Shawn Colvin to the Stage in Texas”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  131. ^ Rubenstein, Jenna Hally (14 tháng 11 năm 2011). “Taylor Swift Duets With Flo Rida On 'Right Round' (VIDEO)”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  132. ^ Hensel, Amanda (19 tháng 11 năm 2011). “Taylor Swift Brings Darius Rucker on Stage to Perform 'Alright'. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  133. ^ Smith, Grady (23 tháng 11 năm 2011). “Taylor Swift wraps her Speak Now tour in New York City, sings with James Taylor and Selena Gomez”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  134. ^ Collins, ,Leah (18 tháng 7 năm 2011). “Taylor Swift Covers Justin Bieber In Concert (Alanis Morissette and Tal Bachman, Too)”. Calgary Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  135. ^ Ross, Dalton (25 tháng 7 năm 2011). “Taylor Swift thanks Newark crowd for 'insanely loud shrieks and screams'. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  136. ^ Bonaguro, Alison. “OFFSTAGE: Taylor Swift Plays Dixie Chicks for a Dixie Chick”. Country Music Television. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  137. ^ Nessif, Bruna (5 tháng 8 năm 2011). “Taylor Swift Makes Eminem's Lose Yourself Sound Sweet”. E! News. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  138. ^ Maerz, Mellisa. “Taylor Swift covers Eminem's 'Lose Yourself, says 'Yo!' very well: Watch it here”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  139. ^ Hsia-Ting Chang (4 tháng 8 năm 2011). “Review: Taylor Swift at the Verizon Center August 4”. The Baltimore Sun. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  140. ^ DeLuca, Dan (7 tháng 8 năm 2011). “Taylor Swift at the Linc”. Philly.com. Philadelphia Media Network. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  141. ^ Rubenstein, Jenna Hally. “WATCH: Taylor Swift Covers Fall Out Boy's 'Sugar, We're Goin Down'. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  142. ^ Sperounes, Sandra (ngày 19 tháng 8 năm 2011). “Taylor, Taylor, Taylor”. Edmonton Journal. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  143. ^ Mead, David (ngày 1 tháng 11 năm 2011). “Cover Girl: Taylor Swift And The Unbearable Likeness Of Singing”. American Songwriter. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  144. ^ Rubenstein, Jenna Hally. “Taylor Swift Covers Britney Spears' 'Lucky' (!!!!) (VIDEO)”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  145. ^ Maher, Cristin. “Taylor Swift Performs Sugarland's 'Baby Girl' + Sings With Usher Onstage”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  146. ^ Maher, Cristin (8 tháng 10 năm 2011). “Taylor Swift Performs Brooks and Dunn's 'Ain't Nothing 'Bout You' Live”. Taste of Country. Townsquare Media. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  147. ^ Svokos, Heather (9 tháng 10 năm 2011). “Taylor Swift at Cowboys Stadium: the scene report (UPDATED with video)”. Fort Worth Star-Telegram. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  148. ^ Eichenberger, Brian (ngày 12 tháng 10 năm 2011). “Taylor Swift returns to Yum Center [Music]”. Louisville. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  149. ^ a b Maher, Cristin (16 tháng 10 năm 2011). “Taylor Swift Covers the Dixie Chicks and Rascal Flatts Live in Concert”. Taste of Country. Townquare Media. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  150. ^ Kragen, Pam (21 tháng 10 năm 2011). “CONCERT REVIEW: Swift wows local fans with spectacular arena show”. San Diego Union Tribune. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  151. ^ Saldana, Hector (25 tháng 10 năm 2011). “Review: Taylor Swift”. The San Antonio Express-News. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  152. ^ Greenwald, David. “Taylor Swift Covers Justin Timberlake's 'Cry Me a River': Watch”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  153. ^ a b “Billboard Boxscore: Issue Date 11/12/2011”. Billboard. ngày 12 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc Tháng 11 3, 2011. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  154. ^ Doanh thu phòng vé một số đêm diễn tại châu Âu
  155. ^ Doanh thu phòng vé các đêm diễn tại Bắc Mỹ
  156. ^ a b c Heller, Corinne. “Taylor Swift postpones gigs due to illness”. ABC 7. American Broadcasting Company. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2016.
  157. ^ Associated Press (ngày 3 tháng 7 năm 2011). “Taylor Swift Postpones Louisville Concert Due to Illness”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2016.
  158. ^ a b Mapes, Jullian (23 tháng 11 năm 2011). “Taylor Swift Announces 'Speak Now' World Tour”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2016.
  159. ^ “Hot tickets: Taylor Swift, New Pornographers, Miranda Lambert, more”. Lexington Herald Leader. 10 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2016.
  160. ^ “Billboard Boxscore”. Billboard. New York. 124 (11). ngày 7 tháng 4 năm 2012. ISSN 0006-2510. Lưu trữ bản gốc Tháng 3 31, 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Prompt Engineering: Ngôn ngữ của AI và tác động của nó đối với thị trường việc làm
Prompt Engineering: Ngôn ngữ của AI và tác động của nó đối với thị trường việc làm
Prompt engineering, một lĩnh vực mới nổi được sinh ra từ cuộc cách mạng của trí tuệ nhân tạo (AI), sẽ định hình lại thị trường việc làm và tạo ra các cơ hội nghề nghiệp mới
Tóm tắt chương 229: Quyết chiến tại tử địa Shunjuku - Jujutsu Kaisen
Tóm tắt chương 229: Quyết chiến tại tử địa Shunjuku - Jujutsu Kaisen
Vì Sukuna đã bành trướng lãnh địa ngay lập tức, Angel suy luận rằng ngay cả Sukuna cũng có thể tái tạo thuật thức bằng phản chuyển
Shadow Of Death: Premium Games
Shadow Of Death: Premium Games
Trong tựa game này người chơi sẽ vào vai một người chiến binh quả cảm trên chuyến hành trình chiến đấu và cố gắng dẹp tan bè lũ hắc ám ra khỏi vương quốc
Seeker: lực lượng chiến đấu tinh nhuệ bậc nhất của phe Decepticon Transformers
Seeker: lực lượng chiến đấu tinh nhuệ bậc nhất của phe Decepticon Transformers
Seeker (Kẻ dò tìm) là thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm các người lính phản lực của Decepticon trong The Transformers