Đan Phượng
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Đan Phượng | |||
Tượng đài Phụ nữ Ba đảm đang tại trung tâm thị trấn Phùng | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | ||
Thành phố | Hà Nội | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Phùng | ||
Trụ sở UBND | 105 phố Tây Sơn, Thị trấn Phùng | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 15 xã | ||
Thành lập | 1832 | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Lê Thanh Nam | ||
Chủ tịch HĐND | Lê Văn Thìn | ||
Bí thư Huyện ủy | Trần Đức Hải | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 21°5′15″B 105°40′2″Đ / 21,0875°B 105,66722°Đ | |||
| |||
Diện tích | 78 km² | ||
Dân số (31/12/2020) | |||
Tổng cộng | 182.194 người | ||
Mật độ | 2.335 người/km² | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 273[1] | ||
Biển số xe | 29-X3 | ||
Website | danphuong | ||
Đan Phượng là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Đan Phượng (丹鳳) theo nghĩa gốc Hán có nghĩa là chim phượng đỏ.
Đan Phượng nằm ở phía tây bắc trung tâm thành phố Hà Nội, tại khoảng giữa của trục đường quốc lộ 32 từ trung tâm Hà Nội đi Sơn Tây, cách trung tâm thành phố khoảng 20km.
Huyện Đan Phượng có Quốc lộ 32 chạy qua khoảng 4 Km, nếu đi từ phía Hà Nội lên Sơn Tây đến Km 16+500 là ngã Tư Trôi (thuộc huyện Hoài Đức) rẽ phải khoảng 300m là đến huyện Đan Phượng theo tỉnh lộ 422. So với các quận, huyện của thủ đô Hà Nội, Đan Phượng có ít đơn vị hành chính và diện tích tự nhiên thuộc loại nhỏ, nhưng xét về mảng văn hóa giáo dục lại rất phong phú. Tất cả các trường Tiểu học trong huyện đã đạt chuẩn Quốc gia, có những xã đông dân cư khoảng 19.000 người như ở Tân Hội, 25.000 người như ở Tân Lập, hơn 10.000 người như ở thị trấn Phùng, Hồng Hà, Phương Đình,...)
Huyện Đan Phượng là huyện có hệ thống sông Hồng, sông Đáy chảy qua. Xưa kia là ngã ba sông (sông Hồng, sông Nhuệ, sông Đáy) nên địa hình của huyện tương đối bằng phẳng, chủ yếu là đất phù sa. Chiều cao trung bình từ 6-8m.
Dân số năm 2019 là 174.501 người. 5% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Huyện được đặt từ thời Trần, thuộc xứ Đoài, đến thời Minh chiếm đóng thì huyện tên là Đan Sơn thuộc châu Từ Liêm, phủ Giao Châu. Sang thời Hậu Lê huyện lệ về phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Năm 1831, vua Minh Mạng điều chỉnh địa giới hành chính và thành lập các tỉnh mới. Huyện đựợc tách ra thành huyện riêng vào năm 1832 vẫn thuộc phủ Quốc Oai. Năm 1904, Đan Phựợng được nhập về phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông.
Sau cách mạng tháng Tám (1945), cấp phủ bị bãi bỏ, nên từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 3 năm 1947 sáp nhập xã Cối Sơn (Tân Lập, Tân Hội) và Hạ Trì (Liên Hà, Liên Trung) thuộc huyện Từ Liêm thành huyện Đan Phượng thuộc tỉnh Hà Đông.
Từ tháng 3 năm 1947, 4 huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Trì, Thanh Oai và thị xã Hà Đông được cắt chuyển về thành phố Hà Nội theo quyết định của Khu II (Khi sự kiện 19 tháng 12 năm 1946 nổ ra, Mặt trận Hà Nội được sáp nhập vào Khu II. Từ ngày 1 tháng 11 năm 1948, Khu 2 đặt quyền trực thuộc của Liên khu 3, nhưng đến tháng 5 năm 1949 thì khu Hà Nội lại được tách ra để thành lập Mặt trận Hà Nội độc lập, trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh. Tình trạng này được duy trì cho đến sau năm 1954, khi đấy gọi là Khu Hà Nội).
Từ ngày 12 tháng 3 năm 1947 đến tháng 5 năm 1948, huyện Đan Phượng được gộp vào liên quận huyện IV - Hoài Đức và Đan Phượng (theo công văn số: 038/KCT, ngày 13 tháng 3 năm 1947), UBK- Khu XI của Bộ chỉ huy Chiến khu XI). Tháng 5 năm 1947, Trung ương quyết định tách ba tỉnh Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây ra khỏi Khu II, thành lập Khu XI.
Tháng 5 năm 1948 đến tháng 10 năm 1948, Khu XI được Trung ương quyết định giải thể Khu XI và thành lập tỉnh Lưỡng Hà (Hà Đông - Hà Nội) thuộc Liên khu III. Lúc này, liên quận huyện IV - Hoài Đức và Đan Phượng được tách ra thành huyện Liên Bắc. Đan Phượng thuộc huyện Liên Bắc - tỉnh Lưỡng Hà.
Từ tháng 10 năm 1948 đến tháng 3 năm 1954:
Tháng 4 năm 1954, huyện Đan Phượng được tái lập và thuộc tỉnh Sơn Tây quản lý theo quyết định của Liên khu uỷ III.
Tháng 8 năm 1954, huyện Đan Phượng được Liên khu uỷ III cắt chuyển trả lại cho tỉnh Hà Đông.
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, 5 xã thuộc huyện Đan Phượng là Tân Dân (Thượng Cát), Tân Tiến (Liên Mạc), Trần Phú (Phú Diễn), Trung Kiên (Tây Tựu) và Minh Khai được cắt chuyển về huyện Từ Liêm (Hà Nội) theo quyết định của Quốc hội tại kì họp thứ 2 (Khóa II) (nay là địa bàn các phường Thượng Cát, Liên Mạc, Phú Diễn, Phúc Diễn, Tây Tựu, Minh Khai thuộc quận Bắc Từ Liêm).[2]
Ngày 21 tháng 4 năm 1965, huyện Đan Phượng thuộc quyền quản lý của tỉnh mới Hà Tây.[3]
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, huyện Đan Phượng là một trong 24 đơn vị hành chính của tỉnh Hà Sơn Bình,[4] gồm thị trấn Phùng và 15 xã: Đan Phượng, Đồng Tháp, Hạ Mỗ, Hồng Hà, Liên Hà, Liên Hồng, Liên Trung, Phương Đình, Song Phượng, Tân Hội, Tân Lập, Thọ An, Thọ Xuân, Thượng Mỗ, Trung Châu.
Từ ngày 29 tháng 12 năm 1978 đến ngày 12 tháng 8 năm 1991, huyện Đan Phượng được cắt chuyển về thành phố Hà Nội theo quyết định của Quốc hội tại kì họp thứ 4 (khoá VI) vào cuối tháng 12 năm 1978.[5]
Từ ngày 12 tháng 8 năm 1991 đến ngày 29 tháng 5 năm 2008, huyện Đan Phượng là một trong 14 đơn vị hành chính của tỉnh Hà Tây theo quyết định của Quốc hội tại kì họp thứ 9 (khoá VIII) vào ngày 12 tháng 8 năm 1991.[6]
Ngày 8 tháng 4 năm 2002, mở rộng thị trấn Phùng trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích, dân số của hai xã Đan Phượng và Song Phượng.[7]
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, giải thể tỉnh Hà Tây cũ, huyện Đan Phượng thuộc thành phố Hà Nội theo Nghị quyết 15-NQ/QH ngày 29 tháng 5 năm 2008.[8]
Huyện Đan Phượng có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Phùng (huyện lỵ) và 15 xã: Đan Phượng, Đồng Tháp, Hạ Mỗ, Hồng Hà, Liên Hà, Liên Hồng, Liên Trung, Phương Đình, Song Phượng, Tân Hội, Tân Lập, Thọ An, Thọ Xuân, Thượng Mỗ, Trung Châu.
Các đơn vị hành chính cơ sở cấp xã, thôn, cụm dân cư
1. Thị trấn Phùng 6 phố, thôn: Phan Đình Phùng, Phùng Hưng, Phượng Trì, Nguyễn Thái Học, Tây Sơn, Thụy Ứng
2. Đan Phượng (Phùng) 3 thôn: Đại Phùng, Đoài Khê, Đông Khê
3. Đồng Tháp (Liên Hợp) 5 thôn: Bãi Tháp, Bãi Thuỵ, Đại Thần, Đồng Lạc, Thọ Vực
4. Hạ Mỗ (Hồng Thái) 2 thôn: Hạ Mỗ,Trúng Đích
5. Hồng Hà 4 thôn: Bá Dương Nội, Bá Dương Thị (Bá), Bồng Lai, Tiên Tân (Bến Tiên)
6. Liên Hà 3 thôn: Đoài, Quý, Thượng
7. Liên Hồng 4 thôn: Đông Lai, Hữu Cước, Thượng Trì, Tổ
8. Liên Trung 2 thôn: Hạ Trì, Trung
9. Phương Đình (Liên Minh) 8 thôn: Cổ Ngoã, Địch Trong, Địch Trung, Địch Đình, Địch Thượng, Ích Vịnh, La Thạch, Phương Mạc
10. Song Phượng 4 thôn, xóm: Tháp Thượng, Thu Quế, Thuận Thượng, Thống Nhất
11. Tân Hội 4 thôn: Thượng Hội, Thuý Hội, Phan Long (Sơn), Vĩnh Kỳ
12. Tân Lập 4 thôn: Đan Hội, Hạ Hội, Hạnh Đàn, Ngọc Kiệu (Tên chung: Kẻ Gối hay Tổng Gối) và 4 tổ dân phố Tân Tây Đô.
13. Thọ An 3 thôn: An Thanh (Tây Sơn), Thanh Điềm (Bắc Hà), Thọ Lão (Đông Hải)
14. Thọ Xuân 4 thôn: Tiến Bộ, Thống Nhất, Chiến Thắng, Hoà Bình
15. Thượng Mỗ (Hồng Phong) 3 thôn: Thượng Mỗ, Thượng Bãi, Phùng Hưng
16. Trung Châu 8 thôn: Chu Phan, Hưu Trưng, Nại Yên (Nại Xá, Yên Châu), Phương Lang (Phương Nội), Phương Ngoại, Trung Hà làng, Vạn Vĩ, Vân Môn.
Huyện là cái nôi của các loại hình nghệ thuật dân gian trong đó có Hát ca trù ở xã Thượng Mỗ, Vật truyền thống ở xã Hồng Hà, Thổi cơm thi truyền thống Đồng Vân, hát Chèo tàu ở hội Gối (Tân Hội), hát chèo bè trên sông của dân chài Vạn Vĩ, hội thả diều ở Bá Giang, bơi trải ở Đồng Tháp, rước cây bông ở Trung Hà…
Huyện có 15 tiến sĩ có tên trong văn bia tại Văn miếu Quốc tử giám và nhiều danh nhân tiêu biểu như:
Các cá nhân được truy tặng, phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân:
1. Anh hùng, liệt sĩ thời kỳ chống Pháp: Phan Xích (tức Nguyễn Thạc Rương): nguyên chỉ huy trưởng huyện đội Liên Bắc, giặc Pháp tôn là hùm xám Liên Bắc.
2. Anh hùng, liệt sĩ thời kỳ chống Pháp: Lê Thao (Xã Hạ Mỗ).
3. Anh hùng, liệt sĩ thời kỳ chống Pháp: Hoàng Thị Lê (Thôn Thượng Trì, Xã Liên Hồng).
4. Anh hùng Hoàng Hữu Chuyên (chống Trung Quốc năm 1979)
Hiện nay, trên địa bàn huyện đã hình thành khu đô thị Tân Tây Đô (thuộc xã Tân Lập), khu nhà ở Tân Lập cũng như khu đô thị Vinhome Wonder Park (đang xây dựng ở xã Tân Hội và Liên Trung). Ngoài ra còn có khu đô thị sinh thái The Phoenix (thuộc xã Đan Phượng) và các siêu thị.
Các dự án hạ tầng giao thông đã được quyết định đầu tư như: đường Vành đai 4, đường Tây Thăng Long
Các dự án đường sắt đô thị đi qua địa bàn huyện (dự kiến) là các tuyến số 3 (Trôi - Nhổn - Yên Sở), tuyến số 4 (Liên Hà - Bắc Thăng Long).
Tuyến tàu điện một ray (monorail) Liên Hà - Tân Lập - An Khánh (huyện Đan Phượng và Hoài Đức)
Tuyến xe buýt | Lộ trình trong khu vực huyện Đan Phượng |
---|---|
20A(Cầu Giấy - Bến xe Sơn Tây) | ... - Vạn Xuân - Phùng -... |
20B(Nhổn - Bến xe Sơn Tây) | ... - Hồng Thái - Tiên Tân - Trung Châu -... |
29(Bến xe Giáp Bát - Tân Lập) | ... - Vạn Xuân - Tân Lập - Tân Lập (Cầu Xây Tân Lập) |
66(Bến xe Yên Nghĩa - Bến xe Đan Phượng) | ... - Lý Phục Man - Quốc lộ 32 - Phan Đình Phùng (Phùng) - Tây Sơn (Phùng) - Bến xe Đan Phượng (Phùng) |
67(Bến xe Đan Phượng - Kim Sơn (Sơn Tây)) | Bến xe Đan Phượng (Phùng) - Tây Sơn (Phùng) - Phan Đình Phùng (Phùng) - Quốc lộ 32 -... |
92(Nhổn - Phú Sơn (Ba Vì)) | ... - Vạn Xuân - Phùng -... |
117(Nhổn - Hòa Lạc) | ... - Vạn Xuân - Cầu Phùng -... |
162(Nhổn - Thọ An) | ... - Tân Hội - Ô Diên - Quốc lộ 32 - Nguyễn Thái Học (Đan Phượng) - Đường 417 - Đê Hữu Hồng - Đường vào bến phà Thọ An - Thọ An (Bến phà Thọ An, xã Thọ An, huyện Đan Phượng) |
Là một huyện gần trung tâm Hà Nội dân cư đông đúc rất thuận lợi cho việc tiêu thụ các sản phẩm từ nông nghiệp cũng như hình thành các làng nghề, nhóm nghề như mộc nội thất, chế biến thực phẩm, tiêu thụ nông sản, trồng hoa... Khu vực đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung nhiều làng nghề. Các làng nghề truyền thống thường tập trung ở các tỉnh thành như Hà Nội, Nam Định, Hà Tây cũ, Thái Bình. Còn các làng nghề và làng có nghề lại thường tập trung ở Hà Nội, Hà Tây cũ, bắc Hưng Yên, nam Vĩnh Phúc, Nam Định. Nghề phụ thường thì tập trung ở khu vực ven đô thị lớn, nơi mật độ dân cư cao hay các đầu mối giao thông thuận lợi. Đan Phượng là huyện nhỏ nhưng hội tụ đầy đủ các yếu tố trên nên cũng có khá nhiều làng nghề truyền thống, làng nghề, làng có nghề và nghề phụ như: