Đông Anh
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Đông Anh | |||
Đình Ngự Triều Di Quy bên trong khu di tích Cổ Loa | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | ||
Thành phố | Hà Nội | ||
Huyện lỵ | thị trấn Đông Anh | ||
Trụ sở UBND | Đường Cao Lỗ, khu phố 1, thị trấn Đông Anh | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 23 xã | ||
Thành lập | 10/1876 | ||
Đại biểu Quốc hội | |||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Nguyễn Xuân Linh | ||
Bí thư Huyện ủy | Lê Trung Kiên | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 21°07′59″B 105°50′07″Đ / 21,132987°B 105,835155°Đ | |||
| |||
Diện tích | 185,68 km² | ||
Dân số (31/12/2022) | |||
Tổng cộng | 437.308 người | ||
Mật độ | 2.355 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 017[1] | ||
Biển số xe | 29-S1-S2 | ||
Số điện thoại | 0243.8.832.210 | ||
Số fax | 0243.8.832.627 | ||
Website | donganh | ||
Đông Anh là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Huyện Đông Anh nằm ở phía bắc của thủ đô Hà Nội, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 18 km, có vị trí địa lý:
Huyện Đông Anh có diện tích 185,68 km², dân số tính đến 31/12/2022 là 437.308 người,[2] mật độ dân số đạt 2.355 người/km².
Trên địa bàn huyện còn có Đầm Vân Trì là đầm nước tự nhiên lớn nhất nằm trên địa bàn các xã' Kim Chung, Kim Nỗ, Vân Nội. Ngoài ra còn có các đầm nước khác như đầm Nguyên Khê, đầm Hải Bối,... cùng nhiều hồ nước trên địa bàn huyện.
Sông Thiếp nối đầm Vân Trì qua sông Hoàng Giang chảy quanh khu di tích Cổ Loa. Sông Ngũ Huyện Khê nối từ Sông Đuống chảy về Từ Sơn qua Yên Phong, Tiên Du thông ra sông Cầu tại thành phố Bắc Ninh. Ngoài ra còn có sông đào Đông Anh cùng hệ thống kênh mương thủy lợi.
Địa hình huyện tương đối bằng phẳng với hệ thống đê sông Hồng, sông Đuống cùng đoạn đê sông Cà Lồ từ quốc lộ 3 về hướng Yên Phong, Bắc Ninh. Bên cạnh đó là các dải tường thành khu di tích Cổ Loa và một số gò đống còn sót lại, cùng với Núi Sái nơi có đền Sái ở Thụy Lâm là cao hơn hẳn.
Huyện Đông Anh có 24 hành chính cấp xã, bao gồm có: Thị trấn Đông Anh (huyện lỵ) và 23 xã: Bắc Hồng, Cổ Loa, Đại Mạch, Đông Hội, Dục Tú, Hải Bối, Kim Chung, Kim Nỗ, Liên Hà, Mai Lâm, Nam Hồng, Nguyên Khê, Tàm Xá, Thụy Lâm, Tiên Dương, Uy Nỗ, Vân Hà, Vân Nội, Việt Hùng, Vĩnh Ngọc, Võng La, Xuân Canh, Xuân Nộn.
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc huyện Đông Anh | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nguồn: Ủy ban Nhân dân huyện Đông Anh (2023).[2]
|
Huyện Đông Anh trước kia là một phần huyện Kim Hoa (gồm Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn của Hà Nội, thị xã Phúc Yên của Vĩnh Phúc), thuộc phủ Bắc Hà; huyện Đông Ngàn, Yên Phong phủ Từ Sơn thuộc trấn Kinh Bắc và huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái thuộc trấn Sơn Tây (xứ Đoài). Từ năm 1831 đến năm 1901, đất huyện Kim Hoa (Kim Anh) thuộc tỉnh Bắc Ninh. Năm 1876-1903, huyện Kim Anh sáp nhập với huyện Đông Ngàn thuộc phủ Từ Sơn thành huyện Đông Khê, thuộc phủ Từ Sơn của tỉnh Bắc Ninh, rồi được nhập phần lớn vào tỉnh Phù Lỗ (được thành lập ngày 6 tháng 10 năm 1901).
Ngày 10 tháng 4 năm 1903, huyện Đông Khê lại được chia tách thành 2 huyện là Kim Anh và Đông Khê đổi tên thành huyện Đông Anh.
Đến năm 1904, tỉnh Phù Lỗ đổi tên thành tỉnh Phúc Yên thì huyện Đông Anh thuộc tỉnh Phúc Yên. Thời kỳ 1913-1923 thuộc tỉnh Vĩnh Yên. Thời kỳ 1923-1950 thuộc tỉnh Phúc Yên. Thời kỳ 1950-1961 thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, toàn bộ huyện Đông Anh (gồm 16 xã: Bắc Hồng, Phúc Thịnh, Tự Do, Tiến Bộ, Nam Hồng, Thành Công, Hùng Sơn, Toàn Thắng, Việt Hùng, Dân Chủ, Việt Thắng, Anh Dũng, Tân Tiến, Vạn Thắng, Liên Hiệp, Quyết Tâm) của tỉnh Vĩnh Phúc sáp nhập vào Hà Nội[3].
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, thành lập huyện Đông Anh mới trên cơ sở tiếp nhận thêm 5 xã: Liên Hà, Vân Hà, Dục Tú, Đông Hội, Mai Lâm thuộc huyện Từ Sơn ((nay là thành phố Từ Sơn) Bắc Ninh); xã Kim Chung thuộc huyện Yên Lãng (nay là huyện Mê Linh) và xã Tàm Xá thuộc quận V cũ[4].
Lúc này, huyện Đông Anh có 23 xã: Anh Dũng (Hải Bối), Bắc Hồng, Dân Chủ (Đại Mạch), Đông Hội, Dục Tú, Hùng Sơn (Uy Nỗ), Kim Chung, Liên Hà, Liên Hiệp (Vân Nội), Mai Lâm, Nam Hồng, Phúc Thịnh (Nguyên Khê), Quyết Tâm (Cổ Loa), Tàm Xá, Tân Tiến (Vĩnh Ngọc), Thành Công (Kim Nỗ), Tiến Bộ (Thụy Lâm), Toàn Thắng (Tiên Dương), Tự Do (Xuân Nộn), Vạn Thắng (Xuân Canh), Vân Hà, Việt Hùng, Việt Thắng (Võng La).
Ngày 11 tháng 3 năm 1974, sáp nhập thôn Đại Bi của xã Cổ Loa vào xã Uy Nỗ.[5]
Ngày 13 tháng 10 năm 1982, thành lập thị trấn Đông Anh trên cơ sở 797,2 ha diện tích tự nhiên của 4 xã Tiên Dương, Uy Nỗ, Nguyên Khê, Xuân Nộn.[6]
Huyện Đông Anh có 1 thị trấn và 23 xã như hiện nay.
Đông Anh là một huyện rất rộng ở cửa ngõ phía Bắc của thủ đô. Phần lớn các làng nghề trong huyện chủ yếu thuộc nhóm mộc mỹ nghệ ở các xã phía Đông:
Các trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện:
Và các trường trung học cơ sở, tiểu học và mầm non ở các xã trong huyện. Ngoài ra, còn có một số cơ sở giáo dục khác trên địa bàn huyện như:
Các cơ sở y tế trên địa bàn huyện:
Một số địa điểm du lịch trên địa bàn huyện:
Ở Đông Anh hiện nay có các lễ hội sau:
Các tuyến xe buýt đi qua địa bàn huyện gồm có các tuyến: 07, 15, 17, 25, 35B, 43, 46, 53A, 53B, 56A, 58, 59, 60B, 61, 63, 64, 65, 68, 86, 90, 93, 95, 96, 109, 112, 122, 143, 159, 160, E10
Các tuyến đường lớn đi qua địa bàn huyện:
Đông Anh là huyện có tổng số người thi đỗ tiến sĩ nhiều thứ hai trong tổng số 30 quận, huyện, thị xã của Hà Nội, với tổng số 56 người đỗ đại khoa trong đó có 3 Thám hoa, 13 Hoàng giáp, 39 Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân và 1 Phó bảng (Đứng đầu danh sách này là Quận Thường Tín với 64 người). Đông Anh cũng là một trong 8 quận, huyện, huyện có trên 35 người đỗ tiến sĩ. Theo thống kê này, số người đỗ đại khoa ở Đông Anh chiếm 8,41% số người đỗ đại khoa của cả Thăng Long – Hà Nội, đứng sau Quận Từ Liêm với 9,61%.
- An Dương Vương - tên thật là Thục Phán (chữ Hán: 蜀泮), là vị vua lập nên nước Âu Lạc và cũng là vị vua duy nhất cai trị nhà nước này. Âu Lạc là nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau nhà nước Văn Lang đầu tiên của các vua Hùng. Niên đại trị vì của An Dương Vương được các tài liệu ghi khác nhau. Sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng thời gian ông làm vua kéo dài 50 năm, từ 257 TCN đến 208 TCN.
- Tây Vu Vương- thủ lĩnh chống quân nhà Hán xâm lược ở thành Cổ Loa.
- Lã Xử Bình (? - 966) là tướng nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Khi Ngô Xương Văn mất, Lã Xử Bình đã cùng Kiều Tri Hựu, Dương Huy và Đỗ Cảnh Thạc nổi loạn tranh giành ngôi Vua, trực tiếp đưa đất nước rơi vào thời loạn 12 sứ quân.[1] Ông là thủ lĩnh của một trong những phe tiếm quyền triều đình Cổ Loa và bị lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp năm 966, mở đầu quá trình thống nhất đất nước để lập lên nhà Đinh trong lịch sử Việt Nam.
- Hoàng Giáp Tiến sĩ Lê Tuấn Mậu - Thuỵ lôi, Thuỵ Lâm. Ông làm quan ngót bốn chục năm, từng được trao chức Đô Ngự Sử, về sau được thăng dần đến chức Lễ Bộ Thượng thư. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, vì quyết không chịu khuất phục, ông bị Mạc Đăng Dung giết. Các triều đình phong kiến Việt Nam phong nhiều sắc phong ghi nhận công đức của ông, qua quá trình lịch sử đã bị thất lạc nay chỉ còn lại 10 chiếc được lưu giữ tại Gia tộc họ Lê Tuấn ở Thụy Lôi - Thụy Lâm - Đông Anh - Hà Nội.
- Thám Hoa Nguyễn Đăng Vinh tự Phúc Khiêm (1659-1732) là vị quan Tổng nội giám trong triều Hậu Lê. Ông là ông tổ của Nghệ thuật múa rối nước Đào Xá, Phủ Từ Sơn, chốn Kinh Bắc (nay là Làng Đào Thục, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội).
- Đỗ Túc Khang (1470-1523) Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức năm thứ 27 (1496), người thôn Giao Tác, xã Hà Vỹ, huyện Đông Ngàn xứ Kinh Bắc xưa (nay thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội).
- Nguyễn Thực (1554-1637), là danh thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Nguyễn Thực người làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, nay là xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội.
- Nguyễn Nghi con trai Nguyễn Thực, từng giữ đến chức Tể tướng triều Lê trung hưng.
- Quách Đồng Dần- (1566-1650) là nhà khoa bảng sống vào thời Lê-Trịnh. Quê ông là Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Ông sống trong khoảng cuối thế kỷ XVI-đầu thế kỷ XVII.
- Chu Doãn Mại (sinh 1740) Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 39 (1778), người thôn Hậu, xã Dục Tú, huyện Đông Ngàn (nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông làm quan Hàn lâm viện Đãi chế, Quốc tử giám Tuỳ giảng, Đông các Hiệu thư. Nhà Lê mất, ông không làm quan với Tây Sơn. Có tài liệu ghi ông là Chu Doãn Lệ.
- Chu Doãn Trí (1779 - 1850),tự Viễn Phu, hiệu Tạ Hiên. Con Tiến sĩ Chu Doãn Mại, quê thôn Hậu, xã Dục Tú, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội.). Khi còn trẻ ông theo học Phạm Quý Thích, được Phạm Quý Thích coi như con. Khi thầy mất ông đã làm nhà cỏ bên mộ thầy, để tang thầy suốt ba năm theo lệ. Ông là người có công lớn trong việc gìn giữ, sưu tập các tác phẩm của thầy Phạm. Ông có tài đức, có tiết tháo, không vọng cầu danh lợi, lại rất giỏi y học. Ông đã để lại nhiều bài thơ văn hay. Năm Canh Tý (1840), Nguyễn Đăng Giai tiến cử ông về hàng ẩn sĩ; Nhà vua khiến cấp lộ phí cho ông vào kinh, để bổ sung quan chức. Ông viện lấy bệnh già xin từ tạ. Vua Thiệu Trị khen ông có phong thái xử sĩ, không muốn ép uổng, bèn ban cho rượu hồng hoa dương tử.. Ông trở thành một nhân vật rất có uy tín và đức độ trong khu vực, đến mức từ các đường quan cho đến bọn phỉ tặc đều vị nể.
- Nguyễn Án (1770 - 1815), tự Kính Phủ, hiệu Ngu Hồ; là một danh sĩ thời Lê mạt-Nguyễn sơ, Việt Nam. Ông và Phạm Đình Hổ là đồng tác giả tập ký Tang thương ngẫu lục. Nguyễn Án là người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc; nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội.
- Nguyễn Huy Tân (1820 - 1862), tự Đỉnh Khanh, người Dục Tú, huyện Đông Ngàn (nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội). Đỗ Tú tài năm 1843, đỗ Cử nhân năm 1847, làm quan đến chức Ngự sử. Hy sinh trong khi đánh dẹp các toán cướp ở Bắc Ninh năm 1862. Triều đình truy tặng chức Hàn lâm viện, ban tên thụy là Đoan Trực, con trưởng được hưởng tập ấm Cửu phẩm Văn giai.
- Nhà văn Ngô Tất Tố (1893 - 1954) ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội)
- Nguyễn Tư Giản (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: Văn Phú, Địch Giản, sau mới đổi lại là Tư Giản, tự: Tuân Thúc(洵叔), Hy Bật, hiệu: Vân Lộc(雲麓) và Thạch Nông(石農). Ông là một danh sĩ và là một vị quan từng trải qua những chức vụ trọng yếu suốt gần 40 năm, phục vụ 7 đời vua nhà Nguyễn ở Việt Nam.Nguyễn Tư Giản sinh tại làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là thôn Du Lâm, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội).
- Nguyễn Triệu Luật-(1903-1946), bút hiệu: Dật Lang, Phất Văn Nữ Sĩ; là nhà giáo, nhà văn, nhà báo và là thành viên sáng lậpViệt Nam Quốc dân Đảng vào năm 1927 tại Việt Nam.Ông là người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội).
- Xích Điểu là một bút danh của Nguyễn Văn Tước (1910-2003), một nhà văn, nhà thơ trào phúng Việt Nam. Ông thường viết với các bút danh Xích Điểu, Minh Tước, Thương Biền, Trần Minh Tước. Ông quê ở xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
- Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) là một nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của những tiểu thuyết lịch sử, vở kịch lớn như: Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, Bắc Sơn, Sống mãi với thủ đô. Ông sinh ra trong một gia đình nho giáo ở làng Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh, nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Tp. Hà Nội. Nguyễn Huy Tưởng là đại biểu Quốc hội khóa 1 năm 1946. Ông là người sáng lập và là giám đốc đầu tiên của Nhà xuất bản Kim Đồng. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.
- Nghiêm Thẩm- (1920-1982) là một giáo sư, nhà nghiên cứu khảo cổ nổi tiếng người Việt Nam. Ông sinh ngày 13 tháng 5 năm 1920, tại huyện Đông Anh, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc Hà Nội). Ông là con thứ năm của cụ Nghiêm Hoàn Luyến, người làng Hòa Xá, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội.
- Đào Huy Vũ - (1924-1986) là tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên là (quyền) Tư lệnh đầu tiên Binh chủng tăng thiết giáp, Trung đoàn trưởng (đầu tiên) Trung đoàn xe tăng (đầu tiên) 202, Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp, Trưởng Khoa thiết giáp Học viện Quân sự cấp cao. ông lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo tại xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, là cán bộ tiền khởi nghĩa.
- Đào Duy Tùng- (1924-1998). Quê quán tại Xóm Chợ, Cổ Loa, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, nay là huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Ông là một Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều khóa liên tục. Ông được xem là nhà lý luận hàng đầu và đã để lại rất nhiều cuốn sách thuộc loại này. Thời gian công tác dài nhất của ông là ở cơ quan Trung ương và hơn 30 năm làm công tác tư tưởng lý luận của Đảng, suốt từ tháng 5-1955 đến năm 1998. Trong ngành tuyên huấn, ông đã lần lượt giữ các cương vị Phó Vụ trưởng, Vụ trưởng Vụ Huấn học, Phó Trưởng ban kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, Viện trưởng Viện Mác Lê-nin và Trưởng ban Ban Tuyên huấn Trung ương. Ông đã liên tục được bầu 4 khóa vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, từ Đại hội IV (1976: Dự khuyết; tháng 11/1981: Chính thức), Đại hội V, Đại hội VI và Đại hội VII, trong đó, 2 khóa được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng.
- Đỗ Quốc Sam - (1929-2010) là một Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, nguyên Đại biểu Quốc hội Việt Nam, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, khi Bộ này được đổi tên sang từ Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (cơ quan ngang Bộ, tiền thân). Quê ở Thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
- Lê Đức Tụ - (sinh 1944) tại xã Tàm Xá, huyện Đông Anh, TP Hà Nội là một Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam. nguyên Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Ông cũng là một đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Lai Châu.
- Lê Hữu Tựu - (1944 - 1972), quê xã Nguyên Khê, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Ông là xạ thủ súng máy phòng không 12,7 mm, chiến đấu trên 50 trận, bắn rơi 31 máy bay trực thăng Mỹ (lập kỷ lục bắn rơi nhiều máy bay ở chiến trường Tây Nguyên), diệt 64 địch (phần lớn là kíp lái).Do những công lao đóng góp với sự nghiệp cách mạng đồng chí đã được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công (hạng nhất, hạng nhì, hạng ba). Được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày 15/2/1970.
- Nguyễn Huy Đức- Ông sinh năm 1956 tại thôn Tằng My, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông công tác trong lực lượng CAND, học vị tiến sĩ luật, quân hàm trung Tướng, Nguyên Phó Tổng Cục trưởng Tổng Cục Cảnh sát, Bộ Công an.
- Nguyễn Phú Trọng (1944 - 2024) Ông sinh tại thôn Lại Đà, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông là Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2011 - 2024), Nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiêm Tổng Bí thư (2018 - 2021), Nguyên Chủ tịch Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006 - 2011)
- Trịnh Xuân Thuận là nhà khoa học người Mỹ gốc Việt trong lĩnh vực vật lý thiên văn, ông đồng thời là một nhà văn đã viết nhiều cuốn sách có giá trị cao về vũ trụ học. Sinh ra tại thôn Thái Bình, xã Danh Lâm, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay đổi là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội)
- Ngô Văn Quý: Ông sinh năm 1963 tại xã Việt Hùng, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông từng giữ chức vụ Thành ủy viên, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội
- Nguyễn Hữu Nghĩa: Ông sinh ngày 13/3/1972 tại xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Bí thư Đảng ủy Đảng bộ cơ quan Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương
- Nguyễn Đăng Bình: Ông sinh ngày 8/5/1978 tại xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông hiện giữ chức vụ Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nguyễn Trọng Đông: Ông sinh ngày 3/9/1969 tại huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông hiện giữ chức vụ Uỷ viên Ban thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội
- Chử Xuân Dũng: Ông sinh ngày 5/11/1973 tại huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông từng giữ chức vụ Thành ủy viên, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội
- Nguyễn Quang Hải - sinh năm 1997, là cầu thủ tiền vệ Đội tuyển bóng đá Quốc gia Việt Nam. Anh là Cầu thủ xuất sắc nhất Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2018, Quả bóng vàng Việt Nam 2018, Huy chương bạc giải đấu bóng đá U23 Châu Á. Người sở hữu siêu phẩm Cầu vồng tuyết trên sân vận động Thường Châu, Trung Quốc. Nguyễn Quang Hải là người thôn Đường Nhạn, xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh, Hà Nội.
- Đỗ Duy Mạnh - (sinh ngày 29/9/1996) tại thôn Giao Tác, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội. Anh là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam trưởng thành từ lò đào tạo Hà Nội FC, anh cũng đang chơi ở vị trí trung vệ cho Hà Nội FC tại V-League 1.
6. http://haibatrung.hanoi.gov.vn/documents/815068/1489117/TB+865_TB-UBND_31-12-2021.pdf/d66e42e9-ce23-4cfe-b1fa-f6f77d38b393