Airbus A300 | |
---|---|
Kiểu | Máy bay dân dụng cỡ lớn |
Hãng sản xuất | Airbus |
Chuyến bay đầu tiên | 28 tháng 10-1972 |
Được giới thiệu | 30 tháng 5-1974 (Air France) |
Tình trạng | Đang hoạt động,Chủ Yếu Là Chở Hàng |
Khách hàng chính | FedEx Express UPS Airlines Mahan Air European Air Transport Leipzig DHL Express |
Được chế tạo | 1974-2007 |
Số lượng sản xuất | 561 |
Chi phí dự án | ??? |
Chi phí máy bay | ??? |
Phiên bản khác | A300-600ST Beluga Airbus A310 |
Được phát triển từ | Không có |
Airbus A300 là một mẫu máy bay thân rộng có tầm bay ngắn và trung bình. Được xuất xưởng năm 1972, đây là máy bay thân rộng, một tầng, 2 động cơ đầu tiên trên thế giới, được chế tạo tại các công ty hàng không vũ trụ châu Âu, vốn là các cổ đông chính thành lập nên hãng Airbus. Hiện nay Airbus thuộc quyền sở hữu của EADS.
A300 ngừng sản xuất vào tháng 7-2007, cùng với loại A310 nhỏ hơn. Các đơn đặt hàng A300 hiện tại sẽ được Airbus chuyển sang cung cấp A330-200F mới hơn.[1]
Những nhiệm vụ yêu cầu được đặt ra vào năm 1966 bởi Frank Kolk, một thành viên ban quản trị của American Airlines, nhằm chế tạo một máy bay mới thay thế cho Boeing 727 trên các tuyến đường bay bận rộn tầm trung và gần, như các chuyến bay xuyên lục địa Mỹ. Bản tóm tắt về máy bay mới bao gồm khả năng chở từ 250 đến 300 hành khách trong khoang dạng hai lối đi giữa các hàng ghế và trang bị 2 động cơ, với khả năng chở khách đầy mà không gặp phải những bất lợi từ các sân bay trên độ cao lớn so với mặt nước biển như Denver. Những hãng chế tạo Hoa Kỳ đã đáp trả với mẫu máy bay thân rộng 3 động cơ có tên gọi McDonnell Douglas DC-10 và Lockheed L-1011 Tristar, trong khi các máy bay phản lực 2 động cơ bị cấm trên nhiều tuyến bay bởi FAA.
Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đã bực bội trước sự thống trị của Mỹ trong hàng không dân dụng và muốn các máy bay dân dụng của Châu Âu có thể cạnh tranh được với các thiết kế của Mỹ. Máy bay Concorde là một phần của câu trả lời, nó được thiết kế cho các tuyến đường bay liên lục địa; trong khi A300 được thiết kế để đáp ứng nhu cầu máy bay dành cho vận chuyển nội địa của Frank Kolk.
Vào tháng 9-1967, chính phủ Vương quốc Anh, Pháp, Đức đã ký một Bản ghi nhớ thỏa thuận (MoU), nhằm bắt đầu phát triển Airbus A300 với 300 ghế. Một thông cáo trước đó đã được viết vào tháng 7-1967, nhưng vào thời gian đó thông cáo đã bị chính phủ Anh che giấu nhằm hỗ trợ cho Airbus, điều này trùng với việc từ họ chối mẫu máy bay đề xuất cạnh tranh của British Aircraft Corporation (BAC), một phát triển của BAC 1-11 — dù một ưu tiên đã được British European Airways (BEA) bày tỏ.
Vài tháng sau thỏa thuận, cả chính phủ Pháp và Anh đều biểu lộ sự nghi ngờ về loại máy bay này. Vấn đề khác là yêu cầu về một loại động cơ mới sẽ được phát triển bởi hãng Rolls-Royce, có tên gọi là RB207. Trong tháng 10-1968, các công ty đối tác của Pháp và Anh (Sud Aviation và Hawker Siddeley) đề xuất sửa lại hình dạng của Airbus A250 250 chỗ. A250 được đổi tên thành A300B, máy bay này không cần đến những động cơ mới, giảm bớt các chi phí phát triển. Để thu hút các khách hàng tiềm tàng từ Mỹ, động cơ General Electric CF6-50 của Mỹ đã được trang bị cho A300 thay vì động cơ RB207 của Anh. Chính phủ Anh cảm thấy khó chịu và rút khỏi dự án; tuy nhiên, hãng Hawker-Siddeley của Anh vẫn tiếp tục dự án với vai trò như một nhà thầu, phát triển cánh cho A300, việc phát triển này là nòng cốt trong phiên bản sau của A300, phiên bản sau có hiệu suất vượt trội, A300 chuyển từ các chuyến bay tầm gần nội địa sang các chuyến bay liên lục địa đường dài. (Sau này, Anh cũng quay trở lại dự án, với hãng British Aerospace là công ty đại diện của Anh)
Airbus Industrie được chính thức thành lập vào năm 1970 sau một thỏa thuận giữa Aérospatiale (Pháp), Deutsche Aerospace (Đức). Năm 1971 đến lượt hãng CASA của Tây Ban Nha cũng tham gia. Mỗi công ty sẽ chuyển các bộ phận do mình chế tạo đến một nhà máy lắp ráp cuối cùng để máy bay sẵn sàng thực hiện chuyến bay của mình.
Vào năm 1972, A300 đã thực hiện chuyến bay đầu tiên. Mẫu sản xuất đầu tiên có tên gọi là A300B2, bắt đầu hoạt động vào năm 1974. Đây là một thành công bước đầu của một tập đoàn mới thành lập, còn nhỏ, đến năm 1979 đã có 81 chiếc A300 hoạt động. Việc xuất xưởng A320 vào năm 1981 đã đánh dấu việc Airbus trở thành hãng sản xuất máy bay chính trong thị trường máy bay dân dụng cỡ lớn trên thế giới — A320 đã nhận được các đơn đặt hàng cho hơn 400 chiếc trước khi nó thực hiện chuyên bay đầu tiên, con số này lớn hơn rất nhiều so với 15 chiếc của A300 vào năm 1972.
A300 là máy bay dân dụng đầu tiên sử dụng kỹ thuật sản xuất just-in-time. Những bộ phận máy bay hoàn thiện sẽ được chế tạo bởi các hãng trong tập đoàn trên toàn Châu Âu, sau đó các bộ phận này sẽ được vận chuyển bằng đường hàng không đên dây chuyền lắp ráp cuối cùng tại Toulouse Blagnac bởi một phi đội Aero Spacelines Super Guppy (một mẫu máy bay phát triển từ Boeing 377). Cách ban đầu được thực hiện để chia sẻ công việc giữa các thành viên của Airbus mà không phải trả chi phí cho hai dây chuyền lắp ráp, nó đã trở thành một cách chế tạo những máy bay (chi phí giảm và linh hoạt) ngược với việc chế tạo toàn bộ một máy bay tại một địa điểm hiệu quả hơn. Thực tế điều này không bị bỏ qua ở Boeing, hơn 30 năm sau đó, Boeing đã quyết định sản xuất Boeing 787 theo cách này, sử dụng những chiếc B747 ngoại cỡ để vận chuyển cánh và các bộ phận khác về Mỹ lắp ráp từ nơi sản xuất ở Nhật Bản.
A300 đã rất gắn bó trong các tập đoàn hàng không Châu Âu. Chuyến bay đầu tiên của nó đã được kỷ niệm trên một mẫu tem 3 franc của Pháp.
Các đối tác của Airbus đã sử dụng những công nghệ mới, một số bắt nguồn từ loại Concorde. Khi đưa vào hoạt động năm 1974, A300 có rất nhiều điểm tiên tiến và gây ảnh hưởng đến những thiết kế máy bay dân dụng cỡ lớn dưới tốc độ âm thành sau này. Những điểm sáng về kỹ thuật bao gồm:
Những chiếc A300 sau này đã kết hợp những tính năng tiên tiến khác như:
Tất cả những ứng dụng tiên tiến trên A300 đã làm nó trở thành loại máy bay thay thế cho loại phản lực 3 động cơ thân rộng như McDonnell Douglas DC-10 và Lockheed L-1011 trong các chuyến bay tầm gần và trung bình.
Sau khi xuất xưởng, doanh thu của A300 giảm dần trong một số năm, với đa số những đơn đặt hàng đến từ những hãng hàng không phải sử dụng các sản phẩm nội địa — như Air France và Lufthansa. Trong một giai đoạn, Airbus có tới 16 chiếc A300 "đuôi trắng" (có nghĩa đây là những máy bay đã hoàn chỉnh nhưng chưa có người mua) phải nằm chờ khách hàng đến mua. Hãng Indian Airlines là hãng hàng không nội địa đầu tiên trên thế giới mua A300. Một số chiếc A300 vẫn còn bay cho đến tận ngày nay trong đội bay của một số hãng hàng không.
Năm 1977, hãng vận tải Eastern Air Lines của Mỹ đã thuê 4 chiếc A300, chúng được sử dụng như những máy bay thử nghiệm hoạt động. Frank Borman, cựu phi hành gia và là CEO, đã rất ấn tượng về sự tiết kiệm nhiên liệu của A300, nó tiết kiệm hơn 30% so với những loại máy bay thuộc đội bay của Tristars, và sau đó Frank Borman đã đặt mua 23 chiếc A300. Điều này được thực hiện sau đơn đặt hàng từ Pan Am. Từ lúc đó, dòng A300 đã bán được khá tốt, dần dần đạt đến tổng số hiện thời là 858 chiếc đã được đặt hàng và giao hàng.
Loại A300 rất được các hãng hàng không châu Á ưa thích, bao gồm Japan Air System, Korean Air, Thai Airways International, Singapore Airlines, Malaysia Airlines, Philippine Airlines, Garuda Indonesia, China Airlines, Pakistan International Airlines, Indian Airlines, Trans Australia Airlines và rất nhiều hãng khác. Trong khi Châu Á không có những hạn chế tương tự như quy tắc 60 phút của FAA (Cục quản lý hàng không Liên bang Hoa Kỳ) cho các máy bay dân dụng cỡ lớn hai động cơ lúc đó, các hãng hàng không châu Á sử dung những chiếc A300 cho các tuyến đường bay xuyên Vịnh Bengal và Biển Đông.
Năm 1977, A300B4 trở thành máy bay "đáp ứng tiêu chuẩn ETOPS" - hiệu suất cao và tiêu chuẩn về an toàn đạt chuẩn theo yêu cầu, đảm bảo máy bay thực hiện được Extended Twin Engine Operations (Quá trình hoạt động của máy bay hai động cơ mở rộng) khi bay qua biển, cung cấp cho thành viên kíp bay nhiều sự linh hoạt hơn trong lộ trình. Vào năm 1981, Airbus đã phát triển nhanh chóng, với hơn 300 máy bay đã được bán và trên 200 chiếc nữa cho hơn 40 hãng hàng không. Được cảnh báo từ những thành công của A300, Boeing đã đáp trả bằng loại Boeing 767 mới.
A300 đã cung cấp cho Airbus những kinh nghiệm trong cạnh tranh sản xuất và bán máy bay dân dụng cỡ lớn. Phần thân cơ bản của A300 sau này đã kéo dài để sử dụng lại (A330 và A340), hoặc co ngắn lại (A310), hoặc được cải tiến trong các loại máy bay bắt nguồn từ A300 (A300-600ST Beluga Super Transporter).
A300 đã đạt đến việc kết thúc sản xuất, và chiếc A300 cuối cùng đã được hoàn thành và giao hàng. Hãng hàng không sử dụng A300 nhiều nhất là FedEx, với 95 chiếc A300/310 tính đến tháng 1-2006. Công ty United Parcel Service (UPS) cũng sử dụng những phiên bản chuyên chở của A300. Phiên bản cuối cùng là A300-600R và tuân theo quy tắc ETOPS 180-phút. A300 cũng quan tâm trong thị trường đồ cũ, chuyển đổi thành những máy bay chuyên chở hàng. Phiên bản chở hàng – với những chiếc A300-600 mới chế tạo hoặc những chiếc A300-600, A300B2 và B4 chở khách cũ được chuyển đổi – được sử dụng trong hầu hết các đội bay vận tải chỉ sau loại Boeing 747 chuyên chở hàng hóa.
Vào tháng 3-2006, Airbus thông báo đóng cửa dây chuyền A300/A310[2], đây là những máy bay đầu tiên của Airbus ngừng chế tạo. Sản phẩm A300 cuối cùng thực hiện chuyến bay đầu tiên vào 18 tháng 4-2007[3] và được chuyển giao vào 12 tháng 7-2007. Đây là chiếc một chiếc A300F chuyên chở cho hãng FedEx. Airbus đã công bố một gói hỗ trợ để giúp những chiếc A300 bay thương mại đến ít nhất là năm 2025.
Đây là danh sách các hãng hàng không đặt hàng, đã nhận và sử dụng Airbus A300 tính đến 31 tháng 3-2008:
Nguồn Airbus Orders and Deliveries Lưu trữ 2009-09-07 tại Wayback Machine
2007 | 2006 | 2005 | 2004 | 2003 | 2002 | 2001 | 2000 | 1999 | 1998 | 1997 | 1996 | 1995 | 1994 | 1993 | 1992 | 1991 |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
6 | 9 | 9 | 12 | 8 | 9 | 11 | 8 | 8 | 13 | 6 | 14 | 17 | 23 | 22 | 22 | 25 |
1990 | 1989 | 1988 | 1987 | 1986 | 1985 | 1984 | 1983 | 1982 | 1981 | 1980 | 1979 | 1978 | 1977 | 1976 | 1975 | 1974 |
19 | 24 | 17 | 11 | 10 | 16 | 19 | 19 | 46 | 38 | 39 | 26 | 15 | 15 | 13 | 8 | 4 |
Kích thước | A300B4 | A300-600R | A300-600F |
---|---|---|---|
Số ghế ở 2 hạng | 266 | n/a | |
Chiều dài | 54.08 m hoặc 177' 3" | ||
Sải cánh | 44.85 m hoặc 147' 2" | ||
Chiều cao | 16.62 m hoặc 54' 6" | ||
Bề rộng cabin lớn nhất | 5.28 m | ||
Đường kính thân | 5.64 m | ||
Trọng lượng rỗng | 90.060 kg hoặc 198.132 lb | 81.900 kg hoặc 180.700 lb | |
MTOW | 165.000 kg hoặc 364.980 lb. | 170.500 kg hoặc 375.100 lb | |
Quãng đường cất cánh với MTOW | N/A | 2324 m | |
Vận tốc hành trình | mach 0,78 | ||
Vận tốc tối đa | mach 0.86 | ||
Tầm bay khi tải tối đa | 6.670 km hoặc 3.600 nm | 2.950 nm | |
Sức chứa nhiên liệu tối đa | 18.000 USG hoặc 68.150 litres | ||
Động cơ | CF6-50C2 hoặc JT9D-59A | CF6-80C2 hoặc PW4158 | |
Kíp lái | 3 | 2 |
|ngày=
(trợ giúp)
|date=
(trợ giúp)
|date=
(trợ giúp)