Cuối năm 2009, Gaga phát hành The Fame Monster, phiên bản cao cấp và tái phát hành của The Fame, sau này được phát hành như một EP riêng biệt.[9] EP vươn lên vị trí dẫn đầu tại Úc, New Zealand, L.H. Anh, và vị trí thứ năm tại Hoa Kỳ, nơi nó được chứng nhận Bạch kim.[2][3][6] Đĩa đơn đầu tiên của album, "Bad Romance", gặt hái thành công quy mô quốc tế, đạt vị trí thứ hai tại Hoa Kỳ và vươn lên ví trí quán quân tại 12 quốc gia. Các đĩa đơn tiếp theo, "Telephone" và "Alejandro" là các bản hit lọt vào top 10 tại nhiều nước. Album tổng hợp đồng thời là album phối lại đầu tiên của Gaga, The Remix, được phát hành vào năm 2010, bao gồm các bản remix của các ca khúc nằm trong The Fame và The Fame Monster. The Remix đạt vị trí thứ sáu tại Hoa Kỳ và nằm trong top 5 tại Canada và L.H. Anh.[2][5][10] Album đã bán ra hơn 500.000 bản sao trên toàn thế giới, trở thành một trong những album phối lại bán chạy nhất mọi thời đại.[11]
Born This Way, album phòng thu thứ hai của Gaga được phát hành vào cuối tháng 5 năm 2011[12] và giành lấy vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Hoa Kỳ cũng như tại 20 quốc gia khác. "Born This Way", đĩa đơn đầu tiên trích từ album, leo lên vị trí quán quân tại 19 quốc gia trên thế giới trong đó có Hoa Kỳ, là đĩa đơn thứ ba của nữ ca sĩ giành được vị trí cao nhất tại đây. Bốn đĩa đơn khác là "Judas", "The Edge of Glory", "You and I" và "Marry the Night". Tháng 11 năm 2013, Gaga phát hành album phòng thu thứ ba Artpop và chọn ba bài hát "Applause", "Do What U Want" và "G.U.Y." làm ba đĩa đơn của album. Vào tháng 9 năm 2014, Gaga cùng với nam nhạc sĩ Tony Bennett ra mắt album hợp tác Cheek to Cheek. Album ra mắt tại vị trí thứ nhất trên Billboard 200, trở thành album thứ ba của Gaga đạt vị trí quán quân kể từ Born This Way.[13] Album phòng thu thứ năm, Joanne, được phát hành vào tháng 10 năm 2016, sau đạt được vị trí thứ nhất tại Hoa Kỳ. Đĩa đơn đầu tiên và thứ hai của album, "Perfect Illusion" và "Million Reasons" lần lượt ra mắt tại vị trí quán quân tại Pháp và đạt vị trí thứ tư tại Hoa Kỳ.[14][15] Với thứ hạng quán quân mà Joanne đã giành được tại Hoa Kỳ, Gaga trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên sở hữu bốn album đạt vị trí quán quân tại quốc gia này trong thập niên 2010.[16] Năm 2018, Gaga và nam diễn viên Bradley Cooper phát hành album nhạc phim của bộ phim chiếu rạp Vì sao vụt sáng (A Star Is Born), nâng cao kỷ lục của Gaga đã nêu trước đó từ con số bốn lên năm.[17] Album cùng với đĩa đơn đầu tiên "Shallow" gặt hái được nhiều thành công trên thị trường quốc tế, giành được vị trí đầu bảng tại Hoa Kỳ, Úc, New Zealand, Thuỵ Sĩ và L.H. Anh. Album phòng thu thứ sáu của Gaga, mang tên Chromatica (2020), ra mắt tại vị trí quán quân tại Hoa Kỳ, trở thành album thứ sáu liên tiếp của Gaga đạt vị trí thứ nhất tại quốc gia này.[18][19] Ngoài ra, Chromatica cũng giành được vị trí thứ nhất tại các quốc gia khác như New Zealand, Pháp, Úc, Ý, và L.H. Anh. Riêng tại L.H. Anh, Chromatica là album bán chạy nhất trong năm 2020 với 53.000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu tiên phát hành.[20] Hai đĩa đơn từ album đã được phát hành là "Stupid Love" và "Rain on Me" (với nữ ca sĩ Ariana Grande).[21] "Stupid Love" lọt vào top 5 tại L.H. Anh và Hoa Kỳ, còn "Rain on Me" ra mắt tại vị trí quán quân tại một vài quốc gia trong đó có Hoa Kỳ, Canada và L.H. Anh. Vào tháng 9 năm 2021, album hợp tác thứ hai của cô và Bennett, mang tựa Love for Sale, được ra mắt. Đĩa đơn năm 2022 của Gaga, "Hold My Hand" nằm trong album nhạc phim của bộ phim Phi công siêu đẳng Maverick, được soạn nhạc bởi nữ ca sĩ cùng với Lorne Balfe, Harold Faltermeyer và Hans Zimmer.
Lady Gaga đã bán được khoảng 27 triệu album và 146 triệu đĩa đơn trên toàn thế giới tính đến năm 2016.[22] Theo thống kê, nữ ca sĩ đã bán ra 7,25 triệu đĩa đơn tại L.H. Anh,[23] 11,46 triệu album tại Hoa Kỳ[24] và trở thành nghệ sĩ đầu tiên và duy nhất có hai bài hát sở hữu số lượt tải về là 7 triệu đơn vị ("Poker Face" và "Just Dance").[25] Theo tính toán của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), tính đến tháng 3 năm 2020, Gaga được xếp thứ 6 trong danh sách những nghệ sĩ có doanh số tiêu thụ đĩa đơn dạng nhạc số cao nhất tại Hoa Kỳ, ước tính khoảng 77 triệu lượt tải về và lượt stream theo yêu cầu.[26]
^Doanh số tiêu thụ của Artpop tại L.H. Anh tính đến tháng 10 năm 2014.[51]
^Doanh số tiêu thụ của Joanne trên toàn cầu tính đến hết năm 2016.[52]
^Doanh số tiêu thụ của Joanne tại L.H. Anh tính đến tháng 10 năm 2018.[53]
^Doanh số tiêu thụ của Joanne tại Pháp tính đến tháng 10 năm 2018.[54]
^Doanh số tiêu thụ của Chromatica tại Mỹ tính đến tháng 6 năm 2020.[56]
^Doanh số tiêu thụ của Chromatica tại L.H. Anh tính đến tháng 6 năm 2020.[57]
^Doanh số tiêu thụ của Cheek to Cheek trên toàn cầu tính đến tháng 8 năm 2016.[58]
^Tổng doanh số tiêu thụ của A Star Is Born trên toàn cầu tính đến hết năm 2018 và 2019.[60][61]
^Doanh số tiêu thụ của A Star Is Born tại Hoa Kỳ tính đến tháng 9 năm 2019.[62]
^Doanh số tiêu thụ của A Star Is Born tại Canada tính đến hết năm 2019.[63][64]
^Doanh số tiêu thụ của A Star Is Born tại Pháp tính đến tháng 6 năm 2019.[65]
^Doanh số tiêu thụ của The Remix trên toàn cầu tính đến tháng 7 năm 2010.[11]
^Doanh số tiêu thụ của The Cherrytree Sessions tại Hoa Kỳ tính đến tháng 9 năm 2010.[91]
^Doanh số tiêu thụ của "Just Dance" tại Canada tính đến hết năm 2008.[97]
^ abcdeDoanh số tiêu thụ tại L.H. Anh tính đến tháng 5 năm 2020.[98]
^Tổng doanh số tiêu thụ của "Poker Face" tại Canada tính đến hết năm 2008 và 2009.[34][97]
^ abDoanh số tiêu thụ trên toàn cầu tính đến hết năm 2011.[103]
^Doanh số tiêu thụ của "Bad Romance" tại Canada tính đến hết năm 2009.[34]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng "Dance in the Dark" lại từng đạt được vị trí thứ 22 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100.[107]
^Doanh số tiêu thụ của "Born This Way" trên toàn cầu tính đến hết năm 2012.[108]
^Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng "The Lady Is a Tramp" từng giành được vị trí thứ 21 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[110]
^ abDoanh số tiêu thụ tại Hoa Kỳ tính đến tháng 4 năm 2015.[111]
^Doanh số tiêu thụ của "Anything Goes" tại Mỹ tính đến tháng 8 năm 2014.[114]
^Doanh số tiêu thụ của "Til It Happens to You" tại Mỹ tính đến tháng 3 năm 2016.[115]
^Doanh số tiêu thụ của "Perfect Illusion" tại Mỹ tính đến tháng 9 năm 2016.[116]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Million Reasons" vẫn đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[118]
^Dù không lọt vảo bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "The Cure" từng giành được vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[120]
^Doanh số tiêu thụ của "The Cure" tại Hoa Kỳ tính đến tháng 9 năm 2018.[121]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng "Joanne" từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 50 trên bảng xếp hạng Billboard Digital Song Sales.[122]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng Canadian Hot 100, nhưng "Joanne" từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 48 trên bảng xếp hạng Hot Canadian Digital Song Sales.[123]
^Doanh số tiêu thụ của "Shallow" tại Hoa Kỳ tính đến tháng 4 năm 2019.[124]
^Doanh số tiêu thụ của "Shallow" tại Canada tính đến hết năm 2019.[64]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "I'll Never Love Again" vẫn giành được vị trí thứ 13 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[129]
^Doanh số tiêu thụ của "Stupid Love" tại Mỹ tính đến tháng 3 năm 2020.[131]
^Doanh số tiêu thụ của "Rain on Me" tại Mỹ tính đến hết tháng 5 năm 2020.[132]
^Dù không có mặt trên bảng xếp hạng Ultratop 50, nhưng "Chillin" vẫn đạt vị trí thứ 20 trên bảng xếp hạng Flemish Ultratip.[133]
^Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng "3-Way (The Golden Rule)" lại từng giành được vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[135]
^Đây là liên khúc gồm ba bài hát mà nữ ca sĩ đã biểu diễn cùng với Elton John tại lễ trao giải Grammy lần thứ 52 (2010).[138]
^Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng liên khúc vẫn đạt được vị trí cao nhất là hạng 13 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không có mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "A-Yo" lại từng đạt được vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[140]
^Dù không góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Starstruck" từng đạt được vị trí thứ bảy Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng "Monster" vẫn từng giành được vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng Canadian Hot 100, nhưng "Monster" từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 73 trên bảng xếp hạng Hot Canadian Digital Song Sales.[123]
^Doanh số tiêu thụ của "Speechless" tại Mỹ tính đến tháng 8 năm 2010.[143]
^Doanh số tiêu thụ của "Speechless" tại L.H. Anh tính đến tháng 11 năm 2018.[35]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Scheiße" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 11 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng Canadian Hot 100, nhưng "Scheiße" từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 72 trên bảng xếp hạng Hot Canadian Digital Song Sales.[123]
^Phiên bản cover do Gaga trình bày của bài hát cùng tên do nhạc sĩ Irving Berlin sáng tác vào năm 1942. Phiên bản này đã được cô trình bày trên chương trình đặc biệt được phát sóng nhân dịp lễ Tạ ơn với tựa đề A Very Gaga Thanksgiving và được đưa vào EP A Very Gaga Holiday.[144][145]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Diamond Heart" vẫn đạt vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[140]
^Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng "Music to My Eyes" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 17 trên bảng xếp hạng Billboard Digital Song Sales.[122]
^Dù không có mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Music to My Eyes" lại từng giành được vị trí thứ 31 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[129]
^Dù không được góp mặt trên bảng xếp hạng Swedish Singelista Chart, nhưng "Music to My Eyes" lại từng đạt vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Swedish Heatseeker Chart.[146]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Look What I Found" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 46 trên bảng xếp hạng Billboard Digital Song Sales.[122]
^Dù không được góp mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Look What I Found" vẫn giành được vị trí thứ 27 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[129]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng Swedish Singellista Chart, nhưng "Look What I Found" lại từng vươn lên vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng Swedish Heatseeker Chart.[146]
^Dù không được góp mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Is That Alright?" lại từng đạt vị trí thứ 40 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[147]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Before I Cry" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 45 trên bảng xếp hạng Billboard Digital Song Sales.[122]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Chromatica I" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 25 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Alice" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 3 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[148]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Free Woman" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 2 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Free Woman" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 6 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[148]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Fun Tonight" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 11 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng UK Singles Chart, nhưng "Fun Tonight" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 87 trên bảng xếp hạng UK Sales Chart.[149]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "911" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 1 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "911" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 5 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[148]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Plastic Doll" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 17 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Enigma" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 15 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Replay" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 21 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Sine from Above" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 16 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
^Dù không lọt vào bảng xếp hạng UK Singles Chart, nhưng "Sine from Above" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 68 trên bảng xếp hạng UK Sales Chart.[149]
^The Portal in the Park là một cuốn sách nói (audio book) dành cho thiếu nhi của tác giả Cricket Casey, xuất bản lần đầu vào năm 2006. Tất cả bảy bài hát và phần kể chuyện trong sách được thực hiện hiện bởi nam nghệ sĩ hip-hopMelle Mel. Gaga tham gia góp giọng trong hai bài hát.[151][152]
"Til It Happens to You": “Chart Log UK: "Update 15.09.26"”. UK Singles Chart. Zobble.de. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
^ abcde“Lady GaGa”(chọn tab "CHARTS") (bằng tiếng Đức). swisscharts.com. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
^ abcdefghiNguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng cao nhất của các đĩa đơn ở Ý:
Áp dụng cho tất cả ngoại trừ: “Lady GaGa”(Nhấp chuột vào ô "Artista/Band", chọn "Lady GaGa" trong ô tìm kiếm bên phải rồi chọn mục "Classifiche".). Federazione Industria Musicale Italiana. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2020.
A Star Is Born, "Shallow" và "I'll Never Love Again": Chọn "Lady Gaga & Bradley Cooper" trong ô tìm kiếm.
"Telephone": Chọn "LADY GAGA FEAT. BEYONCÉ" trong ô tìm kiếm.
Williams, John (ngày 16 tháng 6 năm 2011). “City and Colour shines on charts”. Toronto Sun. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl= và |archive-url= (trợ giúp)
^ abcVị trí xếp hạng cao nhất của các album tại Nhật Bản:
Áp dụng cho tất cả ngoại trừ The Singles: レディー・ガガのランキング [Lady Gaga: Profile] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
The Singles: ザ・シングルス [The Singles] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
^“Lady GaGa – The Remix”. Pure Charts by Charts in France (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
Vị trí xếp hạng cao nhất của Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!: “Top Music Video Sales: 2015-02-07”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
^Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng cao nhất của các DVD tại Áo:
Vị trí xếp hạng cao nhất của Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden: “Musik-DVD Top 10 Hitparaden” (bằng tiếng Hà Lan). Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm quốc tế. Hung Medien. ngày 2 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
Vị trí xếp hạng cao nhất của Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!: “Austria Top 40 – Musik-DVDs Top 10” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
^Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Hà Lan:
Vị trí xếp hạng cao nhất của Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden: “Musik-DVD Top 10 Hitparaden” (bằng tiếng Hà Lan). MegaCharts. Hung Medien. ngày 2 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
Vị trí xếp hạng cao nhất của Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!: “Musik-DVD Top 10 Hitparaden” (bằng tiếng Hà Lan). MegaCharts. Hung Medien. ngày 24 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
^Nguồn tham khảo về vị trí xếp hạng của các DVD tại L.H. Anh:
^Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Nhật Bản:
Vị trí cao nhất của Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden: “Index of DVD Music Week – ngày 27 tháng 11 năm 2011” (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 28 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
^Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Pháp:
Vị trí xếp hạng cao nhất của Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!: “Tony Bennett & Lady Gaga – Cheek to Cheek – Live!” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
^Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Thuỵ Sĩ:
Vị trí xếp hạng cao nhất của Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden: “Musik-DVD Top 10” (bằng tiếng Đức). Swiss Music Charts. Hung Medien. ngày 27 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
^Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Úc:
Vị trí xếp hạng cao nhất của Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden: “ARIA Top 40 Music DVD Chart”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2011.
Vị trí xếp hạng cao nhất của Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!: “Tony Bennett & Lady Gaga – Cheek to Cheek Live”. Top 40 DVD Chart. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2015.
^Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Ý:
^Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng cao nhất của các bài hát khác được xếp hạng tại L.H. Anh:
Áp dụng cho tất cả ngoại trừ: “Lady Gaga”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
"Starstruck": “The Official UK Singles Chart for the week ending ngày 11 tháng 4 năm 2009”. ChartsPlus. Milton Keynes: IQ Ware Ltd (398): 3.
"Teeth": “The Official UK Singles Chart for the week ending ngày 5 tháng 12 năm 2009”. ChartsPlus. Milton Keynes: IQ Ware Ltd (432): 3.
"Scheiße", "Marry the Night", "Black Jesus + Amen Fashion", "Fashion of His Love" và "The Queen": “The Official UK Singles Chart for the week ending ngày 1 tháng 6 năm 2011”. ChartsPlus. Milton Keynes: IQ Ware Ltd.
Shiina Mashiro (椎名 ましろ Shiina Mashiro) là main nữ trong "Sakurasou no Pet Na Kanojo" và hiện đang ở tại phòng 202 trại Sakurasou. Shiina có lẽ là nhân vật trầm tính nhất xuyên suốt câu chuyện.