Danh sách đĩa nhạc của Lady Gaga

Danh sách đĩa nhạc của Lady Gaga
Gaga trong chuyến lưu diễn The Chromatica Ball Tour, 2022.
Album phòng thu7
Album tổng hợp2
Album video2
EP4
Đĩa đơn38
Album nhạc phim2
Album phối lại3
Album hợp tác2
Đĩa đơn quảng bá14
Album tái phát hành2

Nữ ca sĩ người Mỹ Lady Gaga đã phát hành 5 album phòng thu độc tấu, 2 album phòng thu hợp tác, 2 album nhạc phim, 2 album tổng hợp, 3 album phối lại, 2 album video, 4 EP, 38 đĩa đơn (trong đó có 3 đĩa đơn với vai trò là nghệ sĩ góp giọng), và 14 đĩa đơn quảng bá. Gaga bước chân vào ngành công nghiệp âm nhạc với album phòng thu đầu tay The Fame năm 2008.[1] Album đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard 200 và được cấp chứng nhận 3 lần Bạch kim tại Hoa Kỳ[2][3] đồng thời giữ vị trí quán quân tại Áo, Canada, Đức, Thuỵ Sĩ và L.H. Anh.[4][5] Hai đĩa đơn đầu tiên của album, "Just Dance" và "Poker Face" đều đạt được thành công trên quy mô quốc tế, vươn lên dẫn đầu các bảng xếp hạng tại Úc, Canada, L.H. Anh và Hoa Kỳ.[6][7][8] Ba đĩa đơn còn lại của album gồm: "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)", "LoveGame" và "Paparazzi". "Paparazzi" lọt vào top 10 tại nhiều quốc gia và đạt vị trí quán quân tại Đức.[4]

Cuối năm 2009, Gaga phát hành The Fame Monster, phiên bản cao cấp và tái phát hành của The Fame, sau này được phát hành như một EP riêng biệt.[9] EP vươn lên vị trí dẫn đầu tại Úc, New Zealand, L.H. Anh, và vị trí thứ năm tại Hoa Kỳ, nơi nó được chứng nhận Bạch kim.[2][3][6] Đĩa đơn đầu tiên của album, "Bad Romance", gặt hái thành công quy mô quốc tế, đạt vị trí thứ hai tại Hoa Kỳ và vươn lên ví trí quán quân tại 12 quốc gia. Các đĩa đơn tiếp theo, "Telephone" và "Alejandro" là các bản hit lọt vào top 10 tại nhiều nước. Album tổng hợp đồng thời là album phối lại đầu tiên của Gaga, The Remix, được phát hành vào năm 2010, bao gồm các bản remix của các ca khúc nằm trong The FameThe Fame Monster. The Remix đạt vị trí thứ sáu tại Hoa Kỳ và nằm trong top 5 tại Canada và L.H. Anh.[2][5][10] Album đã bán ra hơn 500.000 bản sao trên toàn thế giới, trở thành một trong những album phối lại bán chạy nhất mọi thời đại.[11]

Born This Way, album phòng thu thứ hai của Gaga được phát hành vào cuối tháng 5 năm 2011[12] và giành lấy vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Hoa Kỳ cũng như tại 20 quốc gia khác. "Born This Way", đĩa đơn đầu tiên trích từ album, leo lên vị trí quán quân tại 19 quốc gia trên thế giới trong đó có Hoa Kỳ, là đĩa đơn thứ ba của nữ ca sĩ giành được vị trí cao nhất tại đây. Bốn đĩa đơn khác là "Judas", "The Edge of Glory", "You and I" và "Marry the Night". Tháng 11 năm 2013, Gaga phát hành album phòng thu thứ ba Artpop và chọn ba bài hát "Applause", "Do What U Want" và "G.U.Y." làm ba đĩa đơn của album. Vào tháng 9 năm 2014, Gaga cùng với nam nhạc sĩ Tony Bennett ra mắt album hợp tác Cheek to Cheek. Album ra mắt tại vị trí thứ nhất trên Billboard 200, trở thành album thứ ba của Gaga đạt vị trí quán quân kể từ Born This Way.[13] Album phòng thu thứ năm, Joanne, được phát hành vào tháng 10 năm 2016, sau đạt được vị trí thứ nhất tại Hoa Kỳ. Đĩa đơn đầu tiên và thứ hai của album, "Perfect Illusion" và "Million Reasons" lần lượt ra mắt tại vị trí quán quân tại Pháp và đạt vị trí thứ tư tại Hoa Kỳ.[14][15] Với thứ hạng quán quân mà Joanne đã giành được tại Hoa Kỳ, Gaga trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên sở hữu bốn album đạt vị trí quán quân tại quốc gia này trong thập niên 2010.[16] Năm 2018, Gaga và nam diễn viên Bradley Cooper phát hành album nhạc phim của bộ phim chiếu rạp Vì sao vụt sáng (A Star Is Born), nâng cao kỷ lục của Gaga đã nêu trước đó từ con số bốn lên năm.[17] Album cùng với đĩa đơn đầu tiên "Shallow" gặt hái được nhiều thành công trên thị trường quốc tế, giành được vị trí đầu bảng tại Hoa Kỳ, Úc, New Zealand, Thuỵ Sĩ và L.H. Anh. Album phòng thu thứ sáu của Gaga, mang tên Chromatica (2020), ra mắt tại vị trí quán quân tại Hoa Kỳ, trở thành album thứ sáu liên tiếp của Gaga đạt vị trí thứ nhất tại quốc gia này.[18][19] Ngoài ra, Chromatica cũng giành được vị trí thứ nhất tại các quốc gia khác như New Zealand, Pháp, Úc, Ý, và L.H. Anh. Riêng tại L.H. Anh, Chromatica là album bán chạy nhất trong năm 2020 với 53.000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu tiên phát hành.[20] Hai đĩa đơn từ album đã được phát hành là "Stupid Love" và "Rain on Me" (với nữ ca sĩ Ariana Grande).[21] "Stupid Love" lọt vào top 5 tại L.H. Anh và Hoa Kỳ, còn "Rain on Me" ra mắt tại vị trí quán quân tại một vài quốc gia trong đó có Hoa Kỳ, Canada và L.H. Anh. Vào tháng 9 năm 2021, album hợp tác thứ hai của cô và Bennett, mang tựa Love for Sale, được ra mắt. Đĩa đơn năm 2022 của Gaga, "Hold My Hand" nằm trong album nhạc phim của bộ phim Phi công siêu đẳng Maverick, được soạn nhạc bởi nữ ca sĩ cùng với Lorne Balfe, Harold FaltermeyerHans Zimmer.

Lady Gaga đã bán được khoảng 27 triệu album và 146 triệu đĩa đơn trên toàn thế giới tính đến năm 2016.[22] Theo thống kê, nữ ca sĩ đã bán ra 7,25 triệu đĩa đơn tại L.H. Anh,[23] 11,46 triệu album tại Hoa Kỳ[24] và trở thành nghệ sĩ đầu tiên và duy nhất có hai bài hát sở hữu số lượt tải về là 7 triệu đơn vị ("Poker Face" và "Just Dance").[25] Theo tính toán của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), tính đến tháng 3 năm 2020, Gaga được xếp thứ 6 trong danh sách những nghệ sĩ có doanh số tiêu thụ đĩa đơn dạng nhạc số cao nhất tại Hoa Kỳ, ước tính khoảng 77 triệu lượt tải về và lượt stream theo yêu cầu.[26]

Album phòng thu

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách album phòng thu, vị trí xếp hạng cao nhất, doanh số và chứng nhận
Tiêu đề Thông tin album Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận
(dựa theo doanh số)
Hoa Kỳ Mỹ
[2]
Áo Áo
[27]
Canada Canada
[10]
Đức Đức
[4]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[5]
New Zealand New Zealand
[28]
Pháp Pháp
[29]
Thụy Sĩ Thuỵ Sĩ
[30]
Úc Úc
[6]
Ý Ý
[31]
The Fame 2 1 1 1 1 2 2 1 3 13
Born This Way
  • Phát hành: 23 tháng 5 năm 2011
  • Hãng: Streamline, Interscope, Kon Live
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, USB, LP
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
  • Toàn cầu: 6.000.000[a]
  • Mỹ: 2.430.000[b]
  • Canada: 93.000[f]
  • L.H. Anh: 989.000[g]
  • Pháp: 190.000[h]
  • Mỹ: 4× Bạch kim[3]
  • Áo:  Bạch kim[37]
  • Đức:  Bạch kim[39]
  • Canada: 4× Bạch kim[38]
  • L.H. Anh: 3× Bạch kim[40]
  • New Zealand:  Bạch kim[41]
  • Pháp: 2× Bạch kim[42]
  • Thuỵ Sĩ:  Bạch kim[43]
  • Úc: 2× Bạch kim[48]
  • Ý:  Bạch kim[45]
Artpop
  • Phát hành: 11 tháng 11 năm 2013 (Hoa Kỳ)
  • Hãng: Streamline, Interscope
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, LP
1 1 3 3 1 2 3 2 2 2
  • Toàn cầu: 2.500.000[i]
  • Mỹ: 781.000[j]
  • L.H. Anh: 207.243[k]
  • Pháp: 60.000[h]
  • Mỹ:  Bạch kim[3]
  • Áo: Vàng Vàng[37]
  • Canada:  Bạch kim[38]
  • L.H. Anh: Vàng Vàng[40]
  • Pháp:  Bạch kim[42]
  • Thuỵ Sĩ: Vàng Vàng[43]
  • Ý: Vàng Vàng[45]
Joanne
  • Phát hành: 21 tháng 10 năm 2016
  • Hãng: Streamline, Interscope
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, LP
1 9 2 6 3 2 9 3 2 2
  • Toàn cầu: 1.000.000[l]
  • Mỹ: 649.000[j]
  • L.H. Anh: 143.315[m]
  • Pháp: 50.000[n]
  • Mỹ:  Bạch kim[3]
  • Canada: Vàng Vàng[38]
  • L.H. Anh: Vàng Vàng[40]
  • Pháp: Vàng Vàng[55]
  • Ý: Vàng Vàng[45]
Chromatica
  • Phát hành: 29 tháng 5 năm 2020
  • Hãng: Interscope
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, LP, cassette
1 1 1 3 1 1 1 1 1 1
  • Mỹ: 205.000[o]
  • L.H. Anh: 31.709[p]
  • Canada: Vàng Vàng[38]
  • L.H. Anh:  Bạc[40]

Album hợp tác

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách album hợp tác, vị trí xếp hạng cao nhất, doanh số và chứng nhận
Tiêu đề Thông tin album Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận
(dựa theo doanh số)
Hoa Kỳ Mỹ
[2]
Áo Áo
[27]
Canada Canada
[10]
Đức Đức
[4]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[5]
New Zealand New Zealand
[28]
Pháp Pháp
[29]
Thụy Sĩ Thuỵ Sĩ
[30]
Úc Úc
[6]
Ý Ý
[31]
Cheek to Cheek
(với Tony Bennett)
  • Phát hành: 23 tháng 9 năm 2014 (Hoa Kỳ)
  • Hãng: Streamline, Interscope, Columbia
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, LP
1 6 3 12 10 3 9 7 7 6
  • Toàn cầu: 1.000.000[q]
  • Mỹ: 773.000[j]
  • Pháp: 40.000[h]
  • Mỹ: Vàng Vàng[3]
  • Canada:  Bạch kim[38]
  • L.H. Anh:  Bạc[40]
  • Úc: Vàng Vàng[59]
Love for Sale
(với Tony Bennett)
  • Phát hành: 1 tháng 10 năm 2021
  • Hãng: Streamline, Interscope, Columbia
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, LP
CTB

Album nhạc phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách album nhạc phim, vị trí xếp hạng cao nhất, doanh số và chứng nhận
Tiêu đề Thông tin album Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận
Hoa Kỳ Mỹ
[2]
Áo Áo
[27]
Canada Canada
[10]
Đức Đức
[4]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[5]
New Zealand New Zealand
[28]
Pháp Pháp
[29]
Thụy Sĩ Thuỵ Sĩ
[30]
Úc Úc
[6]
Ý Ý
[31]
A Star Is Born
(với Bradley Cooper)
  • Phát hành: 5 tháng 10 năm 2018
  • Hãng: Interscope
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, LP
1 2 1 4 1 1 1 1 1 4
  • Toàn cầu: 2.900.000[r]
  • Mỹ: 1.148.000[s]
  • Canada: 157.000[t]
  • Pháp: 224.000[u]
  • Mỹ: 2× Bạch kim[3]
  • Áo:  Bạch kim[66]
  • Canada: 3× Bạch kim[38]
  • L.H. Anh:  Bạch kim[67]
  • New Zealand: 3× Bạch kim[68]
  • Pháp: 3× Bạch kim[55]
  • Úc: 2× Bạch kim[69]
  • Ý:  Bạch kim[45]

Album tổng hợp

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách album tổng hợp và vị trí xếp hạng cao nhất
Tiêu đề Thông tin album Vị trí xếp hạng cao nhất
Nhật Bản
Nhật Bản
[70]
Ý
Ý
[31]
The Singles[71] 166
Born This Way: The Collection
  • Ngày phát hành: 18 tháng 11 năm 2011
  • Hãng đĩa: Streamline, Interscope, Kon Live
  • Định dạng: box set gồm 2 đĩa CD và 1 đĩa DVD
98
"—" biểu thị album không được phát hành hoặc không có mặt trên bảng xếp hạng tại quốc gia này.

Album phối lại

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách album phối lại, vị trí xếp hạng cao nhất, doanh số và chứng nhận
Tiêu đề Thông tin album Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận
Hoa Kỳ Mỹ
[2]
Bỉ
Bỉ
(WAL)

[72]
Canada Canada
[10]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[5]
New Zealand New Zealand
[28]
Nhật Bản Nhật Bản
[70]
Pháp Pháp
[29]
Thụy Điển Thuỵ Điển
[73]
Úc Úc
[6]
Ý Ý
[31]
The Remix
  • Phát hành: 3 tháng 3 năm 2010 (Hoa Kỳ)
  • Hãng: Streamline, Kon Live, Cherrytree, Interscope
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, streaming, LP
6 6 5 3 9 7 19 40 12 22
  • Toàn cầu: 500.000[v]
  • Mỹ: 316.000[j]
  • Pháp: 50.000[74]
Born This Way: The Remix
  • Phát hành: 21 tháng 11 năm 2011 (Hoa Kỳ)
  • Hãng: Streamline, Interscope, Kon Live
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, streaming, LP
105 69 49 77 14 71 62 89
  • Nhật Bản: Vàng Vàng[77]
Dawn of Chromatica: The Remix Album
  • Phát hành: 3 tháng 9 năm 2021
  • Hãng: Streamline, Interscope
  • Định dạng: Tải kỹ thuật số, streaming
"—" biểu thị album không được phát hành hoặc không có mặt trên bảng xếp hạng tại quốc gia này.

Album video

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách album video, vị trí xếp hạng cao nhất và chứng nhận
Tiêu đề Thông tin album Vị trí xếp hạng cao nhất Chứng nhận
Hoa Kỳ Mỹ
[78]
Áo Áo
[79]
Đức Đức
[4]
Hà Lan Hà Lan
[80]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[81]
Nhật Bản Nhật Bản
[82]
Pháp Pháp
[83]
Thụy Sĩ Thuỵ Sĩ
[84]
Úc Úc
[85]
Ý Ý
[86]
The Fame Monster: Video EP[87]
  • Phát hành: 7 tháng 5 năm 2010
  • Hãng đĩa: Streamline, Kon Live, Cherrytree, Interscope
  • Định dạng: Tải kỹ thuật số
Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden
  • Phát hành: 21 tháng 11 năm 2011
  • Hãng: Streamline, Interscope, Kon Live
  • Định dạng: DVD, Blu-ray, tải kỹ thuật số
1 5 55 3 4 3 1 2 2 1
  • L.H. Anh: Vàng Vàng[88]
  • Pháp: 2× Bạch kim[89]
  • Úc: 2× Bạch kim[90]
Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!
  • Phát hành: 20 tháng 1 năm 2015
  • Hãng: Streamline, Interscope, Columbia
  • Định dạng: DVD, Blu-ray, tải kỹ thuật số
1 7  — 3 10  — 3  — 3 3
"—" biểu thị album không được phát hành hoặc không có mặt trên bảng xếp hạng tại quốc gia này.

Đĩa mở rộng

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa mở rộng, vị trí xếp hạng cao nhất, doanh số và chứng nhận
Tiêu đề Thông tin đĩa mở rộng Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận
Hoa Kỳ Mỹ
[2]
Bỉ
Bỉ
(WAL)

[72]
Canada Canada
[10]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[5]
New Zealand New Zealand
[28]
Nhật Bản Nhật Bản
[70]
Pháp Pháp
[29]
Thụy Điển Thuỵ Điển
[73]
Úc Úc
[6]
Ý Ý
[31]
The Cherrytree Sessions
  • Phát hành: 3 tháng 2 năm 2009 (Hoa Kỳ)
  • Hãng: Streamline, Kon Live, Cherrytree, Interscope
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số
Hitmixes
  • Phát hành: 25 tháng 8 năm 2009 (Canada)
  • Hãng: Universal Music Canada
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số
8
The Fame Monster
  • Ngày phát hành: 18 tháng 11 năm 2009 (Hoa Kỳ)
  • Hãng đĩa: Streamline, Kon Live, Cherrytree, Interscope
  • Định dạng: CD, tải kỹ thuật số, USB, EP, LP
5 5 6 1 1 2 13 2 1 2
  • Toàn cầu: Xem The Fame.
  • Mỹ: 1.650.000[b]
A Very Gaga Holiday
  • Ngày phát hành: 22 tháng 11 năm 2011 (Hoa Kỳ)
  • Hãng đĩa: Streamline, Interscope, Kon Live
  • Định dạng: Tải kỹ thuật số
52 74 66
  • Mỹ: 46.000[j]
"—" biểu thị album không được phát hành hoặc không có mặt trên bảng xếp hạng tại quốc gia này.

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

Hát chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa đơn với vai trò hát chính, vị trí xếp hạng cao nhất và chứng nhận, năm phát hành và tên album
Tiêu đề Năm Vị trí cao nhất trên các bảng xếp hạng Doanh số Chứng nhận Album
Hoa Kỳ
Mỹ
[14]
Áo Áo
[27]
Canada Canada
[7]
Đức Đức
[4]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[8]
New Zealand New Zealand
[28]
Pháp Pháp
[29]
Thụy Sĩ Thụy Sĩ
[30]
Úc Úc
[6]
Ý Ý
[31]
"Just Dance"
(hợp tác với Colby O'Donis)
2008 1 8 1 10 1 3 14 8 1 36
  • Mỹ: 7.200.000[j]
  • Canada: 174.000[x]
  • L.H. Anh: 968.000[y]
  • Pháp: 88.000[h]
  • Mỹ: 9× Bạch kim[99]
  • Canada: 6× Bạch kim[38]
  • Đức: Vàng Vàng[39]
  • L.H. Anh: 2× Bạch kim[40]
  • New Zealand:  Bạch kim[100]
  • Thụy Sĩ: 2× Bạch kim[43]
  • Úc: 3× Bạch kim[101]
  • Ý: Vàng Vàng[102]
The Fame
"Poker Face" 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2
  • Toàn cầu: 12.000.000[a]
  • Mỹ: 7.500.000[j]
  • Canada: 315.000[z]
  • L.H. Anh: 1.190.000[y]
  • Pháp: 300.000[h]
  • Mỹ:  Kim cương[99]
  • Áo: Vàng Vàng[37]
  • Canada: 8× Bạch kim[38]
  • Đức: 3× Bạch kim[39]
  • L.H. Anh: 2× Bạch kim[40]
  • New Zealand: 2× Bạch kim[100]
  • Thuỵ Sĩ: 3× Bạch kim[43]
  • Úc: 6× Bạch kim[101]
  • Ý: 2× Bạch kim[102]
"Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" 2009 68 9 7 15
  • Pháp: 52.920[h]
"LoveGame" 5 6 2 7 19 12 5 15 4
  • Mỹ: 2.670.000[j]
  • Pháp: 74.000[h]
  • Mỹ: 3× Bạch kim[99]
  • Canada: 2× Bạch kim[38]
  • L.H. Anh:  Bạc[40]
  • New Zealand: Vàng Vàng[100]
  • Úc:  Bạch kim[101]
"Paparazzi" 6 3 3 1 4 5 6 4 2 3
  • Toàn cầu: 12.000.000[a]
  • Mỹ: 3.600.000[j]
  • Pháp: 120.000[h]
  • Mỹ: 5× Bạch kim[99]
  • Đức:  Bạch kim[39]
  • L.H. Anh:  Bạch kim[40]
  • New Zealand: Vàng Vàng[100]
  • Thụy Sĩ: Vàng Vàng[43]
  • Úc: 2× Bạch kim[101]
  • Ý:  Bạch kim[102]
"Bad Romance" 2 1 1 1 1 2 1 2 2 1
  • Toàn cầu: 9.700.000[aa]
  • Mỹ: 5.900.000[j]
  • Canada: 160.000[ab]
  • L.H. Anh: 1.050.000[y]
  • Pháp: 250.000[h]
  • Mỹ: 11× Bạch kim
    ( Kim cương)[99]
  • Canada: 7× Bạch kim[38]
  • Đức: 3× Vàng[39]
  • L.H. Anh: 2× Bạch kim[40]
  • New Zealand: 2× Bạch kim[100]
  • Pháp:  Bạch kim[104]
  • Thuỵ Sĩ:  Bạch kim[43]
  • Úc: 4× Bạch kim[105]
  • Ý: 2× Bạch kim[102]
The Fame Monster
"Telephone"
(hợp tác với Beyoncé)
2010 3 3 3 3 1 3 3 4 3 2
  • Toàn cầu: 7.400.000[aa]
  • Mỹ: 3.500.000[j]
  • L.H. Anh: 736.000[y]
  • Pháp: 120.000[h]
  • Mỹ: 5× Bạch kim[99]
  • Canada: 3× Bạch kim[38]
  • Đức: Vàng Vàng[39]
  • L.H. Anh:  Bạch kim[40]
  • New Zealand:  Bạch kim[100]
  • Pháp: Vàng Vàng[104]
  • Thuỵ Sĩ: Vàng Vàng[43]
  • Úc: 3× Bạch kim[105]
  • Ý:  Bạch kim[102]
"Alejandro" 5 2 4 2 7 11 3 3 2 2
  • Mỹ: 2.630.000[j]
  • Pháp: 130.000[h]
  • Mỹ: 4× Bạch kim[99]
  • Đức:  Bạch kim[39]
  • L.H. Anh: Vàng Vàng[40]
  • New Zealand: Vàng Vàng[100]
  • Pháp: Vàng Vàng[104]
  • Thuỵ Sĩ:  Bạch kim[43]
  • Úc:  Bạch kim[106]
  • Ý: 2× Bạch kim[102]
"Dance in the Dark" [ac] 88 89 24
"Born This Way" 2011 1 1 1 1 3 1 2 1 1 2
  • Toàn cầu: 8.200.000[ad]
  • Mỹ: 4.300.000[j]
  • Pháp: 100.000[h]
  • Mỹ: 6× Bạch kim[99]
  • Đức:  Bạch kim[39]
  • L.H. Anh:  Bạch kim[40]
  • New Zealand:  Bạch kim[100]
  • Thuỵ Sĩ:  Bạch kim[43]
  • Úc 4× Bạch kim[105]
  • Ý:  Bạch kim[102]
Born This Way
"Judas" 10 6 8 23 8 12 7 8 6 3
  • Mỹ: 1.000.000[j]
  • Pháp: 70.000[h]
"The Edge of Glory" 3 3 3 3 6 3 7 10 2 2
  • Mỹ: 3.000.000[j]
  • Mỹ: 4× Bạch kim[99]
  • Đức: Vàng Vàng[39]
  • L.H. Anh:  Bạch kim[40]
  • New Zealand: Vàng Vàng[100]
  • Thuỵ Sĩ: Vàng Vàng[43]
  • Úc: 2× Bạch kim[105]
  • Ý:  Bạch kim[102]
"You and I" 6 8 10 21 23 5 98 32 14 19
  • Mỹ: 2.400.000[j]
  • Mỹ: 3× Bạch kim[99]
  • L.H. Anh:  Bạc[40]
  • New Zealand: Vàng Vàng[109]
  • Úc: Vàng Vàng[105]
"The Lady Is a Tramp"
(với Tony Bennett)
[ae] 188 50 Duets II
"Marry the Night" 29 13 11 17 16 50 34 88 40
  • Mỹ:  Bạch kim[99]
  • L.H. Anh:  Bạc[40]
Born This Way
"Applause" 2013 4 6 4 5 5 7 3 7 11 2
  • Mỹ: 2.700.000[j]
  • Pháp: 60.000[h]
  • Mỹ: 4× Bạch kim[99]
  • Canada: 2× Bạch kim[38]
  • Đức: Vàng Vàng[39]
  • L.H. Anh: Vàng Vàng[40]
  • New Zealand: Vàng Vàng[112]
  • Úc:  Bạch kim[113]
  • Ý:  Bạch kim[102]
Artpop
"Do What U Want"
(hợp tác với R. Kelly)
13 10 3 14 9 12 8 14 21 3
  • Mỹ: 1.300.000[j]
  • L.H. Anh: 248.000[g]
  • Mỹ:  Bạch kim[99]
  • Đức: Vàng Vàng[39]
  • L.H. Anh: Vàng Vàng[40]
  • Ý:  Bạch kim[102]
  • Canada: Vàng Vàng[38]
"G.U.Y." 2014 76 115 92 88 94
"Anything Goes"
(với Tony Bennett)
174 178 65 Cheek to Cheek
"I Can't Give You Anything but Love"
(với Tony Bennett)
173 76
"Til It Happens to You" 2015 95 46 171 46 Đĩa đơn không nằm trong album
"Perfect Illusion" 2016 15 21 17 31 12 31 1 16 14 5 Joanne
"Million Reasons" 4 52 16 85 39 [aj] 29 7 34 12
  • Mỹ: 1.100.000[j]
"The Cure" 2017 39 37 33 57 19 [ak] 108 41 10 36 Đĩa đơn không nằm trong album
"Joanne" [am] [an] 154 190 Joanne
"Shallow"
(với Bradley Cooper)
2018 1 1 1 4 1 1 3 1 1 2
  • Mỹ: 1.012.638[ao]
  • Canada: 134.000[ap]
  • L.H. Anh: 224.000[y]
  • Mỹ: 4× Bạch kim[99]
  • Áo:  Bạch kim[37]
  • Canada: 8× Bạch kim[38]
  • Đức:  Bạch kim[39]
  • L.H. Anh: 2× Bạch kim[40]
  • New Zealand: 3× Bạch kim[125]
  • Pháp:  Kim cương[119]
  • Úc: 8× Bạch kim[126]
  • Ý: 4× Bạch kim[102]
A Star Is Born
"Always Remember Us This Way" 41 25 26 84 25 14 18 8 12 41
  • Mỹ: 248.000[j]
  • Mỹ:  Bạch kim[99]
  • L.H. Anh: Vàng Vàng[40]
  • New Zealand:  Bạch kim[127]
  • Pháp:  Kim cương[119]
  • Úc:  Bạch kim[128]
  • Ý:  Bạch kim[102]
"I'll Never Love Again"
(với Bradley Cooper)
2019 36 73 43 27 [aq] 61 14 15 68
  • Mỹ: 226.000[j]
"Stupid Love" 2020 5 17 7 21 5 23 36 6 7 15
  • Canada: Vàng Vàng[38]
  • L.H. Anh:  Bạc[40]
Chromatica
"Rain on Me"
(với Ariana Grande)
1 8 1 9 1 2 12 6 2 5
  • Canada: Vàng Vàng[38]
  • L.H. Anh:  Bạc[40]
"—" biểu thị đĩa đơn không được phát hành hoặc không có mặt trên bảng xếp hạng tại quốc gia này.

Hợp tác

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa đơn với vai trò góp giọng, vị trí xếp hạng cao nhất, năm phát hành và tên album
Tiêu đề Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Album
Hoa Kỳ Mỹ
[14]
Bỉ
Bỉ
(FL)

[133]
Canada Canada
[7]
Cộng hòa Ireland Ireland
[134]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[8]
New Zealand New Zealand
[28]
Úc Úc
[6]
"Chillin"
(Wale hợp tác với Lady Gaga)
2009 99 [at] 73 19 12 29 Attention Deficit
"Video Phone (Extended Remix)[au]"
(Beyoncé hợp tác với Lady Gaga)
65 58 32 31 I Am... Sasha Fierce
"3-Way (The Golden Rule)"
(The Lonely Island hợp tác với Justin Timberlake và Lady Gaga)
2011 [av] The Wack Album
"—" biểu thị đĩa đơn không được phát hành hoặc không có mặt trên bảng xếp hạng tại quốc gia này.

Đĩa đơn quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa đơn quảng bá, vị trí xếp hạng cao nhất, chứng nhận và tên album
Tiêu đề Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Chứng nhận Album
Hoa Kỳ Mỹ
[14]
Canada Canada
[7]
Đức Đức
[4]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[8]
New Zealand New Zealand
[28]
Nhật Bản Nhật Bản
[136]
Pháp Pháp
[29]
Thụy Sĩ Thuỵ Sĩ
[30]
Úc Úc
[6]
Ý Ý
[31]
"Beautiful, Dirty, Rich" 2008 83 The Fame
"Vanity"[137] Đĩa đơn không nằm trong album
"Christmas Tree"
(hợp tác với Space Cowboy)
79
"Poker Face / Speechless / Your Song"[aw]
(hợp tác với Elton John)
2010 [ax] 94
"Hair" 2011 12 11 13 9 16 20 5 Born This Way
"Venus" 2013 32 19 35 76 20 9 18 31 7 Artpop
"Dope" 8 96 34 124 20 8 15 34 5
"Winter Wonderland"[139]
(với Tony Bennett)
2014 Đĩa đơn không nằm trong album
"A-Yo" 2016 66 55 66 [ay] 167 62 Joanne
"Your Song"[az] 2018 27 Revamp
"Sour Candy"
(với Blackpink)
2020 33 18 17 12 82 62 30 8 46 Chromatica
"—" biểu thị đĩa đơn quảng bá không được phát hành hoặc không có mặt trên bảng xếp hạng tại quốc gia này.

Các bài hát khác được xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách các bài hát khác được xếp hạng, năm phát hành, vị trí xếp hạng cao nhất, doanh số, chứng nhận và tên album
Tiêu đề Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận Album
Hoa Kỳ Mỹ
[14]
Canada Canada
[7]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland L.H. Anh
[142]
New Zealand New Zealand
[28]
Pháp Pháp
[29]
Thụy Điển Thuỵ Điển
[73]
Úc Úc
[6]
Ý Ý
[31]
"The Fame" 2008 73 The Fame
"Boys Boys Boys"
"Starstruck"
(hợp tác với Space CowboyFlo Rida)
[ba] 74 191
  • Mỹ:  Bạch kim[99]
"Big Girl Now"
(New Kids on the Block hợp tác với Lady Gaga)
84 The Block
"Monster" 2009 [bb] [bc] 68 29 80 The Fame Monster
"Speechless" 94 67 88
"So Happy I Could Die" 84 53
"Teeth" 107
"Scheiße" 2011 [bf] [bg] 136 Born This Way
"Black Jesus + Amen Fashion" 172
"Fashion of His Love" 140
"The Queen" 150
"White Christmas"[bh] 87 A Very Gaga Holiday
"Artpop" 2013 185 Artpop
"Diamond Heart" 2016 155 [bi] Joanne
"John Wayne" 180
"Dancin' in Circles" 186
"Angel Down" 152
"Music to My Eyes"
(với Bradley Cooper)
2018 [bj] [bk] [bl] A Star Is Born
"Look What I Found" [bm] [bn] [bo] 95
"Is That Alright?" 63 85 [bp] 96
"Before I Cry" [bq]
"Chromatica I" 2020 [br] Chromatica
"Alice" 84 78 29 [bs] 112 84
"Free Woman" [bt] 80 [bu] 143 93
"Fun Tonight" [bv] [bw] 199
"911" [bx] 85 [by] 141 92
"Plastic Doll" [bz]
"Enigma" [ca]
"Replay" [cb]
"Sine from Above"
(với Elton John)
[cc] [cd] 200
"—" biểu thị bài hát không được phát hành hoặc không có mặt trên bảng xếp hạng tại quốc gia này.

Đóng góp khác

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đóng góp khác của Gaga, bao gồm tiêu đề ca khúc, năm phát hành, tên của các nghệ sĩ tham gia vào ca khúc, tên album và vai trò đóng góp
Tiêu đề Năm Các nghệ sĩ (khác) Album Vai trò đóng góp
"Fountain of Truth"[150] 2006 Melle Mel The Portal in the Park[ce] Nghệ sĩ góp giọng
"World Family Tree"[150]
"Full Service"[153] 2008 New Kids on the Block The Block Đồng sáng tác
"Elevator"[154] The Pussycat Dolls Doll Domination
"Quicksand" Britney Spears Circus
"Fashion" 2009 Confessions of a Shopaholic Nghệ sĩ hát chính
"Make Her Say"[155] Kid Cudi hợp tác với Kanye WestCommon Man on the Moon: The End of Day Đồng sáng tác
"Murder My Heart"[153] Michael Bolton One World One Love Đồng sáng tác
"Fever" Adam Lambert For Your Entertainment
"Let Dem Hoes Fight"[153] 2010 Trina Amazin'
"Invading My Mind"[156] 2011 Jennifer Lopez Love? Đồng sản xuất
"Hypnotico"[153] Đồng sáng tác
"We're Doing a Sequel"[157] 2014 The Muppets và Tony Bennett Muppets Most Wanted Nghệ sĩ đồng hát chính
"I Want Your Love"[158] 2018 Nile Rodgers & Chic It's About Time Nghệ sĩ góp giọng
"Don't Let Me Be Misunderstood"[159] Brian Newman Showboat
"November"[160] 2019 Hunter Blair Ambrose Scorpio Rising Đồng sáng tác
"Smile" 2020 One World: Together at Home Nghệ sĩ hát chính
"The Prayer" Andrea Bocelli, Céline Dion, John Legend, Lang Lãng Nghệ sĩ đồng hát chính

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
Ghi chú
  1. ^ a b c d Doanh số tiêu thụ trên toàn cầu tính đến tháng 5 năm 2015.[32]
  2. ^ a b c Doanh số tiêu thụ tại Hoa Kỳ tính đến tháng 3 năm 2019.[33]
  3. ^ Doanh số tiêu thụ của The Fame tại Canada tính đến hết năm 2009.[34]
  4. ^ Doanh số tiêu thụ của The Fame tại L.H. Anh tính đến tháng 11 năm 2018.[35]
  5. ^ Doanh số tiêu thụ của The Fame tại Pháp tính đến tháng 1 năm 2019.[36]
  6. ^ Doanh số tiêu thụ của Born This Way tại Canada tính đến tháng 11 năm 2011.[46]
  7. ^ a b Doanh số tiêu thụ tại L.H. Anh tính đến tháng 2 năm 2017.[47]
  8. ^ a b c d e f g h i j k l m n Doanh số tiêu thụ tại Pháp tính đến tháng 5 năm 2015.[32]
  9. ^ Doanh số tiêu thụ của Artpop trên toàn cầu tính đến tháng 3 năm 2014.[49]
  10. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v Doanh số tiêu thụ tại Hoa Kỳ tính đến tháng 2 năm 2019.[50]
  11. ^ Doanh số tiêu thụ của Artpop tại L.H. Anh tính đến tháng 10 năm 2014.[51]
  12. ^ Doanh số tiêu thụ của Joanne trên toàn cầu tính đến hết năm 2016.[52]
  13. ^ Doanh số tiêu thụ của Joanne tại L.H. Anh tính đến tháng 10 năm 2018.[53]
  14. ^ Doanh số tiêu thụ của Joanne tại Pháp tính đến tháng 10 năm 2018.[54]
  15. ^ Doanh số tiêu thụ của Chromatica tại Mỹ tính đến tháng 6 năm 2020.[56]
  16. ^ Doanh số tiêu thụ của Chromatica tại L.H. Anh tính đến tháng 6 năm 2020.[57]
  17. ^ Doanh số tiêu thụ của Cheek to Cheek trên toàn cầu tính đến tháng 8 năm 2016.[58]
  18. ^ Tổng doanh số tiêu thụ của A Star Is Born trên toàn cầu tính đến hết năm 2018 và 2019.[60][61]
  19. ^ Doanh số tiêu thụ của A Star Is Born tại Hoa Kỳ tính đến tháng 9 năm 2019.[62]
  20. ^ Doanh số tiêu thụ của A Star Is Born tại Canada tính đến hết năm 2019.[63][64]
  21. ^ Doanh số tiêu thụ của A Star Is Born tại Pháp tính đến tháng 6 năm 2019.[65]
  22. ^ Doanh số tiêu thụ của The Remix trên toàn cầu tính đến tháng 7 năm 2010.[11]
  23. ^ Doanh số tiêu thụ của The Cherrytree Sessions tại Hoa Kỳ tính đến tháng 9 năm 2010.[91]
  24. ^ Doanh số tiêu thụ của "Just Dance" tại Canada tính đến hết năm 2008.[97]
  25. ^ a b c d e Doanh số tiêu thụ tại L.H. Anh tính đến tháng 5 năm 2020.[98]
  26. ^ Tổng doanh số tiêu thụ của "Poker Face" tại Canada tính đến hết năm 2008 và 2009.[34][97]
  27. ^ a b Doanh số tiêu thụ trên toàn cầu tính đến hết năm 2011.[103]
  28. ^ Doanh số tiêu thụ của "Bad Romance" tại Canada tính đến hết năm 2009.[34]
  29. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng "Dance in the Dark" lại từng đạt được vị trí thứ 22 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100.[107]
  30. ^ Doanh số tiêu thụ của "Born This Way" trên toàn cầu tính đến hết năm 2012.[108]
  31. ^ Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng "The Lady Is a Tramp" từng giành được vị trí thứ 21 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[110]
  32. ^ a b Doanh số tiêu thụ tại Hoa Kỳ tính đến tháng 4 năm 2015.[111]
  33. ^ Doanh số tiêu thụ của "Anything Goes" tại Mỹ tính đến tháng 8 năm 2014.[114]
  34. ^ Doanh số tiêu thụ của "Til It Happens to You" tại Mỹ tính đến tháng 3 năm 2016.[115]
  35. ^ Doanh số tiêu thụ của "Perfect Illusion" tại Mỹ tính đến tháng 9 năm 2016.[116]
  36. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Million Reasons" vẫn đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[118]
  37. ^ Dù không lọt vảo bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "The Cure" từng giành được vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[120]
  38. ^ Doanh số tiêu thụ của "The Cure" tại Hoa Kỳ tính đến tháng 9 năm 2018.[121]
  39. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng "Joanne" từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 50 trên bảng xếp hạng Billboard Digital Song Sales.[122]
  40. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng Canadian Hot 100, nhưng "Joanne" từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 48 trên bảng xếp hạng Hot Canadian Digital Song Sales.[123]
  41. ^ Doanh số tiêu thụ của "Shallow" tại Hoa Kỳ tính đến tháng 4 năm 2019.[124]
  42. ^ Doanh số tiêu thụ của "Shallow" tại Canada tính đến hết năm 2019.[64]
  43. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "I'll Never Love Again" vẫn giành được vị trí thứ 13 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[129]
  44. ^ Doanh số tiêu thụ của "Stupid Love" tại Mỹ tính đến tháng 3 năm 2020.[131]
  45. ^ Doanh số tiêu thụ của "Rain on Me" tại Mỹ tính đến hết tháng 5 năm 2020.[132]
  46. ^ Dù không có mặt trên bảng xếp hạng Ultratop 50, nhưng "Chillin" vẫn đạt vị trí thứ 20 trên bảng xếp hạng Flemish Ultratip.[133]
  47. ^ Tạm dịch: "bản remix mở rộng."
  48. ^ Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng "3-Way (The Golden Rule)" lại từng giành được vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[135]
  49. ^ Đây là liên khúc gồm ba bài hát mà nữ ca sĩ đã biểu diễn cùng với Elton John tại lễ trao giải Grammy lần thứ 52 (2010).[138]
  50. ^ Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng liên khúc vẫn đạt được vị trí cao nhất là hạng 13 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  51. ^ Dù không có mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "A-Yo" lại từng đạt được vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[140]
  52. ^ Là phiên bản cover của bài hát cùng tên của nam nhạc sĩ Elton John.[141]
  53. ^ Dù không góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Starstruck" từng đạt được vị trí thứ bảy Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  54. ^ Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng "Monster" vẫn từng giành được vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  55. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng Canadian Hot 100, nhưng "Monster" từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 73 trên bảng xếp hạng Hot Canadian Digital Song Sales.[123]
  56. ^ Doanh số tiêu thụ của "Speechless" tại Mỹ tính đến tháng 8 năm 2010.[143]
  57. ^ Doanh số tiêu thụ của "Speechless" tại L.H. Anh tính đến tháng 11 năm 2018.[35]
  58. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Scheiße" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 11 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  59. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng Canadian Hot 100, nhưng "Scheiße" từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 72 trên bảng xếp hạng Hot Canadian Digital Song Sales.[123]
  60. ^ Phiên bản cover do Gaga trình bày của bài hát cùng tên do nhạc sĩ Irving Berlin sáng tác vào năm 1942. Phiên bản này đã được cô trình bày trên chương trình đặc biệt được phát sóng nhân dịp lễ Tạ ơn với tựa đề A Very Gaga Thanksgiving và được đưa vào EP A Very Gaga Holiday.[144][145]
  61. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Diamond Heart" vẫn đạt vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[140]
  62. ^ Dù không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng "Music to My Eyes" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 17 trên bảng xếp hạng Billboard Digital Song Sales.[122]
  63. ^ Dù không có mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Music to My Eyes" lại từng giành được vị trí thứ 31 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[129]
  64. ^ Dù không được góp mặt trên bảng xếp hạng Swedish Singelista Chart, nhưng "Music to My Eyes" lại từng đạt vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Swedish Heatseeker Chart.[146]
  65. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Look What I Found" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 46 trên bảng xếp hạng Billboard Digital Song Sales.[122]
  66. ^ Dù không được góp mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Look What I Found" vẫn giành được vị trí thứ 27 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[129]
  67. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng Swedish Singellista Chart, nhưng "Look What I Found" lại từng vươn lên vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng Swedish Heatseeker Chart.[146]
  68. ^ Dù không được góp mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Is That Alright?" lại từng đạt vị trí thứ 40 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[147]
  69. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Before I Cry" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 45 trên bảng xếp hạng Billboard Digital Song Sales.[122]
  70. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Chromatica I" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 25 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  71. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Alice" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 3 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[148]
  72. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Free Woman" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 2 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  73. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "Free Woman" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 6 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[148]
  74. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Fun Tonight" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 11 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  75. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng UK Singles Chart, nhưng "Fun Tonight" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 87 trên bảng xếp hạng UK Sales Chart.[149]
  76. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "911" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 1 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  77. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng "911" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 5 trên bảng xếp hạng NZ Hot Singles Chart.[148]
  78. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Plastic Doll" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 17 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  79. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Enigma" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 15 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  80. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Replay" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 21 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  81. ^ Dù không được góp mặt trên Billboard Hot 100, nhưng "Sine from Above" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 16 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[107]
  82. ^ Dù không lọt vào bảng xếp hạng UK Singles Chart, nhưng "Sine from Above" lại từng đạt được vị trí cao nhất là hạng 68 trên bảng xếp hạng UK Sales Chart.[149]
  83. ^ The Portal in the Park là một cuốn sách nói (audio book) dành cho thiếu nhi của tác giả Cricket Casey, xuất bản lần đầu vào năm 2006. Tất cả bảy bài hát và phần kể chuyện trong sách được thực hiện hiện bởi nam nghệ sĩ hip-hop Melle Mel. Gaga tham gia góp giọng trong hai bài hát.[151][152]
Nguồn tham khảo
  1. ^ “Lady Gaga”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  2. ^ a b c d e f g h “Lady Gaga Album & Song Chart History: Billboard 200”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  3. ^ a b c d e f g h i “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020.
  4. ^ a b c d e f g h “Discographie von Lady Gaga” (bằng tiếng Đức). Offizielle Deutsche Charts. GfK Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  5. ^ a b c d e f g “Lady Gaga” (chọn tab "ALBUMS"). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  6. ^ a b c d e f g h i j k Vị trí xếp hạng cao nhất tại Úc:
  7. ^ a b c d e Vị trí xếp hạng cao nhất của các đĩa đơn tại Canada: “Lady Gaga Chart History: Canadian Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020.
  8. ^ a b c d Vị trí xếp hạng cao nhất của các đĩa đơn tại L.H. Anh:
  9. ^ Birchmeier, Jason. “Lady Gaga | Biography”. AllMusic. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  10. ^ a b c d e f Vị trí xếp hạng cao nhất của các album tại Canada:
  11. ^ a b Ziegbe, Mawuse (ngày 8 tháng 7 năm 2010). “Lady Gaga Remix Album Due In The U.S. Next Month”. MTV News. MTV Networks. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  12. ^ Kreps, Daniel (13 tháng 9 năm 2010). “Lady Gaga Names Her New Album 'Born This Way'. Rolling Stone. Jann S. Wenner. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  13. ^ Caulfield, Keith (1 tháng 10 năm 2014). “Tony Bennett & Lady Gaga's 'Cheek To Cheek' Debuts at No. 1”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  14. ^ a b c d e Vị trí xếp hạng cao nhất của các đĩa đơn tại Hoa Kỳ: “Lady Gaga Chart History: Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020.
  15. ^ “Le Top de la semaine: Top Singles Téléchargés – SNEP (Week 37, 2016)” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  16. ^ Caulfield, Keith (30 tháng 10 năm 2016). “Lady Gaga Scores Her Fourth No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Joanne'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  17. ^ Caulfield, Keith (14 tháng 10 năm 2018). “Lady Gaga & Bradley Cooper's 'A Star Is Born' Soundtrack Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  18. ^ Nolfi, Joey (ngày 7 tháng 6 năm 2020). “Lady Gaga's Chromatica scores biggest female album debut of 2020”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  19. ^ Caulfield, Keith (ngày 4 tháng 6 năm 2020). “Lady Gaga's 'Chromatica' on Course for No. 1 Debut on Billboard 200 Chart”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  20. ^ Savage, Mark (ngày 5 tháng 6 năm 2020). “Lady Gaga's Chromatica is the fastest-selling album of 2020”. BBC. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  21. ^ Bloom, Madison (ngày 22 tháng 5 năm 2020). “Lady Gaga and Ariana Grande Share New Song "Rain on Me": Listen”. Pitchfork. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2020.
  22. ^ “Lady Gaga Exits WME for CAA”. Billboard. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  23. ^ “Official chart analysis: weekly album sales plummet to record 21st Century low, Adele back at No.1”. Music Week. 15 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  24. ^ Trust, Gary (25 tháng 2 năm 2018). “Ask Billboard: Lady Gaga's Career Sales, The Biggest No. 2 Hits & Ed Sheeran's Latest Chart Record”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  25. ^ Trust, Gary (2 tháng 10 năm 2015). “Ask Billboard: Lady Gaga First Artist With Two 7-Million-Selling Downloads”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  26. ^ “Top Artists (Digital Singles)”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020.
  27. ^ a b c d “Discographie Lady GaGa” (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  28. ^ a b c d e f g h i “Discography Lady GaGa”. charts.nz. Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  29. ^ a b c d e f g h “Discographie Lady GaGa” (bằng tiếng Pháp). lescharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  30. ^ a b c d e “Lady GaGa” (chọn tab "CHARTS") (bằng tiếng Đức). swisscharts.com. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  31. ^ a b c d e f g h i Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng cao nhất của các đĩa đơn ở Ý:
    • Áp dụng cho tất cả ngoại trừ: “Lady GaGa” (Nhấp chuột vào ô "Artista/Band", chọn "Lady GaGa" trong ô tìm kiếm bên phải rồi chọn mục "Classifiche".). Federazione Industria Musicale Italiana. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2020.
    • A Star Is Born, "Shallow" và "I'll Never Love Again": Chọn "Lady Gaga & Bradley Cooper" trong ô tìm kiếm.
    • "Telephone": Chọn "LADY GAGA FEAT. BEYONCÉ" trong ô tìm kiếm.
    • "Born This Way": “Lady Gaga - Born This Way”. italiancharts.com. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2020.
    • Cheek to Cheek, "The Lady Is a Tramp" và "I Can't Give You Anything but Love": Chọn "TONY BENNETT & LADY GAGA" trong ô tìm kiếm.
    • "Anything Goes": Chọn "LADY GAGA & TONY BENNETT" trong ô tìm kiếm.
    • "Do What U Want": Chọn "Lady Gaga feat. R. Kelly" trong ô tìm kiếm.
    • "Rain on Me": Chọn "LADY GAGA & ARIANA GRANDE" trong ô tìm kiếm.
  32. ^ a b Hamard, Jonathan (16 tháng 5 năm 2015). “Lady Gaga: quels sont les plus gros tubes de la popstar en France ? Lea más en” (bằng tiếng Pháp). Pure Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  33. ^ Caulfield, Keith (29 tháng 3 năm 2019). “Lady Gaga & Bradley Cooper's 'A Star Is Born' Soundtrack Passes 1 Million in U.S. Sales”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  34. ^ a b c “The Nielsen Company and Billboard's 2009 Canadian Industry Report”. Nielsen SoundScan. ngày 4 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2018 – qua Business Wire. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  35. ^ a b Myers, Justin (ngày 16 tháng 11 năm 2018). “Lady Gaga's The Fame at 10”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019.
  36. ^ Ruelle, Yohann (ngày 20 tháng 1 năm 2019). “Lady Gaga: son tube 'Just Dance' était numéro un il y a 10 ans, retour sur son histoire”. Purebreak Charts (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  37. ^ a b c d e “Chứng nhận album Áo – Lady Gaga” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  38. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Chứng nhận album and single Canada – Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2020.
  39. ^ a b c d e f g h i j k l m “Gold-/Platin-Datenbank (Lady Gaga)” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  40. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac “Chứng nhận album and single Anh Quốc – Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2020. Chọn album and single trong phần Format. Type Lady Gaga vào mục "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter.
  41. ^ a b “Latest Gold / Platinum Albums”. RadioScope. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  42. ^ a b c d “France album certifications – Lady Gaga” (bằng tiếng Pháp). Syndicat national de l'édition phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  43. ^ a b c d e f g h i j k “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận (Lady Gaga)” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  44. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2020 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  45. ^ a b c d e “Chứng nhận album Ý – Lady Gaga” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Lady Gaga" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  46. ^ Nguồn tham khảo nói về doanh số tiêu thụ của Born This Way tại Canada:
  47. ^ Myers, Justin (ngày 1 tháng 2 năm 2017). “Lady Gaga's biggest songs and albums revealed”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  48. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2011 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  49. ^ Graff, Gary (ngày 7 tháng 7 năm 2014). “Lady Gaga Thanks Doritos, Defends 'Artpop' Sales, Slams Critics 'Who Don't Know F--ck About the Music Industry' at SXSW Keynote”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  50. ^ Trust, Gary (ngày 10 tháng 2 năm 2019). “Ask Billboard: Lady Gaga's Career Sales & Streams; Ariana Grande Takes '7' to 1”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  51. ^ Jones, Alan (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Official Charts Analysis: Trainor matches Clean Bandit for longest-running No.1 single of 2014”. Music Week. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  52. ^ “Anuario SGAE 2016 (Musica Grabada)” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). SGAE. ngày 24 tháng 9 năm 2017. tr. 29. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2017.
  53. ^ Jones, Alan (ngày 12 tháng 10 năm 2018). “Charts analysis: A Star Is Born races to No.1”. Music Week. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018.
  54. ^ Ruelle, Yohann (ngày 30 tháng 10 năm 2018). "Joanne" de Lady Gaga certifié disque d'or en France” (bằng tiếng Pháp). Pure Charts in France. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  55. ^ a b “Chứng nhận album Pháp – Lady Gaga” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  56. ^ Caulfield, Keith (ngày 7 tháng 6 năm 2020). “Lady Gaga Scores Sixth No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Chromatica'. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
  57. ^ Paine, Andre (ngày 5 tháng 6 năm 2020). “Lady Gaga scores fastest-selling album of 2020 so far”. Music Week. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
  58. ^ “Will Lady Gaga and Tony Bennett Collab On Another Album?”. Out. ngày 3 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  59. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2015 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  60. ^ “The Greatest Showman soundtrack named best-selling album of 2018”. Liên đoàn Công nghiệp thu âm quốc tế. ngày 13 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2019.
  61. ^ “Arashi Awarded Global Album of 2019 for Their 20th Anniversary Compilation 5x20 All the Best!! 1999–2019”. Liên đoàn Công nghiệp thu âm quốc tế. ngày 19 tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2020.
  62. ^ Caulfield, Keith (ngày 25 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift's 'Lover' Is Already 2019's Top-Selling Album in the U.S. After First Two Days on Sale”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2019.
  63. ^ Bliss, Karen (ngày 9 tháng 1 năm 2019). “Drake Dominates Nielsen Music's 2018 Canada Report”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  64. ^ a b “2019 Nielsen Music/MRC Data Canada Year-End Report” (PDF). Nielsen. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
  65. ^ Ruelle, Yohann (ngày 26 tháng 6 năm 2019). “Lady Gaga: 6 millions de ventes mondiales pour la BO du film "A Star Is Born". Purebreak Charts (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2019.
  66. ^ “Chứng nhận album Áo – Div/OST – A Star Is Born” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  67. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Motion Picture Cast Recording” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019. Chọn album trong phần Format. Type Motion Picture Cast Recording vào mục "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter.
  68. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Lady Gaga and Bradley Cooper – A Star Is Born OST” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  69. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2019 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  70. ^ a b c Vị trí xếp hạng cao nhất của các album tại Nhật Bản:
  71. ^ ザ・シングルス: レディー・ガガ, ビヨンセ, スペース・カウボーイ: 音楽 [The Singles: Lady Gaga, Beyoncé, Space Cowboy: Music] (bằng tiếng Nhật). Amazon.com. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  72. ^ a b “Discografie Lady Gaga”. ultratop.be (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  73. ^ a b c “Discography Lady Gaga”. swedishcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  74. ^ “Lady GaGa – The Remix”. Pure Charts by Charts in France (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  75. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Lady Gaga” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020. Chọn 2011年3月 ở menu thả xuống
  76. ^ “Lady GaGa – Born This Way – The Remix”. Pure Charts by Charts in France (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  77. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Lady Gaga” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020. Chọn 2011年11月 ở menu thả xuống
  78. ^ Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Hoa Kỳ:
  79. ^ Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng cao nhất của các DVD tại Áo:
    • Vị trí xếp hạng cao nhất của Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden: “Musik-DVD Top 10 Hitparaden” (bằng tiếng Hà Lan). Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm quốc tế. Hung Medien. ngày 2 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
    • Vị trí xếp hạng cao nhất của Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!: “Austria Top 40 – Musik-DVDs Top 10” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  80. ^ Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Hà Lan:
    • Vị trí xếp hạng cao nhất của Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden: “Musik-DVD Top 10 Hitparaden” (bằng tiếng Hà Lan). MegaCharts. Hung Medien. ngày 2 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
    • Vị trí xếp hạng cao nhất của Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!: “Musik-DVD Top 10 Hitparaden” (bằng tiếng Hà Lan). MegaCharts. Hung Medien. ngày 24 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  81. ^ Nguồn tham khảo về vị trí xếp hạng của các DVD tại L.H. Anh:
  82. ^ Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Nhật Bản:
  83. ^ Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Pháp:
  84. ^ Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Thuỵ Sĩ:
    • Vị trí xếp hạng cao nhất của Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden: “Musik-DVD Top 10” (bằng tiếng Đức). Swiss Music Charts. Hung Medien. ngày 27 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  85. ^ Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Úc:
  86. ^ Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng của các DVD tại Ý:
  87. ^ “The Fame Monster Video EP by Lady Gaga”. Apple Music. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2020.
  88. ^ “Chứng nhận Anh Quốc” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020.
  89. ^ “Chứng nhận video Pháp – Lady Gaga” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  90. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2012 DVDs” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  91. ^ Grein, Paul (ngày 8 tháng 9 năm 2010). “Week Ending Sept. 5, 2010: Rihanna Leads The Pack”. Yahoo! Music. Yahoo!! Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  92. ^ “Wyróżnienia – Diamentowe płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2010 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  93. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2010” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  94. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Lady Gaga” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019. Chọn 2010年12月 ở menu thả xuống
  95. ^ certweek BẮT BUỘC CHO CHỨNG NHẬN THỤY ĐIỂN.
  96. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2010 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  97. ^ a b “The Nielsen Company 2008 Canadian Music Industry Report”. Nielsen SoundScan Canada. ngày 7 tháng 1 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2020 – qua Business Wire. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  98. ^ White, Jack (ngày 29 tháng 5 năm 2020). “Lady Gaga's Top 40 biggest songs on the Official UK Chart”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2020.
  99. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020.
  100. ^ a b c d e f g h i j k “Latest Gold / Platinum Singles”. RadioScope. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  101. ^ a b c d e “ARIA Top 50 Singles for week of 2281” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. 2281. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  102. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Lady Gaga” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Lady Gaga" ở mục "Filtra". Chọn "Singoli" dưới "Sezione".
  103. ^ “IFPI Digital Music Report 2011” (PDF). Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm quốc tế. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  104. ^ a b c “France single certifications – Lady Gaga” (bằng tiếng Pháp). Syndicat national de l'édition phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  105. ^ a b c d e f “ARIA Charts – Accreditations – 2011 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  106. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2010 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  107. ^ a b c d e f g h i j k l m “Lady Gaga – Chart history: Bubbling Under Hot 100 Singles”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020.
  108. ^ “IFPI Digital Music Report 2012” (PDF). Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm quốc tế. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  109. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Lady Gaga – You and I” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  110. ^ “Bubbling Under Hot 100 – Issue Date: ngày 8 tháng 10 năm 2011”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  111. ^ Trust, Gary (ngày 5 tháng 4 năm 2015). “Ask Billboard: Lady Gaga's Top-Selling Songs & Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  112. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Lady Gaga – Applause” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  113. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2013 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  114. ^ Caulfield, Keith (ngày 11 tháng 8 năm 2014). “Lady Gaga and Tony Bennett Top Jazz Digital Songs Chart, Again”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020.
  115. ^ Trust, Gary (ngày 10 tháng 3 năm 2016). “Hot 100 Chart Moves: Lady Gaga's 'Til It Happens to You' Debuts”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020.
  116. ^ Trust, Gary (ngày 19 tháng 9 năm 2016). “Lady Gaga's 'Perfect Illusion' Makes Its Hot 100 Debut”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020.
  117. ^ a b c “ARIA Charts – Accreditations – 2017 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  118. ^ “NZ Heatseekers Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 17 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  119. ^ a b c d “Chứng nhận đĩa đơn Pháp – Lady Gaga” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  120. ^ “NZ Heatseekers Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 24 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  121. ^ “Billboard Digital Songs Chart Week Ending ngày 28 tháng 9 năm 2017” (PDF). Nielsen SoundScan. ngày 2 tháng 10 năm 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  122. ^ a b c d “Lady Gaga: Chart History - Digital Song Sales”. Billboard. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020.
  123. ^ a b c “Lady Gaga: Chart History - Hot Canadian Digital Song Sales”. Billboard. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020.
  124. ^ McIntyre, Hugh (ngày 17 tháng 4 năm 2019). “Lady Gaga And Bradley Cooper's 'Shallow' Has Now Sold One Million Copies In The U.S.”. Forbes. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  125. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Lady Gaga and Bradley Cooper – Shallow” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2019.
  126. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2020 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  127. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Lady Gaga – Always Remember Us This Way” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  128. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên ARIA2019singles
  129. ^ a b c “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 5 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  130. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2018 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  131. ^ Trust, Gary (ngày 9 tháng 3 năm 2020). “Lady Gaga's "Stupid Love" Launches at No. 5 on Hot 100, Roddy Ricch's 'The Box' Notches Ninth Week at No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  132. ^ Gary, Trust (ngày 1 tháng 6 năm 2020). “Lady Gaga & Ariana Grande's "Rain on Me" Debuts at No. 1 on Billboard Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
  133. ^ a b “Discografie Lady Gaga”. ultratop.be (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  134. ^ “Discography Lady GaGa”. irish-charts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  135. ^ Shipley, Al (ngày 10 tháng 6 năm 2011). “Radio Hits One: The Elusive Superstar Duet (Or Three-Way)”. The Village Voice. Village Voice Media. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  136. ^ “Lady Gaga – Chart History: Japan Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  137. ^ Rhapsody (ngày 4 tháng 11 năm 2008). “Vanity by Lady Gaga”. Rhapsody. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020.
  138. ^ “Poker Face / Speechless / Your Song (feat. Elton John) [Live from the 52nd Annual Grammy Awards] by Lady Gaga”. Apple Music. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2020.
  139. ^ “Winter Wonderland – Single by Tony Bennett & Lady Gaga”. iTunes Store. ngày 9 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  140. ^ a b “NZ Heatseekers Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 31 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  141. ^ Wicks, Amanda (ngày 30 tháng 3 năm 2018). “Listen to Lady Gaga's New Cover of Elton John's "Your Song". Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2019.
  142. ^ Nguồn tham khảo nói về vị trí xếp hạng cao nhất của các bài hát khác được xếp hạng tại L.H. Anh:
    • Áp dụng cho tất cả ngoại trừ: “Lady Gaga”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
    • "Starstruck": “The Official UK Singles Chart for the week ending ngày 11 tháng 4 năm 2009”. ChartsPlus. Milton Keynes: IQ Ware Ltd (398): 3.
    • "Teeth": “The Official UK Singles Chart for the week ending ngày 5 tháng 12 năm 2009”. ChartsPlus. Milton Keynes: IQ Ware Ltd (432): 3.
    • "Scheiße", "Marry the Night", "Black Jesus + Amen Fashion", "Fashion of His Love" và "The Queen": “The Official UK Singles Chart for the week ending ngày 1 tháng 6 năm 2011”. ChartsPlus. Milton Keynes: IQ Ware Ltd.
    • "Angel Down", "Diamond Heart", "John Wayne" và "Dancin' in Circles": Jones, Alan (ngày 28 tháng 10 năm 2016). “Official Charts Analysis: Elvis tops the albums chart again”. Music Week. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  143. ^ Grein, Paul (ngày 25 tháng 8 năm 2010). “Week Ending Aug. 22, 2010: Incarcerated And On Top”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020.
  144. ^ Strecker, Erin (ngày 28 tháng 11 năm 2014). “Flashback Friday: Lady Gaga Sings 'White Christmas' During Thanksgiving Special”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2019.
  145. ^ “Lady Gaga's cover of 'White Christmas' emerges online – audio”. NME. ngày 23 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2019.
  146. ^ a b “Veckolista Heatseeker – Vecka 45, ngày 9 tháng 11 năm 2018”. Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  147. ^ “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  148. ^ a b c “NZ Hot Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 8 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
  149. ^ a b “UK Sales Chart - ngày 5 tháng 6 năm 2020”. Official Charts Company. ngày 5 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
  150. ^ a b Cricket, Casey (14 tháng 11 năm 2006). The Portal in the Park. More Books Press. ISBN 0978648803.
  151. ^ “The Portal in the Park -- Lyrics by Grandmaster Melle Mel, Songs in audio book are performed by Melle. Featuring Lady Gaga”. Amazon. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2020.
  152. ^ “The Portal in the Park: Songs and Audio Book Performed by Grandmaster Melle Mel, Featuring Lady Gaga (Unabridged)”. Apple Books. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2020.
  153. ^ a b c d Stutz, Colin (ngày 8 tháng 12 năm 2016). “6 Songs You Didn't Know Lady Gaga Wrote”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2020.
  154. ^ Robson, Shannon Vestel (ngày 8 tháng 10 năm 2016). “5 Songs You Didn't Know Lady Gaga Wrote”. PopSugar. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2020.
  155. ^ “Credits / Man On The Moon: The End Of Day / Kid Cudi”. Tidal. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2020.
  156. ^ “Credits / LOVE? / Jennifer Lopez”. Tidal. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2020.
  157. ^ “Credits / Muppets Most Wanted (Original Motion Picture Soundtrack) / The Muppets”. Tidal. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2020.
  158. ^ “Credits / It's About Time / Nile Rodgers”. Tidal. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2020.
  159. ^ “Credits / Showboat / Brian Newman”. Tidal. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2020.
  160. ^ “Credits / Scorpio Rising / Hunter Blair Ambrose”. Tidal. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
NFC và những ứng dụng thú vị của nó
NFC và những ứng dụng thú vị của nó
Chúng ta thường quan tâm đến Wifi, Bluetooth, Airdrop mà bỏ qua NFC và những ứng dụng thú vị của nó
Love Live! Nijigasaki Gakuen School Idol Doukoukai Vietsub
Love Live! Nijigasaki Gakuen School Idol Doukoukai Vietsub
Các thiếu nữ mơ mộng theo đuổi School Idol. Lần này trường sống khỏe sống tốt nên tha hồ mà tấu hài!
Abraham Lincoln: Người tái sinh Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ
Abraham Lincoln: Người tái sinh Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ
Abraham Linconln luôn tin rằng, khi những Tổ phụ của nước Mỹ tuyên bố độc lập ngày 4/7/1776
Shiina Mashiro - Sakurasou No Pet Na Kanojo
Shiina Mashiro - Sakurasou No Pet Na Kanojo
Shiina Mashiro (椎名 ましろ Shiina Mashiro) là main nữ trong "Sakurasou no Pet Na Kanojo" và hiện đang ở tại phòng 202 trại Sakurasou. Shiina có lẽ là nhân vật trầm tính nhất xuyên suốt câu chuyện.