Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin (còn được gọi là ngữ quần Mizo, ngữ quầnKukish hoặc ngữ quần Tạng-Miến Trung-Nam) là một nhánh của 50 ngôn ngữ Hán-Tạng được nói ở đông bắc Ấn Độ, miền tây Miến Điện và miền đông Bangladesh. Hầu hết những người nói các ngôn ngữ này được gọi là người Mizo ở Mizoram và Manipur; cũng như Kuki trong tiếng Assam và người Chin ở Miến Điện; một số cũng được xác định là Zomi (Lushai). Tiếng Mizo là ngôn ngữ Kuki-Chin được sử dụng rộng rãi nhất.
Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin đôi khi được đặt trong nhóm Kuki-Chin-Naga, một nhóm mang tính địa lý hơn là ngôn ngữ.
Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin còn được gọi là nhóm ngôn ngữ Tạng-Himalaya Trung tâm-Nam (hay Tạng-Miến Nam Trung Bộ) bởi Konnerth (2018),[2] vì ý nghĩa tiêu cực của thuật ngữ "Kuki-Chin" đối với nhiều người nói các ngôn ngữ trong nhóm này.
Nhóm ngôn ngữ Karbi có thể có mối quan hệ chặt chẽ với nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin, nhưng Thurgood (2003) và van Driem (2011) coi Karbi thuộc nhóm không phân loại trong ngữ hệ Hán-Tạng.[3]
Các nhánh Kuki-Chin được liệt kê dưới đây theo VanBik (2009), với nhánh Tây Bắc được thêm từ Scott DeLancey và những người khác (2015),[4] và nhánh Khum (đã được tách ra từ nhánh Nam) theo Peterson (2017).[5]
Kuki-Chin
Trung tâm: Mizo (Lushai), Bawm (Sunthla và Panghawi), Tawr, Hmar, Hakha (Lai Pawi, Mi-E, Zokhua), Darlong, Pangkhua
Mara: Mara (Tlosai {Siaha và Saikao}, Hawthai {Lyvaw, Sizo và Lochei}, Hlaipao {Zyhno, Heima và Lialai}), Zyphe, Senthang, Zotung, Lautu
Tiếng Sorbung được phát hiện gần đây có thể là ngôn ngữ hỗn hợp có thể phân loại thuộc nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin hoặc Tangkhul (Mortenson & Keogh 2011).[6]
Người nói tiếng Anu-Hkongso tự nhận mình là người dân tộc Chin, mặc dù ngôn ngữ của họ có liên quan mật thiết với tiếng Mru hơn là ngôn ngữ Kuki-Chin. Nhóm ngôn ngữ Mru là một nhánh riêng của ngữ tộc Tạng-Miến và không phải là một phần của nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin.[5]
Kenneth VanBik's (2009: 23) đã phân loại các ngôn ngữ Kuki-Chin dựa trên những thay đổi âm thanh được chia sẻ (đổi mới về âm vị học) từ ngôn ngữ Kuki-Chin nguyên thủy như sau:
Kuki-Chin
Trung tâm: * k (ʰ) r-, * p (ʰ) r-> * t (ʰ) r-; * k (ʰ) l-, * p (ʰ) l-> * t (ʰ) l-; * y-> * z-
Nhánh đông bắc của Peterson tương ứng với nhánh Bắc của VanBik, trong khi nhánh tây bắc của Peterson tương ứng với nhánh Kuki cổ của các phân loại trước đây.
^Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Kuki-Chin”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
^Konnerth, Linda. 2018. The historical phonology of Monsang (Northwestern South-Central/“Kuki-Chin”): A case of reduction in phonological complexity. Himalayan Linguistics, Vol. 17(1): 19-49.
^Thurgood, Graham (2003) "A subgrouping of the Sino-Tibetan languages: The interaction between language contact, change, and inheritance." In G. Thurgood and R. LaPolla, eds., The Sino-Tibetan languages, pp. 13–14. London: Routledge, ISBN978-0-7007-1129-1.
^DeLancey, Scott; Krishna Boro; Linda Konnerth1; Amos Teo. 2015. Tibeto-Burman Languages of the Indo-Myanmar borderland. 31st South Asian Languages Analysis Roundtable, ngày 14 tháng 5 năm 2015.
^ abcdPeterson, David. 2017. "On Kuki-Chin subgrouping." In Picus Sizhi Ding and Jamin Pelkey, eds. Sociohistorical linguistics in Southeast Asia: New horizons for Tibeto-Burman studies in honor of David Bradley, 189-209. Leiden: Brill.
S. Dal Sian Pau. 2014. The comparative study of Proto-Zomi (Kuki-Chin) languages. Lamka, Manipur, India: Zomi Language & Literature Society (ZOLLS). [Comparative word list of Paite, Simte, Thangkhal, Zou, Kom, Tedim, and Vaiphei]
Lúc bạn nhận ra người khác đi làm vì đam mê là khi trên tay họ là số tiền trị giá hơn cả trăm triệu thì Sugar Daddy Nanami là một minh chứng khi bên ngoài trầm ổn, trưởng thành