Luật Nhân đạo quốc tế |
---|
Tòa án |
Nguyên tắc |
Hiệp định |
Một phần của loạt bài về |
Diệt chủng Holocaust |
---|
Phiên tòa Nürnberg (tiếng Đức: Nürnberger Prozesse) là các phiên xét xử quân sự quân Đồng Minh mở ở Nürnberg, Đức theo luật quốc tế và luật chiến tranh sau Thế chiến thứ hai, nổi tiếng vì truy tố các lãnh đạo chính trị, quân sự, tư pháp và kinh tế của Đức Quốc Xã đã kế hoạch, tiến hành hoặc tham gia cuộc Đại tàn sát và những tội chiến tranh khác; những phán quyết này đánh dấu bước ngoặt giữa luật quốc tế cổ điển và đương đại.
Phiên tòa đầu tiên và nổi tiếng nhất là của những tội phạm chiến tranh chính trước Tòa án Quân sự Quốc tế, Norman Birkett gọi "phiên tòa lớn nhất trong lịch sử," một trong các thẩm phán Anh có mặt trong suốt.[1] Từ ngày 20 tháng 11 năm 1945 đến ngày 1 tháng 10 năm 1946,[2] Tòa được giao nhiệm vụ xét xử 24 trong các lãnh đạo chính trị, quân sự quan trọng nhất của Đế chế thứ ba, bị tố mưu chiến, phạm tội tội ác chống lại hòa bình, tội ác chiến tranh cũng như tội ác chống lại loài người.
Adolf Hitler, Wilhelm Burgdorf, Hans Krebs và Joseph Goebbels đều đã tự tử trong mùa xuân năm 1945 để tránh bị bắt giữ. Heinrich Himmler bị bắt và tự tử một ngày sau khi bị bắt bởi quân Anh.[3] Krebs và Burgdorf tự sát hai ngày sau Hitler ở cùng nơi.[4] Reinhard Heydrich bị ám sát bởi đảng phái Séc năm 1942. Josef Terboven tự sát bằng thuốc nổ ở Na Uy năm 1945. Adolf Eichmann chạy trốn đến Argentina để tránh bị bắt giữ, nhưng bị bắt giữ bởi Cục tình báo Israel (Mossad) và treo cổ năm 1962. Miklós Horthy là nhân chứng trong phiên tòa Bộ trưởng diễn ra ở Nürnberg năm 1948.
Phán quyết cuối cùng của tòa án bao gồm án tử hình đối với mười hai bị cáo: Martin Bormann (vắng mặt), Hans Frank, Wilhelm Frick, Hermann Göring (tự tử trước khi thi hành bản án), Alfred Jodl, Ernst Kaltenbrunner, Wilhelm Keitel, Joachim von Ribbentrop, Alfred Rosenberg, Fritz Sauckel, Arthur Seyss-Inquart và Julius Streicher. Bảy bị cáo nhận án tù từ mười năm đến tù chung thân: Karl Dönitz, Walther Funk, Rudolf Hess, Konstantin von Neurath, Erich Raeder, Baldur von Schirach và Albert Speer. Ba bị cáo được tha bổng là Hans Fritzsche, Franz von Papen và Hjalmar Schacht. Hai bị cáo còn lại không được tuyên án, Robert Ley tự tử trước khi phiên tòa bắt đầu, Gustav Krupp không được xét xử vì lí do sức khỏe.
Bài này chủ yếu nói về phiên tòa đầu tiên, được triệu tập bởi IMT. Những phiên tòa sau đó được triệu tập bởi Tòa án Quân sự Nürnberg (NMT) do Hòa Kỳ tổ chức, bao gồm phiên tòa Bác sĩ và phiên tòa Thẩm phán. Tương tự như Nürnberg, Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông được lập ra để xét xử những tội ác trên mặt trận Thái Bình Dương.
Việc phân loại các tội danh và sự hình thành của tòa án thể hiện một tiến bộ pháp lý mà sau này được dùng bởi Liên Hợp Quốc để phát triển một bộ luật quốc tế cụ thể cho các vấn đề tội ác chiến tranh, tội ác chống lại loài người, chiến tranh xâm lược, cũng như sự thành lập của Tòa án Hình sự Quốc tế. Bản cáo trạng Nürnberg cũng lần đầu tiên đề cập đến nạn diệt chủng trong pháp luật quốc tế (Điều ba, tội ác chiến tranh: "sự tiêu diệt các nhóm chủng tộc và dân tộc, chống lại quần thể nhân dân của một số khu vực bị chiếm đóng nhằm tiêu diện chủng tộc và tầng lớp và các nhóm quốc gia, chủng tộc hoặc tôn giáo nhất định, cụ thể là người Do Thái, người Ba Lan, người Di-gan và những nhóm khác.")[5]
Thông thường, một hiệp ước hòa bình giữa các cường quốc được sử dụng để phán xét và giải quyết các mâu thuẫn và thiệt hại, trao chiến lợi phẩm cho kẻ chiến thắng và buộc kẻ bại trận bồi thường. Để chấm dứt xung đột, một hiệp ước hòa bình luôn đi kèm với một điều khoản ân xá nghiêm cấm việc khơi dậy hoặc tố cáo những tội ác gây ra trong chiến tranh. Một điều khoản ân xá như thế đã xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại: "Sau khi Ba mươi Bạo chúa bị đuổi khỏi Athens, Thrasybulus đề ra đạo luật được dân Athens chấp thuận rằng cả hai bên sẽ quên hết mọi thứ diễn ra trong chiến tranh: bắt đầu từ thời điểm này thuật ngữ ân xá được sử dụng."[6] Những điều khoản ân xá thế này vẫn còn đến năm 1962 trong Hiệp định Évian kết thúc cuộc chiến tranh Algérie.
Chấm dứt một cuộc chiến tranh bằng cách thành lập một tòa án và quy trình pháp lý xét xử lãnh đạo của những nước thua cuộc là một hành động chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Napoleon là một trong những lãnh đạo đầu tiên mà việc xét xử hình sự bởi một tòa án quốc tế được đưa ra:
Đặc biệt phổ biến ở nước Anh, ý tưởng về việc xét xử bởi các đại diện của tất cả quốc gia ở châu Âu, có điều gì đó hấp dẫn; đó sẽ là phán xét vĩ đại và quyền lực nhất lịch sử thế giới; ta có thể phát triển những nguyên tắc cho luật pháp quốc tế... và dù mọi chuyện như thế nào, đó sẽ là một dấu mốc lớn trong lịch sử
— Joseph de Maistre
Một trong những tòa án có thẩm quyền đa quốc gia xuất hiện từ năm 1899, khi Tòa án Trọng tài thường trực được thành lập và tồn tại đến ngày nay, tuy nhiên không được công nhận thẩm quyền hình sự.
Ý tưởng về một tòa án hình sự quốc tế có từ Chiến tranh thế giới thứ nhất và bắt nguồn từ những hiệp định chấm dứt nó:
Tuy nhiên những quy định không thể được áp dụng trong thực tiễn:
Năm 1922, Toà án Thường trực Công lý Quốc tế được thành lập. Không khác những tòa án trước đó, nó không có thẩm quyền hình sự và tan rã năm 1946 với sự thành lập của Liên Hợp Quốc.
—Geoffrey Lawrence
ngày 5 tháng 12 năm 1946
Đầu năm 1940, chính quyền Ba Lan lưu vong mong muốn chính phủ Anh và Pháp lên án cuộc xâm lược của Đức vào nước họ. Phía Anh ban đầu từ chối; tuy nhiên, sau khi Ba Lan xem xét và sửa đổi dự thảo, ngày 18 tháng 4 năm 1940, một tuyên bố chung được đưa ra bởi Anh, Pháp và Ba Lan. Tuyên bố tố cáo chính phủ Đức đã xâm lược Ba Lan "bằng những cuộc tấn công tàn bạo vào người dân Ba Lan và vi phạm những quy tắc của pháp luật quốc tế". Berlin bị lên án vì đã vi phạm luật chiến tranh và hiệp định quốc tế như Công ước Hague 1907. Tuy nhiên, kết luận cuối cùng không mang ý nghĩa lớn: ba nước Đồng Minh "tái khẳng định trách nhiệm của Đức cho những tội ác này và quyết tâm chỉnh đốn những tội ác gây ra với người Ba Lan." [10]
Ngày 12 tháng 6 năm 1941, đại diện của tám chính quyền lưu vong tại Luân Đôn bao gồm Bỉ, Tiệp Khắc, Hy Lạp, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan, Nam Tư cùng với các nước thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh và Ủy ban Quốc gia Pháp, ký Tuyên bố Cung điện Thánh James, thể hiện mong muốn xét xử tội phạm chiến tranh bằng một cơ quan quốc tế, được phát triển trong chiến tranh.
Ba năm rưỡi sau, ý định trừng phạt quân Đức trở nên quả quyết hơn hẳn. Ngày 1 tháng 11 năm 1943, Liên Xô, Anh và Mỹ đề ra "Tuyên bố về Tội ác của Đức ở châu Âu", đưa ra một "lời cảnh báo toàn diện" rằng, khi Đức Quốc Xã bị tiêu diệt, quân Đồng Minh sẽ "đuổi theo chúng đến tận cùng trái đất ... để công lý được thực thi. ... Tuyên bố trên không có định kiến về trường hợp những tên tội phạm chiến tranh với tội ác không xảy ra ở một vị trí địa l1y cụ thể nào và sẽ bị trừng phạt bởi quyết định chung của Chính phủ của lực lượng Đồng Minh."[11] Quyết tâm thực hiện công lý của quân Đồng Minh được thể hiện ở Hội nghị Yalta và Potsdam năm 1945.[12]
Tài liệu của Nội các Chiến tranh Anh, phát hành ngày 2 tháng 1 năm, cho thấy ngay từ tháng 12 năm 1944 Nội các đã thảo luận chính sách trừng phạt lãnh đạo Đức Quốc Xã nếu bắt được chúng. Thủ tướng Anh lúc bấy giờ, Winston Churchill, đã ủng hộ chính sách hành quyết không xét xử trong một số trường hợp, cùng với việc sử dụng Lệnh tước quyền công dân và tịch thu tài sản để tránh các trở ngại pháp lý, nhưng rồi bị can ngăn qua những buổi thảo luận với Mỹ và Liên Xô sau này.[13]
Cuối năm 1943, trong Cuộc họp Bữa tối giữa Tam Cường tại Hội nghị Tehran, lãnh đạo Liên Xô, Joseph Stalin, kiến nghị xử tử 50.000–100.000 sĩ quan Đức để Đức không thể chuẩn bị cho trận chiến nào khác. Roosevelt, tin rằng Stalin không nghiêm túc, đùa rằng "có lẽ 49.000 là đủ". Churchill, tin rằng hai người kia nghiêm túc, lên cơn phẫn nộ và lên án "cuộc hành quyết máu lạnh những người lính đã chiến đấu vì Tổ quốc của họ" và nói rằng ông thà bị "đem ra khu đất trống và bắn" chính ông hơn là tham gia vào bất kỳ hành động nào như thế.[14] Tuy nhiên, ông cũng nói rằng tội phạm chiến tranh phải trả giá cho những tội ác họ đã gây ra và vì thế, dựa trên Văn bản Moskva mà chính ông đã viết, chúng nên bị xét xử tại nơi mà tội ác đã diễn ra. Churchill hoàn toàn phản đối việc hành quyết "vì mục đích chính trị"[15][16] Theo biên bản một cuộc gặp giữa Roosevelt và Stalin ở Yalta, ngày 4 tháng 2 năm 1945 tại Lâu đài Livadia, Tổng thống Roosevelt "nói rằng ông rất sốc trước quy mô hủy diệt của Đức Quốc Xã ở Crimea và vì thế ông khát máu với người Đức hơn so với một năm trước, và ông hy vọng rằng Nguyên soái Stalin sẽ nâng cốc mừng việc hành quyết 50.000 sĩ quan của Quân đội Đức."[17]
Henry Morgenthau Jr., Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ, đề nghị một kế hoạch giải quốc xã toàn diện nước Đức;[18] đây còn gọi là Kế hoạch Morgenthau. Kế hoạch ủng hộ việc giải trừ công nghiệp bắt buộc cho Đức và hành quyết không xét xử những kẻ được gọi là "tội phạm chính", những tội phạm chiến tranh chủ chốt.[19] Roosevelt ban đầu ủng hộ kế hoạch này, và thuyết phục được Churchill ủng hộ nó với một số cắt giảm nhẹ. Tuy nhiên sau đó, chi tiết kế hoạch bị lộ gây nên sự chỉ trích mạnh mẽ trong báo chí Mỹ[20]. Roosevelt, nhận thấy rõ sự phản đối của công chúng, hủy bỏ kế hoạch, nhưng không sử dụng một biện pháp thay thế cho vấn đề. Sự sụp đổ của Kế hoạch Morgenthau yêu cầu cấp thiết một giải pháp thay thế để xử lý các lãnh đạo Đức Quốc Xã Plan. Kế hoạch "Xét xử Tội phạm Chiến tranh Châu Âu" được soạn thảo bởi Bộ trưởng Chiến tranh Henry L. Stimson và Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ. Nối tiếp cái chết của Roosevelt vào tháng 4 năm 1945, tổng thống mới, Harry S. Truman, bày tỏ sự đồng thuận cho quá trình pháp lý. Sau một cuộc đàm phán giữa Anh, Mỹ, Liên Xô và Pháp, chi tiết của cuộc xét xử được đưa ra. Phiên tòa dự kiến bắt đầu ngày 20 tháng 11 năm 1945, tại thành phố Nürnberg thuộc bang Bayern.
Ngày 20 tháng 4 năm 1942, đại diện từ chín nước bị chiếm đóng bởi quân Đức gặp mặt ở Luân Đôn để dự thảo "Nghị quyết Đồng Minh về Tội ác Chiến tranh của Đức". Tại cuộc họp mặt ở Tehran (1943), Yalta (1945) và Postdam (1945), ba cường quốc thời chiến, Anh, Mỹ và Liên Xô, nhất trí về hình thức trừng phạt những kẻ chịu trách nhiệm cho những tội ác trong Thế Chiến thứ hai. Pháp cũng được cho một ghế trong tòa án. Cơ sở pháp lý cho tòa án được xây dựng bởi Hiến chương Nürnberg, được chấp thuận bởi bốn Cường quốc vào ngày 8 tháng 8 năm 1945,[21] và giới hạn phiên tòa chỉ được "trừng phạt những tội phạm chiến tranh chính của các nước châu Âu Phe Trục".
Khoảng 200 bị cáo tội ác chiến tranh Đức bị xét xử ở Nürnberg, và 1.600 người khác bị xét xử theo quy trình truyền thống của các tòa án quân sự. Cơ sở pháp lý về quyền hạn của tòa án được định nghĩa trong Văn kiện Đầu hàng của Đức. Thẩm quyền chính trị của Đức được chuyển cho Hội đồng Kiểm soát Đồng Minh, với quyền lực tối cao ở Đức, có thể trừng phạt vi phạm luật quốc tế và luật chiến tranh. Vì tòa án chỉ có thẩm quyền trong giới hạn vi phạm luật chiến tranh, nó không có thẩm quyền tài phán với những tội danh xảy ra trước khi chiến tranh bắt đầu vào ngày 1 tháng 9 năm 1939.
Leipzig và Luxembourg ban đầu được xem xét để làm địa điểm diễn ra phiên tòa.[22] Liên Xô muốn tòa án diễn ra tai Berlin, thủ đô của 'những kẻ âm mưu phát xít',[22] nhưng Nürnberg được chọn làm địa điểm diễn ra vì hai lý do, đặc biệt với lý do đầu tiên mang tính quyết định:[23]
Để thỏa hiệp với Liên Xô, quân Đồng Minh đồng ý rằng tuy phiên tòa diễn ra ở Nürnberg, Berlin sẽ là địa điểm chính thức của cơ quan tài phán.[24][25][26] Pháp cũng được chấp thuận làm thành viên thường trực của IMT[27] và phiên xử đầu tiên (một số phiên tòa đã được lên kế hoạch) sẽ diễn ra tại Nürnberg.[24][26]
Hầu hết bị cáo đều đã bị giam giữ trước đó tại Trại Ashcan, một trung tâm xử lý và thẩm vấn tại Luxembourg, và được đưa đến Nürnberg để xét xử.
Mỗi nước trong bốn nước cử một thẩm phán và một người thẩm phán dự khuyết, cũng như các công tố viên.
Trợ giúp Jackson là các luật sư Telford Taylor,[28] William S. Kaplan[29] và Thomas J. Dodd, cùng với Richard Sonnenfeldt, một phiên dịch viên của lục quân Hoa Kỳ. Trợ giúp Shawcross gồm có Thiếu tá David Maxwell-Fyfe, John Wheeler-Bennett và Mervyn Griffith-Jones. Shawcross cũng chiêu mộ một luật sư tranh tụng trẻ, Anthony Marreco, con trai của một người bạn của ông, để giúp đoàn nước Anh xử lý lượng công việc lớn.
Hầu hết luật sư bào chữa là các luật sư người Đức,[30] bao gồm Georg Fröschmann, Heinz Fritz (Hans Fritzsche), Otto Kranzbühler (Karl Dönitz), Otto Pannenbecker (Wilhelm Frick), Alfred Thoma (Alfred Rosenberg), Kurt Kauffmann (Ernst Kaltenbrunner), Hans Laternser (tổng tham mưu và chỉ huy cấp cao), Franz Exner (Alfred Jodl), Alfred Seidl (Hans Frank), Otto Stahmer (Hermann Göring), Walter Ballas (Gustav Krupp von Bohlen und Halbach), Hans Flächsner (Albert Speer), Günther von Rohrscheidt (Rudolf Hess), Egon Kubuschok (Franz von Papen), Robert Servatius (Fritz Sauckel), Fritz Sauter (Joachim von Ribbentrop), Walther Funk (Baldur von Schirach), Hanns Marx (Julius Streicher), Otto Nelte (Wilhelm Keitel), và Herbert Kraus/Rudolph Dix (cả hai làm việc cho Hjalmar Schacht). Các luật sư chính được hỗ trợ bởi tổng cộng 70 trợ lý, thư ký và luật sư.[31] Các nhân chứng bào chữa bao gồm một vài người tham gia vào các tội ác chiến tranh trong Thế Chiến thứ hai, như Rudolf Höss.
IV. Phiên tòa công bằng cho bị cáo Điều 16.
Bản cáo trạng sẽ bao gồm đầy đủ các chi tiết cụ thể các cáo buộc chống lại Bị cáo. Một bản sao của Bản cáo trạng và tất cả tài liệu được nộp cùng với Bản cáo trạng, được dịch sang ngôn ngữ mà anh ta hiểu, sẽ được cung cấp cho Bị cáo vào thời gian thích hợp trước phiên tòa.Tòa án Quân sự Quốc tế được bắt đầu vào ngày 19 tháng 11 năm 1945 tại Cung điện Công lý ở Nürnberg.[32][33] Phiên đầu tiên được chủ trì bởi thẩm phán Liên Xô Nikitchenko. Bản cáo trạng chống lại 24 tội phạm chiến tranh và 7 tổ chức – lãnh đạo của Đảng Quốc Xã, Nội các Đệ Tam Đế chế, Schutzstaffel (SS), Sicherheitsdienst (SD), Gestapo, Sturmabteilung (SA) và "Tổng tham mưu và Chỉ huy Cấp cao", bao gồm một vài cấp chỉ huy quân đội.[avalon 1] Các tổ chức này được coi là "tội phạm" nếu bị kết tội.
Bản cáo trạng gồm có bốn tội danh:
Danh sách dưới đây liệt kê các bị cáo, tội danh và phán quyết. Đối với từng tội danh, 24 bị cáo hoặc là bị buộc tội nhưng không bị kết tội (I), bị buộc tội và kết tội (G), hoặc không bị buộc tội (—):
Ảnh | Tên | Cáo trạng | Mức án | Ghi chú | |||
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | 2 | 3 | 4 | ||||
Martin Bormann | I | — | G | G | Tử hình (vắng mặt) | Người kế nhiệm Hess làm Bí thư Đảng Quốc xã. Tuyên án vắng mặt.[avalon 2] Thi thể được tìm thấy ở Berlin năm 1972 và được xác định chết ngày 2 tháng 5 năm 1945 (theo thông tin của Artur Axmann); được cho là bị giết khi chạy trốn khỏi Berlin trong những ngày cuối của cuộc chiến. | |
Karl Dönitz | I | G | G | — | 10 năm | Tư lệnh Hải quân Đức Quốc Xã từ 1943, kế nhiệm Raeder. Người khởi xướng chiến dịch U-boat. Trở thành Tổng thống Đức trong thời gian ngắn sau cái chết của Hitler.[avalon 3] Bị kết án thực hiện chiến tranh tàu ngầm không giới hạn vi phạm Hiệp ước Hải quân Luân Đôn thứ hai 1936, nhưng không bị trừng phạt vì tội danh đó bởi Hoa Kỳ cũng vi phạm điều luật này. Được thả ngày 1 tháng 10 năm 1945, chết ngày 24 tháng 12 năm 1980. Luật sư bào chữa: Otto Kranzbühler. | |
Hans Frank | I | — | G | G | Tử hình | Luật sư của Đảng Quốc xã, Toàn quyền Đức Quốc xã ở Ba Lan bị chiếm đóng 1939–45. Ăn năn hối cải.[avalon 4] Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. | |
Wilhelm Frick | I | G | G | G | Tử hình | Bộ trưởng Nội vụ của Hitler 1933–43 và là Bảo hộ công của Bohemia và Moravia 1943–45. Đồng tác giả của Luật Nürnberg.[avalon 5] Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. | |
Hans Fritzsche | I | I | I | — | Tha bổng | Bình luận viên đài phát thanh nổi tiếng;Giám đốc Cục Báo chí Quốc nội (1938), Giám đốc Cục Truyền thanh thuộc Bộ Tuyên truyền Quốc Xã.[avalon 6] Phát hành đầu năm 1950[34] Fritzsche có một sự nghiệp thành công trong đài phát thanh Đức, vì giọng của ông giống với giọng của Goebbels.[35] Chết ngày 27 tháng 9 năm 1953. | |
Walther Funk | I | G | G | G | Chung thân | Bộ trưởng Kinh tế (1937–1945); kế nhiệm Schacht làm Thống đốc Reichsbank, ngân hàng trung ương của Đức. Được thả ngày 16 tháng 5 năm 1957 vì lý do sức khỏe.[avalon 7] Chết ngày 31 tháng 5 năm 1960. | |
Hermann Göring | G | G | G | G | Tử hình | Thống chế Đế chế, Tổng tư lệnh của Luftwaffe 1935–45, Toàn quyền Kế hoạch bốn năm 1936–40, Chỉ huy trưởng Gestapo trước khi SS nắm quyền vào tháng 4 năm 1934. Ban đầu có thứ bậc cao thứ hai trong Đảng Quốc Xã và được chỉ định làm người kế vị Hitler, ông xảy ra mâu thuẫn với Hitler vào tháng 4 năm 1945. Sĩ quan Quốc Xã cấp cao nhất bị xét xử ở Nürnberg.[36] Tự tử đêm trước ngày thi hành án.[avalon 8] | |
Rudolf Hess | G | G | I | I | Chung thân |
Phó Quốc trưởng Đức Quốc Xã cho đến khi ông bay đến Scotland năm 1941 nhằm đàm phán hòa bình với Anh. Bị bỏ tù kể từ đó. Sau xét xử, bị giam giữ tại Nhà tù Spandau, nơi ông tự sát năm 1987.[avalon 9] | |
Alfred Jodl | G | G | G | G | Tử hình | Đại tướng Wehrmacht, hạ cấp của Keitel và là Tư lệnh Hành quân của Bộ Tư lệnh Tối cao Wehrmacht 1938–45. Ký lệnh hành quyết không xét xử quân biệt kích Đồng Minh và cấp ủy Liên Xô.[avalon 10] Ký Văn kiện Đầu hàng của Đức ngày 7 tháng 5 năm 1945 tại Reims với tư cách đại diện của Karl Dönitz. Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. Được Tòa án Bài trừ Quốc xã xóa tội năm 1953, nhưng rồi bị hủy bỏ. | |
Ernst Kaltenbrunner | I | — | G | G | Tử hình | Viên chức SS cao nhất bị xét xử tại Nürnberg. Chủ tịch Văn phòng An ninh Chính Reich 1943–45, tổ chức Quốc Xã bao gồm dịch vụ tình báo (SD), Cảnh sát ngầm quốc gia (Gestapo) và Cảnh sát hình sự (Kripo) và có quyền lãnh đạo Einsatzgruppen. Phủ nhận tất cả cáo buộc.[avalon 11] Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. | |
Wilhelm Keitel | G | G | G | G | Tử hình | Chỉ huy trưởng của Bộ Tư lệnh Tối cao Wehrmacht (OKW) và là Bộ trưởng Chiến tranh 1938–45. Được biết với lòng trung thành tuyệt đối với Hitler.[37] Ký nhiều sắc lệnh yêu cầu quân binh và tù nhân chính trị bị hành quyết. Ăn năn hối cải.[avalon 12] Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. | |
Gustav Krupp von Bohlen und Halbach | I | I | I | Không phán quyết |
Nhà công nghiệp lớn. C.E.O. của Friedrich Krupp AG 1912–45. Sức khỏe không phù hợp cho xét xử; bị liệt một phần từ năm 1941. Do một sơ suất, thay vì con ông Alfried (người điều hành Krupp hầu hết thời gian diễn ra chiến tranh), Gustav được chọn cho bản cáo trạng.[38] Các công tố viên cố thay thế con ông trong bản cáo trạng nhưng quan tòa bác bỏ do sắp đến phiên xét xử. Tuy nhiên, các cáo buộc chống lại ông vẫn còn trong trường hợp ông phục hồi (chết vào tháng 2 năm 1950).[39] Alfried bị xét xử trong một phiên tòa Nürnberg riêng (Phiên tòa Krupp) về việc sử dụng nô lệ, từ đó thoát khỏi những tội danh nặng hơn và khả năng bị xét xử. | ||
Robert Ley | I | I | I | I | Không phán quyết |
Chỉ huy của Mặt trận Lao động Đức (DAF).
Tự sát ngày 25 tháng 10 năm 1945, trước khi tòa án bắt đầu. Bị cáo buộc nhưng không được tha hay kết tội do phiên tòa không diễn ra. | |
Konstantin von Neurath | G | G | G | G | 15 năm | Bộ trưởng Bộ Ngoại giao 1932–38, kế nhiệm Ribbentrop. Sau trở thành Bảo hộ công của Bohemia và Moravia 1939–43. Nghỉ phép từ 1941, ông từ chức năm 1943 do tranh chấp với Hitler. Được thả do sức khỏe yếu ngày 6 tháng 11 năm 1954[avalon 13] sau khi lên cơn đau tim. Chết ngày 14 tháng 8 năm 1956. | |
Franz von Papen | I | I | — | — | Tha bổng | Thủ tướng Đức năm 1932 và Phó Thủ tướng dưới quyền Hitler năm 1933–34. Đại sứ Áo 1934–38 và đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ 1939–44. Tuy được tha bổng tại Nürnberg, von Papen bị phân loại là tội phạm chiến tranh năm 1947 bởi một tòa án giải Quốc Xã Đức, và phải nhận tám năm lao động khổ sai. Được tha bổng khi kháng án sau khi hai năm lao động.[avalon 14] | |
Erich Raeder | G | G | G | — | Chung thân | Tổng tư lệnh Hải quân Đức Quốc Xã từ 1928 đến khi nghỉ hưu năm 1943, Dönitz kế nhiệm. Được thả (sức khỏe yếu) ngày 26 tháng 9 năm 1955.[avalon 15] Chết ngày 6 tháng 11 năm 1960. | |
Joachim von Ribbentrop | G | G | G | G | Tử hình | Thượng tướng SS. Đại sứ Anh 1936–38. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao 1938–45.[avalon 16] Ăn năn hối cái.[40] Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. | |
Alfred Rosenberg | G | G | G | G | Tử hình | Nhà lý luận và tư tưởng Học thuyết chủng tộc. Bộ trưởng Lãnh thổ Chiếm đóng phía đông 1941–45.[avalon 17] Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. | |
Fritz Sauckel | I | I | G | G | Tử hình | Gauleiter của Thüringen 1927–45. Lãnh đạo của chương trình lao động nô dịch Đảng Quốc Xã 1942–45.[avalon 18] Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. Luật sư bào chữa: Robert Servatius | |
Dr. Hjalmar Schacht | I | I | — | — | Tha bổng | Chủ ngân hàng và nhà kinh tế nổi bật. Chủ tịch của Reichsbank 1923–30 & 1933–38 và Bộ trưởng Bộ Kinh tế 1934–37. Thừa nhận đã vi phạm Hiệp ước Versailles.[avalon 19] Nhiều người ở Nürnberg cáo buộc người Anh đã giúp Schacht thoát tội để bảo vệ công nghiệp và tài chính Đức; Francis Biddle tiết lộ Geoffrey Lawrence khẳng định rằng Schacht, một "người đàn ông có tư cách", không hề giống những "tên du côn" khác trong tòa án.[41] Năm 1944, ông bị giam giữ trong một trại tập trung của Đức Quốc Xã, và phẫn nộ khi bị xét xử dưới danh một tội phạm chiến tranh.[42] | |
Baldur von Schirach | I | — | — | G | 20 năm | Đứng đầu Hitlerjugend 1933–40, Gauleiter của Viên 1940–45. Ăn năn hối cải.[avalon 20] | |
Arthur Seyss-Inquart | I | G | G | G | Tử hình | Một phần của Anschluss và Thủ tướng Áo trong thời gian ngắn năm 1938. Cấp dưới của Frank tại Ba Lan 1939–40. Sau là Reichskommissar của Hà Lan 1940–45. Ăn năn hối cải.[avalon 21] Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. | |
Albert Speer | I | I | G | G | 20 năm | Bạn và là kiến trúc sư ưa thích của Hitler. Bộ trưởng Quân bị từ 1942 đến khi cuối cuộc chiến. Ông cuối cùng phải chịu trách nhiệm cho việc sử dụng lao động nô lệ từ các vùng bị chiếm đóng cho sản xuất vũ khí. Ăn năn hối cải.[avalon 22] Ra tù ngày 1 tháng 10 năm 1966. Chết ngày 1 tháng 9 năm 1981. | |
Julius Streicher | I | — | — | G | Tử hình | Gauleiter của Franconia 1922–40, sau đó được từ bỏ chính quyền nhưng được Hitler cho giữ chức vụ chính thức. Nhà xuất bản tờ báo hàng tuần Der Stürmer bài Do Thái.[avalon 23] Treo cổ ngày 16 tháng 10 năm 1946. |
Các bị cáo phải làm bài trắc nghiệm Rorschach, cùng với Trắc nghiệm Năng lực Nhận thức Chủ đề Tổng Quát (TAT) và phiên bản tiếng Đức của Bài kiểm tra trí tuệ Wechsler-Bellevue (WAIS).[43] Tất cả bị cáo đều thông minh trên mức trung bình, một số rất thông minh.[44]
Tên | Chỉ số IQ[45][46] |
---|---|
Dönitz, Karl | 138 |
Frank, Hans | 130 |
Frick, Wilhelm | 124 |
Fritzsche, Hans | 130 |
Funk, Walther | 124 |
Göring, Hermann | 138 |
Hess, Rudolf | 120 |
Jodl, Alfred | 127 |
Kaltenbrunner, Ernst | 113 |
Keitel, Wilhelm | 129 |
Neurath, Konstantin von | 125 |
Papen, Franz von | 134 |
Raeder, Erich | 134 |
Ribbentrop, Joachim von | 129 |
Rosenberg, Alfred | 127 |
Sauckel, Fritz | 118 |
Schacht, Hjalmar | 143 |
Schirach, Baldur von | 130 |
Seyss-Inquart, Arthur | 141 |
Speer, Albert | 128 |
Streicher, Julius | 106 |
Trong suốt các phiên tòa, cụ thể giữa tháng 1 và tháng 7 năm 1946, các bị cáo và một số nhân chứng được phỏng vấn bởi bác sĩ tâm thần Mỹ Leon Goldensohn. Ghi chú của ông cho thấy hành vi lời nói của các bị cáo còn sống; chúng được chỉnh sửa thành sách và xuất bản năm 2004.[47] Jean Delay là chuyên gia tâm thần học cho phái đoàn Pháp trong phiên xét xử Rudolf Hess.[avalon 24]
Bên tố cáo thành công trong việc vén màn những diễn tiến dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai, cướp đi ít nhất 55 triệu mạng người ở châu Âu,[49] cũng như quy mô của tội ác diễn ra dưới chính quyền Hitler. Mười hai bị cáo nhận án tử hình, bảy người phải ở tù (từ 10 năm đến tù chung thân), ba người được tha bổng và hai bị cáo không bị kết tội.[50]
Các án tử được thực hiện ngày 16 tháng 10 năm 1946 bằng treo cổ sử dụng phương thức thả tiêu chuẩn thay vì thả dài. Quân đội Mỹ bác bỏ thông tin cho rằng chiều dài thả rơi quá ngắn khiến các bị cáo chết từ từ do siết cổ thay vì chết ngay lập tức do gãy cổ,[51] nhưng vẫn có bằng chứng cho thấy một số kẻ bị kết tội chết từ từ trong đau đớn, vùng vẫy trong khoảng 14 đến 28 phút trước khi cuối cùng ngạt thở mà chết.[52][53] Người hành hình là John C. Woods.[54] Buổi xử tử diễn ra tại phòng tập gym của tòa nhà (bị phá hủy năm 1983).[55]
Mặc dù tin đồn từ lâu rằng các thi thể được đem đến Dachau và hỏa táng, thực chất quân Đồng Minh đã thiêu chúng ở một lò hỏa táng tại Munich, và tro cốt được rải khắp sông Isar.[56] Quan tòa người Pháp đề nghị rằng những tù nhân quân sự (Göring, Keitel và Jodl) bị xử bắn, theo tiêu chuẩn của các tòa án quân sự, nhưng Biddle và các thẩm phán Liên Xô phản đối, cho rằng các sĩ quan quân đội đã vi phạm đạo đức quân đội và không đáng để được chết bằng xử bắn, hình thức xử tử được coi là nhân đạo hơn.[cần dẫn nguồn] Những tên tội phạm nhận án tù được chuyển đến nhà tù Spandau năm 1947.
Trong số 12 bị cáo nhận án tử, hai người không bị treo cổ: Martin Bormann bị kết án khi vắng mặt (quân Đồng Minh không biết ông đã chết trong lúc chạy trốn khỏi Berlin vào tháng 5 năm 1945), và Hermann Göring tự sát vào đêm trước buổi hành quyết. 10 bị cáo còn lại đều bị treo cổ chết.
Định nghĩa của các tội danh được xếp vào tội ác chiến tranh được mô tả bởi bộ nguyên tắc Nürnberg, một tập hợp các văn bản hướng dẫn được tạo ra từ kết quả của tòa án. Các thí nghiệm y khoa thực hiển bởi các bác sĩ Đức bị truy tố trong phiên tòa Bác sĩ dẫn đến sự ra đời của Bộ quy tắc Nürnberg để kiểm soát các thử nghiệm tương lai liên quan đến con người, một bộ nguyên tắc nhân đạo cho thí nghiệm với con người.
Trong số các tổ chức bị tố cáo có những tổ chức sau không bị kết tội:
Quan chức Hoa Kỳ thực hiện các phiên tòa Nürnberg tiếp theo trong vùng chiếm đóng của Mỹ.
Các phiên tòa khác diễn ra sau phiên tòa Nürnberg đầu tiên bao gồm:
Tuy thẩm phán Anh Geoffrey Lawrence là người được chọn làm Chánh án, quan tòa nổi bật nhất có lẽ là vị thẩm phán người Mỹ, Francis Biddle.[57] Trước đó, Biddle từng làm Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ nhưng được Truman yêu cầu từ chức đầu năm 1945.[58]
Một số người cho rằng Truman đã chọn Biddle làm thẩm phán Mỹ chính cho phiên tòa nhằm xin lỗi cho việc yêu cầu ông từ chức.[58] Trớ trêu thay, Biddle trong lúc còn là Bộ trưởng được đã phản đối ý định xét xử các lãnh đạo Đức Quốc Xã về những tội ác gây ra trước chiến tranh và đã gửi đi một bản ghi nhớ về vấn đề này ngày 5 tháng 1 năm 1945.[59] Bản ghi nhớ cũng nói rõ ý kiến của Biddle rằng thay vì kế hoạch ban đầu xét xử toàn bộ tổ chức, cần phải có nhiều phiên tòa hơn dành cho từng bị cáo cụ thể.[59]
Biddle sớm đổi ý, và chấp thuận kế hoạch đã chỉnh sửa vào ngày 21 tháng 1 năm 1945, có lẽ vì hạn chế trong thời gian do phiên tòa sẽ là một trong những vấn đề chính tại hội nghị Yalta.[60] Tại phiên tòa, tòa án Nürnberg quy định rằng bất kì thành viên nào của tổ chức bị kết tội ác chiến tranh, ví dụ như SS hay Gestapo, và tham gia sau năm 1939 sẽ được coi là tội phạm chiến tranh.[61] Biddle thuyết phục được các thẩm phán khác miễn trừ những ai được chọn hoặc không biết về những tội ác mà các tổ chức này gây ra.[58]
Công tố viên Robert H. Jackson không chỉ đóng một vai trò quan trọng trong phiên tòa, mà cũng trong việc hình thành Tòa án Quân sự Quốc tế. Ông dẫn đầu phái đoàn Mỹ đến Luân Đôn vào mùa hè năm 1945, ủng hộ kế hoạch xét xử lãnh đạo Đức Quốc Xã như là âm mưu tội phạm.[62] Theo Airey Neave, Jackson cũng là người đằng sau quyết định bao gồm tất cả thành viên của bất kỳ tổ chức nào trong sáu tổ chức tội phạm có trong bản cáo trạng, tuy nhiên bị IMT bác bỏ vì điều này chưa từng có tiền lệ ngay cả trong luật quốc tế hay luật pháp của bất kỳ nước Đồng Minh nào.[63] Jackson cũng cố gắng xét xử Alfried Krupp thay vì cha ông, Gustav, và thậm chí đề nghị Alfried tự nguyện được xét xử thay cho cha mình.[64] Cả hai kiến nghị đều bị bác bỏ bởi IMT, cụ thể là Lawrence và Biddle, và một số nguồn tin cho rằng điều này khiến Jackson không được Biddle coi trọng.[64]
Thomas Dodd là công tố viên cho Hoa Kỳ. Một lượng lớn bằng chứng được sử dụng để chứng minh các cáo trạng, đặc biệt với những ghi chép đầy đủ các hành động của Đức Quốc Xã vẫn được lưu giữ. Các công tố viên có những hồ sơ được ký bởi Đảng viên Quốc Xã cho mọi thứ, từ văn phòng phẩm cho đến hơi Zyklon B, được dùng để giết tù nhân của các trại hành quyết. Thomas Dodd chiếu một loạt các bức hình cho tòa án sau khi đọc qua các văn bản về tội ác của những bị cáo trong chiến tranh. Các bức hình được thu thập ghi những tù nhân được giải phóng khỏi trại tập trung.[65]
Henry F. Gerecke , một mục sư Luther, và Sixtus O'Connor, một linh mục Công giáo, được đưa đến để trông coi các bị cáo.[66] Hình ảnh của tòa án được chụp bởi một nhóm các nhiếp ảnh gia ảnh tĩnh của Lục quân Mỹ, dưới sự chỉ đạo của nhiếp ảnh gia chính Ray D'Addario.[67]
Tòa án được ca ngợi vì đã xác định rõ "tội ác vi phạm luật pháp quốc tế được thực hiện bởi con người, không phải bởi các thực thể trừu tượng, và chỉ khi trừng phạt những cá nhân thực hiện các tội ác đó thì luật pháp quốc tế mới được thực thi."[68] Sự hình thành của Tòa án Quân sự Quốc tế mở đường cho các phiên tòa xét xử những quan chức Quốc Xã thấp hơn và các bác sĩ Quốc Xã, những người đã thực hiện thí nghiệm trên cơ thể tù nhân trại tập trung. Đồng thời đó cũng là hình mẫu cho Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông xét xử các quan chức Nhật Bản vì tội ác chống lại hòa bình và loài người. Nó cũng làm mẫu cho Phiên tòa Eichmann và các tòa án ngày nay ở Den Haag, cho việc xét xử những tội ác diễn ra trong cuộc chiến tranh Nam Tư, và tại Arusha, cho việc xét xử những người chịu trách nhiệm cho cuộc thảm sát ở Rwanda.
Tòa án Nürnberg có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của luật hình sự quốc tế. Quyết định của Tòa án Nürnberg là hình mẫu cho:
Ủy ban Pháp luật Quốc tế, theo yêu cầu của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, xuất bản báo cáo Các nguyên tắc của Pháp luật Quốc tế được công nhận trong Hiến chương của Tòa án Nürnberg và trong Phán quyết của Toà án (Niên giám của Ủy ban Pháp luật Quốc tế, 1950, quyển II[69]).
Ảnh hưởng của tòa án còn có thể thấy trong các kiến nghị về một tòa án hình sự quốc tế thường trực, và dự thảo của các bộ luật hình sự quốc tế, sau được chuẩn bị bởi Ủy ban Pháp luật Quốc tế.
Du khách hiện có thể tham quan phòng xét xử 600 những ngày không diễn ra phiên tòa. Một triển lãm thường xuyên đã được dành riêng cho các phiên tòa.[70]
Tòa án Nürnberg tạo điều kiện cho phong trào cho sự thành lập của một tòa án hình sự quốc tế thường trực, cuối cùng dẫn đến Đạo luật của Tòa án Quân sự Quốc tế được chấp thuận hơn năm mươi năm sau. Phong trào này bắt nguồn từ những mâu thuẫn trong phương thức xét xử giữa hệ thống tòa án Đức và hệ thống tòa án Mỹ. Những tội ác và âm mưu chiến tranh chưa từng có trong hệ thống luật châu Âu lục địa. Do đó, phía nước Đức cảm thấy không công bằng khi kết tội các bị cáo vì âm mưu phạm tội, trong khi các thẩm phán từ những nước dùng thông luật thì đã quen với việc đó.[71]
Đây [IMT] là tòa án hình sự quốc tế đầu tiên thành công, và từ đó đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển luật pháp hình sự quốc tế và các tổ chức quốc tế.[72]
Hầu hết phiên tòa, nếu không nói là toàn bộ, đều dựa trên những văn bản, hiệp ước, tuyên bố, báo chí,... của chính quyền. Trừ những bị cáo, có rất ít lời khai của các nạn nhân. Sự thiếu sót này có lẽ đã khiến cho chính sách diệt chủng của Đức Quốc Xã, còn gọi là giải pháp cuối cùng, không được phát hiện sớm hơn. Đồng thời định nghĩa của tội ác chống lại loài người không bao gồm những tội ác trước 1939 và sau ngày 8 tháng 5 năm 1945. Joseph Kessel cho rằng: "Các hình vẽ, văn bản, giấy tờ chứng thực khá là dài dòng".[73]
Cuối phiên tòa, hai khuynh hướng xuất hiện rõ ràng trên báo chí quốc tế, trong khi đó báo chí Đức, dưới sự kiểm soát của phe Đồng Minh, không cho phép chỉ trích mạnh mẽ nào.
Một mặt, báo chí Liên Xô, cũng như các nước cộng sản khác và cánh tả Pháp phản đối ba trường hợp tha bổng. Với một số nhà báo, đó là "sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản và quân sự Đức".
Ngược lại, ở Mỹ và Anh, truyền thông thương tiếc cho sự hà khắc của phán quyết. Thượng nghị sĩ Robert Taft nói về "sự vi phạm công lý"; bình luận viên quân sự người Anh Fuller so sánh những viên chức Đức với người Do Thái. Taft cũng có so sánh tương tự, nói rằng "tìm sự khác nhau [giữ số phận của người Do Thái và những viên tướng].
—Joachim von Ribbentrop
Ngày 20 tháng 11 năm 1945
Những người chỉ trích tòa án Nürnberg cho rằng các tội danh chống lại bị cáo chỉ được xem là "tội ác" sau khi chúng đã được thực hiện nên phiên tòa không hợp lệ và khiến đây là một hình thức của "công lý của kẻ chiến thắng".[75][76]
Giáo sư Michael Biddiss cho rằng, "Tòa án Nürnberg tiếp tục ám ảnh chúng ta. ... Câu hỏi đặt ra về điểm mạnh và điểm yếu của chính quá trình tố tụng."[77][78][79] Một số người cho rằng Phát xít và những đồng phạm cần được xét xử bởi những nước trung lập trong chiến tranh, thậm chí là bởi các tòa án Đức chống phát xít. Giáo sư Ludwig Erhard, thủ tướng Tây Đức từ 1963 đến 1966, chỉ trích rằng:
Đáng tiếc là tại Nürnberg, luật pháp chỉ được sử dụng bởi những kẻ thắng trận. Lời hứa sử dụng luật lệ chung, không phải của những kẻ chiến thắng sẽ đáng tin hơn nếu thanh kiếm công lý được cầm bởi những nước trung lập. Đúng là có rất ít nước trung lập trong cuộc chiến này, nhưng vẫn có Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, những nước mà cả chuyên gia luật pháp quốc tế và các thẩm phán đều biết.[80]
Tính hồi tố và đối phó của định nghĩa về tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người là một vấn đề lớn trong nền tảng của luật pháp, với nguyên tắc bất hồi tố của luật hình sự. Tuy nhiên, nguyên tắc này không được xem xét trong các hiệp định quốc tế, ít nhất là đến năm 1945. Một số điều nhất định của Hiến chương của Tòa án quân sự Quốc tế, cụ thể 19 và 21, giảm nhẹ một số yêu cầu kĩ thuật trong việc thu thập bằng chứng. Điều 19 viết "Tòa án không bị giới hạn bởi những quy định kĩ thuật của bằng chứng... và sẽ sử dụng bất kì chứng cứ nào có giá trị làm chứng". Những điều này gây tranh cãi và nghi ngờ về tính hợp lệ của một số lí lẽ được đưa ra trong tòa án. Quincy Wright, viết mười tám tháng sau phán quyết của IMT, giải thích về sự chống đối với Tòa án:
Cơ sở nền tảng cho Hiến chương Liên Hợp Quốc, Điều lệ của Tòa án Công lý Quốc tế và Điều lệ của Tòa án Nürnberg khác xa những giả định thực chứng ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của những luật gia trong thế kỷ 19. Hậu quả là những hoạt động của các tổ chức đó thường xuyên bị chỉ trích mạnh mẽ bởi các luật gia thực chứng ... [những người] đã đặt câu hỏi: Lấy vị dụ, làm thế nào các nguyên tắc được đưa ra bởi Tòa án Nürnberg có giá trị pháp lý cho đến khi phần lớn các quốc gia đã nhất trí về một tòa án có thẩm quyền thực thi những nguyên tắc đó? Làm thế nào mà Tòa án Nürnberg có thẩm quyền để kết tội Đức xâm lược, trong khi Đức vẫn chưa chấp nhận tòa án? Làm thế nào mà luật pháp được chấp nhận lần đầu trong Hiến chương Nürnberg năm 1945, lại có thể dùng cho những bị cáo tại phiên tòa với hành vi bị cáo buộc được thực hiện nhiều năm về trước?[81]
Phó Chánh án Tòa án Tối cao William O. Douglas cáo buộc quân Đồng Minh đã phạm tội "thay thế nguyên tắc bằng quyền lực" tại Nürnberg. "Tôi nghĩ lúc đó và cả bây giờ rằng Tòa án Nürnberg không hề có nguyên tắc," ông viết. "Luật lệ được tạo ra có hiệu lực hồi tố để thỏa mãn mong muốn và dư luận lúc bấy giờ."[82]
Để củng cố nền tảng pháp lý của phiên tòa, những lập luận sau về tính bất hồi tố của luật hình sự đã được đưa ra:
Tháng 10 năm 1945, Jackson, trong một bức thư viết về những điểm yếu của tòa án, nói với Tổng thống Mỹ Harry S. Truman rằng quân Đồng Minh "đã hoặc đang thực hiện chính những thứ chúng ta truy tố quân Đức. Pháp đang vi phạm Hiệp ước Geneva trong việc đối xử tù binh đến nỗi ta phải ra lệnh lấy lại những tù nhân đã gửi cho họ. Chúng ta tố cáo trộm cướp mà quân Đồng Minh lại đang thực hiện nó. Chúng ta bảo chiến tranh xâm lược là một tội ác và một trong những đồng minh của ta lại xâm lăng và khẳng định chủ quyền tại các nước Baltic."[87][88]
Mặc cho những nỗ lực của thẩm phán và công tố viên Xô Viết, vai trò của Liên Xô trong cuộc xâm lược Ba Lan vẫn được đề cập tới trong phiên tòa. Nghị định thư bí mật trong Hiệp ước Xô-Đức ký ngày 23 tháng 8 năm 1939, đưa ra sự phân chia lãnh thổ Ba Lan giữa Đức và Liên Xô và được thực hiện vào tháng 9 năm 1939. Tuy nhiên, lãnh đạo Liên Xô không bị xét xử trên việc đồng âm mưu.[89] Ngoài ra, Anh và Liên Xô đều không bị xét xử cho việc chuẩn bị và thực hiện chiến dịch Countenance (1941) hay chiến tranh mùa đông (1939-1940). Những cuộc tranh cãi về thảm sát Katyn hay vụ đắm tàu MV Wilhelm Gustloff cho thấy rõ ràng quân Đồng Minh cũng đã gây ra những tội ác chiến tranh. Mặc dù vậy, sử gia Ba Lan Bronisław Baczko cho rằng nếu những hành vi đó có thể được coi là tội ác, "chúng ta cần cảm ơn thẩm quyền của Nürnberg."[90]. Đi xa hơn việc chất vấn Liên Xô, thẩm phán Serge Fuster cùng một số người khác đã chỉ trích quân Đồng Minh về sự khác biệt giữa các cuộc thảm sát dân thường Nga ở Ukraine và các vụ ném bom ở Dresden, Hiroshima và Nagasaki. Nhà sử học Pháp Poliakov viết: "kể từ nay, tồn tại hai loại luật pháp quốc tế, một cho Đức, một cho phần còn lại của thế giới"[80]. Freda Utley, trong cuốn sách The High Cost of Vengeance xuất bản năm 1949,[91] cho rằng tòa án bằng tiêu chuẩn kép. Cô chỉ ra việc quân Đồng Minh sử dụng lao động dân sự ép buộc và cố tình bỏ đói dân thường[92][93] ở những khu vực bị chiếm đóng. Cô cũng chỉ ra rằng Tướng Rudenko, trưởng công tố viên của Liên Xô, sau phiên tòa đã trở thành chỉ huy của trại tập trung Sachsenhausen. Sau sự sụp đổ của Đông Đức, thi thể của 12.500 nạn nhân được tìm thấy ở trại, chủ yếu là "trẻ em, thanh niên và người già".[94])
|journal=
(trợ giúp)
Quyết định cuối cùng của tòa án là không thể xét xử Gustav Krupp vì điều kiện sức khỏe, nhưng 'các cáo buộc chống lại anh ta trong Bản cáo trạng sẽ được giữ lại để xét xử sau nếu tình trạng thể chất và tinh thần của bị cáo cho phép'.
The trial removed 11 of the most despicable Nazis from life itself. In the early morning hours of Wednesday, ngày 16 tháng 10 năm 1946, ten men died in the courthouse gymnasium in a botched hanging that left some strangled to death for as long as 25 minutes.
người treo cổ kinh nghiệm của Quân đội, Thượng sĩ John C. Woods, phá hỏng buổi hành hình. Một số không chết ngay do gãy cổ như dự tính mà chết trong đau đớn do siết cổ từ từ. Ribbentrop và Sauckel mỗi người mất 14 phút để ngạt thở đến chết, trong khi Keitel, người chết đau đớn nhất, vùng vẫy trong 28 phút ở cuối sợi dây trước khi chết.
Những chú thích sau dẫn từ các văn bản tại “The International Military Tribunal for Germany”. Dự án Avalon: Văn bản Pháp Luật, Lịch sử và Ngoại giao. Trường Luật Yale Thư viện Luật Lillian Goldman.