Bộ Cá vây cung | |
---|---|
![]() | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Amiiformes Hay, 1929 |
Các họ | |
Xem văn bản. |
Bộ Cá vây cung (danh pháp khoa học: Amiiformes) là một bộ cá vây tia nguyên thủy. Hiện tại người ta biết rằng bộ này chỉ còn 1 loài sinh tồn là cá vây cung (Amia calva) thuộc họ Amiidae, mặc dù các loài bổ sung khác trong một số họ đã tuyệt chủng cũng đã được biết đến từ các hóa thạch có niên đại thuộc các kỷ như Jura, Creta và thế Eocen trong kỷ Paleogen. Cá vây cung cùng các loài cá khác, như cá láng (Lepisosteiformes) và cá tầm (Acipenseriformes) thuộc về số ít các loài cá nước ngọt còn sinh tồn đã từng sinh sống cùng thời với khủng long.
Amiiformes Hay 1929
Phát sinh chủng loài của bộ Amiiformes vẫn là khía cạnh có vấn đề nhất trong phát sinh chủng loài của cá vây tia. Theo truyền thống người ta cho rằng Amiiformes và Lepisosteiformes có quan hệ họ hàng gần và gộp chúng cùng vài nhánh đã tuyệt chủng khác trong nhóm gọi là Holostei[1][2]. Một số phân tích hình thái lại cho rằng Amiiformes có quan hệ họ hàng gần nhất với Teleostei còn Lepisosteiformes có quan hệ họ hàng gần nhất với nhánh chứa cả Teleostei lẫn Amiiformes[3][4]. Tuy nhiên, các phân tích hình thái khác và phân tích phát sinh chủng loài phân tử lại cho thấy tính đơn ngành của Holostei[5][6].
Một trong những mâu thuẫn gần đây nhất trong phát sinh chủng loài của cá vây tia là phân tích phát sinh chủng loài của các trình tự bộ gen ti thể tổng thể, với kết quả cho thấy Amiiformes, Lepisosteiformes và Acipenseriformes hợp lại thành một nhánh có quan hệ họ hàng gần nhất với Teleostei[7], và nhánh này được nhắc tới như là nhánh "cá cổ đại"[7].
Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Thomas và Miya (2009)[8]
Actinopterygii |
| ||||||||||||||||||||||||
Phát sinh chủng loài trong phạm vi bộ Amiiformes như sau:
Amiiformes |
| ||||||||||||||||||