Bài viết này cần được cập nhật do có chứa các thông tin có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách cập nhật cho bài viết này.
Madonna bước vào thập niên 1990 bằng album nhạc phim I'm Breathless (1990), chứa các bài hát lấy cảm hứng từ bộ phim Dick Tracy.[7] Cùng năm đó, bà ra mắt album tuyển tập đầu tiên mang tên The Immaculate Collection, là album tuyển tập bán chạy nhất của một nghệ sĩ đơn ca với doanh số hơn 30 triệu bản.[8] Tại Vương quốc Liên hiệp Anh, đây là album của nữ nghệ sĩ bán chạy nhất và là album thứ hai đạt chứng nhận Kim cương của bà ở Mỹ.[4][9] Năm 1991, Madonna ký một hợp đồng thu âm và kinh doanh trị giá 60 triệu đô-la Mỹ với Warner Bros. và Time Warner. Bà đứng ra thành lập Maverick Records, sau này trở thành công ty thu âm chính của bà.[10] Phát hành bởi Maverick là các album phòng thu Erotica (1992) và Bedtime Stories (1994), cùng với Something to Remember (1995), một tập hợp các bản ballad của bà. Tất cả đều giành chứng nhận đa Bạch kim tại Hoa Kỳ và gặt hái thành công thương mại.[4][7][11]Album nhạc phim thứ ba của bà từ bộ phim nhạc kịch Evita, được phát hành năm 1996. Album kép này đạt 5 chứng nhận đĩa Bạch kim bởi RIAA, ghi nhận 2.5 triệu bản tiêu thụ tại thị trường Mỹ.[4] Album phòng thu thứ bảy, Ray of Light (1998) bán hơn 16 triệu đĩa trên khắp thế giới.[12]
Năm 2000, Music trở thành album thứ tư của Madonna đạt vị trí quán quân trên Billboard 200; đây là album hạng nhất đầu tiên của bà trong vòng 11 năm, kể từ Like a Prayer. Music cũng đứng đầu bảng xếp hạng nhiều quốc gia tại châu Âu.[13]American Life (2003) là album thứ năm của Madonna đạt vị trí quán quân trên Billboard 200.[14]Confessions on a Dance Floor, phát hành năm 2005, được báo trước là sự trở lại của bà, mở đầu với vị trí quán quân tại Mỹ và tất cả các thị trường chính khác.[15] Năm 2007, Madonna ký một hợp đồng kinh doanh và thu âm cùng 360 deal kéo dài 10 năm, trị giá 120 triệu đô la Mỹ với Live Nation.[16] Hợp đồng của bà với Warner Bros. kết thúc bằng album phòng thu thứ 11, Hard Candy (2008), album quán quân thứ 7 của bà trên Billboard 200 và Celebration (2009), album tuyển tập thứ ba.[17][18] Năm 2011, Madonna ký một hợp đồng gồm 3 album cùng Interscope Records, nơi hỗ trợ phân phối cùng hợp đồng của bà với Live Nation.[19] Album phòng thu thứ 12, MDNA (2012) là nhà quán quân thứ 8 của bà ở Mỹ.[20] Tháng 3 năm 2015, Madonna ra mắt album phòng thu thứ 13, Rebel Heart, đạt hạng hai ở Mỹ và Vương quốc Liên hiệp Anh.[21][22] Tháng 6 năm 2019, bà ra mắt album phòng thu thứ 14 của bà, cũng là album cuối cùng của bà trong bản hợp đồng 3 album với hãng đĩa Interscope, Madame X, album đã ra mắt tại vị trí á quân tại Vương quốc Anh và đầu bảng xếp hạng tại Mỹ, trở thành album thứ 9 của bà chạm nóc bảng xếp hạng này đồng thời cũng giúp bà giữ trở thành nghệ sĩ nữ thứ nhì có nhiều album đạt hạng 1 tại quốc gia này (chỉ sau Barbra Streisand với 12 album).
Với hơn 300 triệu đĩa thu âm đã tiêu thụ trên toàn cầu, Madonna được công nhận là nữ nghệ sĩ thu âm bán chạy nhất mọi thời đại bởi Sách Kỷ lục Guinness.[23][24]Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) xếp Madonna là nữ nghệ sĩ rock bán chạy nhất thế kỷ 20 và là nữ nghệ sĩ bán chạy thứ hai tại Hoa Kỳ, với 64.5 triệu chứng nhận album.[25][26] Các album The Immaculate Collection, Like a Virgin và True Blue nằm trong số 100 album được chứng nhận hàng đầu, theo RIAA.[27] Tại Vương quốc Liên hiệp Anh, bà trở thành nghệ sĩ đơn ca thành công nhất, với tổng cộng 12 album quán quân.[28] Theo Công nghiệp Ghi âm Anh (BPI), Madonna là nghệ sĩ được chứng nhận nhiều nhất mọi thời đại tại Vương quốc Liên hiệp Anh, với 45 giải thưởng.[29]
EP do hãng Warner-Pioneer Japan phát hành độc quyền tại Nhật Bản năm 1984. Bao gồm "Like a Virgin" (Extended Dance Remix), "Holiday", "Lucky Star" (Extended Dance Remix) và "Borderline" (Extended Dance Remix). EP sau này được phát hành làm CD đĩa đơn maxi.[147]
12"ers+2
Phát hành: 6 tháng 9 năm 1985
Hãng đĩa: Sire · Warner Bros.
Định dạng: Cassette
EP hiếm hoi đầu tiên của Madonna. hãng Sire Records hủy phát hành EP này năm 1985, nhưng sau đó ra mắt dưới dạng cassette quảng bá tại Nhật Bản vào tháng 9 năm 1985. EP bị hủy do kế hoạch ra mắt dồn dập hàng loạt sản phẩm của Madonna năm 1985, bao gồm các album Madonna và Like a Virgin tại nhiều vùng lãnh thổ. Danh sách bài hát: "Ain't No Big Deal", "Dress You Up" (The 12" Formal Mix), "Angel" (Extended Dance Mix) "Lucky Star" (Hoa Kỳ Remix), "Into the Groove", "Material Girl" (Jellybean Dance Mix), "Borderline" (Hoa Kỳ Remix) và "Like a Virgin" (Extended Dance Remix).[148]
Madonna Mix
Phát hành: 1985
Hãng đĩa: WEA · Warner Bros.
Định dạng: LP
EP đĩa than hiếm hoi tại Venezuela phát hành năm 1985. Bao gồm các bài hát: "Borderline", "Holiday" và "Into the Groove" trên Mặt A. "Angel", "Material Girl" và "Dress You Up" ở mặt sau. Các bài hát được nối liên tiếp nhau và là phiên bản gốc trích từ album. Bộ đĩa này sau đó xuất hiện ở Colombia và Ecuador.[149] Theo đó, album tuyển tập 1987 You Can Dance được đổi tên thành You Can Dance: Madonna Mix 2 ở Venezuela.[150]
EP do hãng Warner-Pioneer Japan phát hành riêng ở Nhật Bản năm 1986. Bao gồm "True Blue" (The Color Mix), "Everybody" (Dub Version), "Papa Don't Preach" (Extended Remix), "Everybody" (Extended Version) và "Live to Tell" (Instrumental). EP sau này được phát hành làm CD đĩa đơn maxi.[151]
EP do hãng Warner-Pioneer Japan phát hành riêng ở Nhật Bản năm 1987. Bao gồm "La Isla Bonita" (Extended Remix), "Open Your Heart" (Extended Version), "Gambler", "Crazy for You" and "La Isla Bonita" (Instrumental). EP sau này được phát hành làm CD đĩa đơn maxi.[152]
Madonna 1983–1989
Phát hành: 20 tháng 9 năm 1989
Hãng đĩa: Sire · Warner Bros.
Định dạng: LP, CD
Album tổng hợp các ca khúc thành công từ 1983–1989 phát hành tháng 9 năm 1989 tại thị trường Nhật Bản, chỉ dành cho DJ và các nhà bán lẻ. Album phát hành lại vào tháng 5 năm 1990 với hai ca khúc bổ sung là "Vogue" (1990) và "Keep It Together" (1990) và được đặt tên lại là Madonna 1983-1990.[153]
EP do hãng WEA Japan phát hành riêng ở Nhật Bản năm 1990. Bao gồm ba bản phối lại của "Vogue", hai bản phối của "Hanky Panky" và phiên bản album của "More".[154]
Phiên bản giới hạn tại Liên hiệp Anh ra mắt cùng với sự phát hành lại của ca khúc "Holiday" (1983) vào năm 1991. EP có 3 ca khúc vắng mặt trong The Immaculate Collection (1990), bao gồm "True Blue" (1986), "Who's That Girl" (1987) và "Causing a Commotion" (1987).[156]
EP do hãng Warner Music Japan phát hành riêng ở Nhật Bản năm 1993. Bao gồm sáu bản phối của "Deeper and Deeper", "Bad Girl" (Extended Mix) và năm bản phối của "Erotica".[157]
EP do hãng Warner Music Japan phát hành riêng ở Nhật Bản năm 1993. Bao gồm 3 phiên bản của "Rain", "Waiting" (Remix), "Up Down Suite" (Dub), "Bad Girl" (Extended Mix) và bốn bản phối của "Fever".[158]
EP tại Brazil để quảng bá The Girlie Show World Tour. Bao gồm các bài hát "Erotica", "Deeper and Deeper", "Bad Girl", "Fever", "Rain" và "Bye Bye Baby".[160]
EP kỹ thuật số độc quyền tại Vương quốc Liên hiệp Anh, liên kết với album phòng thu Rebel Heart. Bao gồm các bài hát "Beautiful Scars", "Borrowed Time", "Addicted", "Graffiti Heart" và hai bản phối của "Living for Love". Những bài hát này cũng phát hành trong phiên bản CD kép của album.[161][162]
Hai album trong cùng một chiếc cassette, chỉ phát hành tại Úc. Bao gồm album phòng thu True Blue ở một mặtcassette và Like a Prayer trong mặt còn lại.[167]
Bộ đĩa bao gồm Erotica và phiên bản phục hồi 2001 của Madonna.[177]
The Best of I + II
Phát hành: 2002
Hãng đĩa: Warner Music Germany
Định dạng: CD
Bộ đĩa bao gồm phát hành gốc của The Immaculate Collection và GHV2.[178]
American Life: Special Limited Edition Box
Phát hành: 22 tháng 4 năm 2003
Hãng đĩa: Maverick · Warner Bros.
Định dạng: CD
Bộ đĩa bao gồm album American Life và một tấm áp phích hai mặt 23"×35", tem và CD đính kèm.[179]
Édition Spéciale 2CDs: American Life + Remixed & Revisited
Phát hành: 9 tháng 12 năm 2003
Hãng đĩa: Maverick · Warner Music France
Định dạng: CD
Bộ đĩa bao gồm American Life và tuyển tập phối khí Remixed & Revisited[180]
American Life/Music
Phát hành: 2005
Hãng đĩa: Warner Strategic Marketing · Warner Music France
Định dạng: CD
Bộ đĩa bao gồm album American Life và phiên bản 11 bài hát của album Music (bổ sung bài hát "American Pie").[181]
American Life/Music/Ray of Light
Phát hành: 2005
Hãng đĩa: Warner Strategic Marketing · Warner Music France
Định dạng: CD
Bộ đĩa bao gồm album American Life, phiên bản 11 bài hát của album Music (bổ sung bài hát "American Pie") và Ray of Light.[182] It charted at number 174 on the French Albums Chart for two weeks.[33]
Confessions on a Dance Floor: Special Edition Box
Phát hành: 13 tháng 12 năm 2005
Hãng đĩa: Warner Bros.
Định dạng: CD
Bộ đĩa gồm 2 quyển sách, quyền thành viên miễn phí một tháng ở Icon (Câu lạc bộ người hâm mộ của Madonna) và bài hát đính kèm "Fighting Spirit".[183]
Bộ đĩa gồm toàn bộ 17 album phòng thu và tổng hợp từ Madonna đến I'm Going to Tell You a Secret (CD/DVD), ngoại trừ album nhạc phim Evita. Bộ đĩa là sản phẩm quảng bá cho chặng lưu diễn tại Luân Đôn của Confessions Tour, chỉ được Warner Music UK phát hành 100 bản.[184]
Hard Candy: Limited Collector's Edition Candy Box
Phát hành: 29 tháng 4 năm 2008
Hãng đĩa: Warner Bros.
Định dạng: CD
Bộ đĩa bao gồm album với hai phiên bản phối lại của "4 Minutes" và một túi kẹo bạc hà.[185]
Madonna: Dalle Origini Al Mito (From the Beginning to the Myth)
Bộ đĩa bán hàng tuần bởi tờ báo Ý Corriere Della Sera vào năm 2008 với thiết kế CD độc quyền và chứa logo của Madonna. Các album bao gồm Madonna, Like a Virgin và True Blue (phiên bản phục hồi), Who's That Girl, Like a Prayer,I'm Breathless, Erotica, Bedtime Stories và Evita và hai DVD The Immaculate Collection và Ciao, Italia! – Live from Italy.[186]
Original Album Series
Phát hành: 26 tháng 3 năm 2012
Hãng đĩa: Warner Bros.
Định dạng: CD
Bộ đĩa tại châu Âu bao gồmTrue Blue (phục hồi), Like a Prayer, Ray of Light, Music và Confessions on a Dance Floor.[187]
Bộ đĩa giới hạn tại châu Âu, bao gồm Madonna (phục hồi), Like a Virgin (phục hồi), True Blue (phục hồi), Like a Prayer, Erotica, Bedtime Stories, Ray of Light, Music, American Life, Confessions on a Dance Floor và Hard Candy.[188]
Bán ra 2.055 bản tại Vương quốc Liên hiệp Anh, đạt hạng 70 trên Official Albums Chart.[189]
Bộ đĩa digi-pak tại Pháp, bao gồm phiên bản phục hồi của Madonna, True Blue (không chứa những bản phối khí xuất hiện đính kèm trong album gốc) và American Life.[190]
Confessions on a Dance Floor/Like a Virgin
Phát hành: 22 tháng 7 năm 2013
Hãng đĩa: WEA Music · Warner Music France
Định dạng: CD
Bộ đĩa tại Pháp bao gồm Confessions on a Dance Floor và phiên bản phục hồi 2001 của Like a Virgin.[191]
A^ Số liệu của Ray of Light tại Đức đến tháng 12 năm 1998.[192]
B^ Bản chuẩn trên thị trường quốc tế: 1 CD. Bản chuẩn trên thị trường Mỹ: 2 CD (được tính là 2 đơn vị). RIAA gấp đôi các album kép khi tính doanh số nếu album vượt quá 100 phút về thời lượng.[193]
C^ Không bao gồm doanh số bán album này trước ngày 25 tháng 5 năm 1991. Sau ngày này, doanh số đĩa nhạc trên thị trường Mỹ được tính bởi Nielsen SoundScan.[194][195]
D^ EP này được coi là một đĩa đơn tại một số quốc gia nhưng cũng là một album tại các nước khác.[196]
E^ Tính đến tháng 9 năm 2011, album này bán ra 3.900.000 bản tại Mỹ, theo Nielsen SoundScan, mà không tính lượng album bán qua những tổ chức khác như BMG Music.[197] Tổng cộng, album này đã bán ra 4.359.000 bản, với 459.000 của BMG Music Clubs.[198]
^ abMitchell, John (ngày 16 tháng 8 năm 2011). “Happy Birthday, Madonna!”. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011.
Rebel Heart: “ARIA Australian Top 50 Albums”. Australian Recording Industry Association. ngày 16 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
^ abcd“Madonna discography”. International Federation of the Phonographic Industry AustrianCharts.at at Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2009.
^ abcdVị trí album xếp hạng cao nhất tại Tây Ban Nha:
Trước 2002: Salaverri, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (ấn bản thứ 1). Tây Ban Nha: Fundación Autor-SGAE. ISBN84-8048-639-2.
^ abcdefghijklmnScapolo, Dean (2007). The Complete New Zealand Music Charts: 1966–2006. Wellington: Dean Scapolo and Maurienne House. ISBN978-1877443-00-8.
^ abcdefghijklmnoSalaverri, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (ấn bản thứ 1). Tây Ban Nha: Fundación Autor-SGAE. ISBN84-8048-639-2.
^“Madonna: a potted history”. The Daily Telegraph. Luân Đôn. ngày 1 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2012.
^“ARIA Catalogue Albums Chart”. Australian Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2012.
^Gundersen, Edna (ngày 17 tháng 8 năm 2008). “Pop icons at 50: Madonna”. USA Today. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2013.
^Dale, David (ngày 13 tháng 1 năm 2013). “The music Australia loved”. The Sydney Morning Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2013.
^“Promusicae Top 100 Albums”(PDF). Productores de Música de España. ngày 12 tháng 5 năm 2010. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2010.
^“Les DVD les plus Vendus en 2007” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2012.
^“Les Albums les plus Vendus en 2010” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2012.
^Madonna Mix. Madonna. Warner Bros. Records, WEA Records. 1985. 3.097(Venezuela, 23(1031)00014 (Ecuador), LP-80087 (Colombia).Quản lý CS1: khác (liên kết)
^You Can Dance: Madonna Mix 2. Madonna. Sire Records, WEA Records. 1987. Warner-3205, 25535.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^Super Club Mix: True Blue. Madonna. Sire Records, Warner-Pioneer Japan. 1986. P-3439.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^La Isla Bonita: Super Mix. Madonna. Sire Records, Warner-Pioneer Japan. 1987. P-3440.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^リミックス・プレイヤーズ (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 25 tháng 8 năm 1989. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010.
^Paoletta, Michael (ngày 15 tháng 12 năm 2001). “The Beat Box”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. 113 (50): 30. ISSN0006-2510. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
^2 CD Hit Collection. Warner Music Germany. 2002. 2202940049349.
^The Best of I + II. Warner Music Germany. 2002. 4019109100128.
^American Life: Special Limited Edition. Madonna. Maverick/Warner Bros. Records. 2003. 9362-48440-2.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^Edition Speciale: American Life + Remixed & Revisited. Madonna. Warner Music France. 2003. 9362-48673-2.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^American Life/Music. Madonna. Warner Strategic Marketing, Warner Music France. 2005. 9362-49426-2.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^American Life/Music/Ray of Light. Madonna. Warner Strategic Marketing, Warner Music France. 2005. 9362-49430-2.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^Confessions on a Dance Floor: Special Edition Book Box Set. Madonna. Warner Bros. Records. 2005. 9362-49464.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^The Complete Collection. Madonna. Warner Music UK. 2006. PRO-CD-CONFESS.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^Hard Candy: Limited Collector's Edition Candy Box. Madonna. Warner Bros. Records. 2008. 9362-59786.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^Varin, Corein (ngày 3 tháng 9 năm 2008). “Madonna: Dalle Origini Al Mito”. Corriere Della Sera. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2011.