Lịch sử | |
---|---|
Đế quốc Nhật Bản | |
Tên gọi | Tàu ngầm số 48 |
Xưởng đóng tàu | Kawasaki Corporation, Kobe |
Đặt lườn | 20 tháng 10, 1924 |
Đổi tên | I-21, 1 tháng 11, 1924 |
Hạ thủy | 30 tháng 3, 1926 |
Hoàn thành | 31 tháng 3, 1927 |
Nhập biên chế | 31 tháng 3, 1927 |
Xuất biên chế | 15 tháng 3, 1933 |
Tái biên chế | 15 tháng 11, 1933 |
Xuất biên chế | 15 tháng 11, 1935 |
Tái biên chế | 20 tháng 3, 1937 |
Đổi tên | I-121, 1 tháng 6, 1938 |
Số phận | Đầu hàng, tháng 9, 1945 |
Xóa đăng bạ | 30 tháng 11, 1945 |
Số phận | Bị đánh đắm, 30 tháng 4, 1946 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp I-121 (Kiraisen) |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 85,2 m (279 ft 6 in) chung[1] |
Sườn ngang | 7,52 m (24 ft 8 in)[1] |
Mớn nước | 4,42 m (14 ft 6 in)[1] |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 75[1] |
Vũ khí |
|
I-121, nguyên là Tàu ngầm số 48 và mang tên I-21 từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm rải mìn I-121 được Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nhập biên chế năm 1927, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, bao gồm các Chiến dịch Mã Lai và Philippines, cuộc ném bom Darwin và trận Midway, cũng như các Chiến dịch Guadalcanal, Đông Solomon và New Guinea. I-121 được rút về đảm nhiêm vai trò huấn luyện từ cuối năm 1943 và đã sống sót qua Thế Chiến II, đầu hàng lực lượng Đồng Minh khi chiến tranh kết thúc, và bị đánh chìm vào năm 1946.
Lớp I-121 là lớp tàu ngầm chuyên rải thủy lôi duy nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.[3] Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là Kiểu tàu ngầm Kiraisen (機雷潜型潜水艦 Kiraisen-gata sensuikan); là tên rút gọn từ Kirai Fusetsu Sensuikan (機雷敷設潜水艦 Tàu ngầm rải mìn).[3] Thiết kế của chúng dựa trên chiếc tàu ngầm rải mìn SM U-125, một chiếc Type UE II của Hải quân Đế quốc Đức, là chiếc lớn nhất trong số bảy tàu ngầm Đức mà Nhật Bản nhận được sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất như là chiến lợi phẩm bồi thường chiến tranh. U-125 đã phục vụ cùng Hải quân Nhật Bản như là chiếc O-6 trong những năm 1920-1921.[3]
Giống như U-125, tàu ngầm kiểu Kiraisen có hai động cơ diesel cung cấp tổng công suất 2.400 mã lực (1.790 kW), có khả năng mang theo 42 quả thủy lôi, có bốn ống phóng ngư lôi cùng một khẩu hải pháo trên boong tàu với cỡ nòng 5,5 inch (140 mm) của Nhật Bản thay cho cỡ 5,9 inch (150 mm) trên U-125.[3] So sánh với chiếc tàu ngầm Đức nguyên mẫu, lớp I-125 có kích thước lớn hơn, dài hơn 10 foot (3 m) và trọng lượng choán nước nặng hơn 220 tấn khi nổi và 300 tấn khi lặn — và có tầm hoạt động xa hơn 970 hải lý (1.800 km; 1.120 mi) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi nổi và 5 hải lý (9,3 km; 5,8 mi) ở tốc độ 4,5 hải lý trên giờ (8,3 km/h; 5,2 mph) khi lặn.[3] Tuy nhiên I-125 chậm hơn 0,2 hải lý trên giờ (0,37 km/h; 0,23 mph) cả khi nổi và lặn, mang theo ít hơn hai ngư lôi, và chỉ có thể lặn sâu đến 200 foot (61 m) khi so với 250 foot (76 m) của U-125.[3]
I-121 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 48 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki ớ Kobe vào ngày 20 tháng 10, 1924.[4][5] Nó được đổi tên thành I-21 vào ngày 1 tháng 11, 1924[4][5] trước khi được hạ thủy vào ngày 30 tháng 3, 1926.[4][5] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 31 tháng 3, 1927,[4][5] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Kobayashi Mitsuyoshi.[4][5]
Trước lúc nhập biên chế, I-21 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure[4][5] nhưng được điều sang Quân khu Hải quân Yokosuka sau khi hoàn tất.[4] Vào ngày 1 tháng 11, 1927, nó được phân về Đội tàu ngầm 9 thuộc Hải đội Phòng vệ Yokosuka.[4] Đến ngày 9 tháng 3, 1928, đang khi chạy thử máy trong vịnh Yokosuka, nó mắc tai nạn va chạm với tàu khu trục Shiokaze, vốn đang thực tập phóng ngư lôi.[4][5] Không có tổn thất nhân mạng, nhưng cả hai con tàu đều bị hư hại nhẹ, và mũi của I-21 bị bẻ cong 60 độ sang mạn phải.[5] Chiếc tàu ngầm được sửa chữa tại Yokosuka.[5]
Vào ngày 1 tháng 12, 1930, I-21 được điều động trực thuộc Quân khu Hải quân Kure,[4] rồi được phân về Đội tàu ngầm 13 thuộc Quân khu Hải quân Kure từ ngày 15 tháng 10, 1931.[4] Đến ngày 1 tháng 10, 1932, Đội tàu ngầm 13 nằm trong thành phần Hải đội Phòng vệ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure.[4]
I-21 được cho xuất biên chế vào ngày 15 tháng 3, 1933 và đưa về thành phần dự bị tại Kure, Hiroshima.[4][5] Đến ngày 15 tháng 11, 1933, Đội tàu ngầm 13 được phối thuộc trực tiếp cùng Quân khu Hải quân Kure, đồng thời I-21 được cho tái biên chế và gia nhập đơn vị này.[4][5] Sau khi tàu ngầm chị em I-24 bị hư hại thùng dằn chính vào ngày 25 tháng 5, 1935 khi thử nghiệm lặn sâu cùng tàu chị em I-23,[6] Đội tàu ngầm 13 được điều về Hải đội Phòng vệ Kure từ ngày 15 tháng 11,[5] và I-21 được cho xuất biên chế vào ngày hôm đó để gia cố thùng dằn chính.[5] Tuy nhiên đến năm 1936, cả bốn chiếc trong lớp đều bị giới hạn độ sâu lặn tối đa theo thiết kế còn 180 ft (55 m).[6] Sau khi hoàn tất việc gia cố thùng dằn, I-21 được cho tái biên chế trở lại vào ngày 20 tháng 3, 1937.[5]
Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ sau khi xảy ra sự kiện Lư Câu Kiều (cầu Marco Polo) vào ngày 7 tháng 7, 1937.[5] Đến tháng 9, Đội tàu ngầm 13 bao gồm I-21 và tàu ngầm chị em I-22 chuyển đến căn cứ tại Thanh Đảo, Trung Quốc, bắt đầu hoạt động tại vùng biển phía Bắc Trung Quốc như một phần của kế hoạch phong tỏa Trung Quốc.[5][7] Đến ngày 1 tháng 12, Đội tàu ngầm 13 được phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 3 trực thuộc Đệ Tứ hạm đội, một bộ phận của Hạm đội Liên hợp. [4] Cùng trong tháng 12, tàu tuần dương hạng nhẹ Kuma được phái đến Thanh Đảo để đảm nhiệm vai trò soái hạm cho Hải đội Tàu ngầm 3, vốn bao gồm các tàu ngầm I-21, I-22, I-23 và I-24.[7]
I-21 cùng với I-22 được lệnh hộ tống bảo vệ từ xa cho Kuma khi chiếc tàu tuần dương tiến hành đổ bộ một đơn vị Lực lượng Đổ bộ Đặc biệt Hải quân (SNLF) tại Yên Đài, Trung Quốc vào ngày 3 tháng 2, 1938. Tuy nhiên cả hai chiếc tàu ngầm đều gặp trục trặc động cơ, nên đã không thể lên đường để hỗ trợ cho Kuma.[5] Hai chiếc tàu ngầm thành công hơn vào ngày 22 tháng 3, khi cùng xuất phát từ Lữ Thuận Khẩu (Port Arthur), Mãn Châu và mỗi chiếc đã cho đổ bộ 15 binh lính SNLF đặt căn cứ tại Thượng Hải lên đảo Lưu Công ở cửa vịnh Uy Hải, rồi quay trở lại Lữ Thuận Khẩu.[4][5]
I-21 được cho đổi tên thành I-121 vào ngày 1 tháng 6, 1938,[4][5] để lấy lên cũ đặt cho chiếc tàu ngầm mới I-21, một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan), vốn sẽ được đặt lườn vào năm đó.[8] Đến ngày 20 tháng 6, 1938, I-121 được cho xuất biên chế và đưa về thành phần dự bị 2 thuộc Quân khu Hải quân Kure.[4] Trong một nỗ lực nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ quốc tế do cuộc xung đột với Trung Quốc, Nhật Bản cho rút lực lượng tàu ngầm của họ khỏi vùng biển Trung Quốc từ tháng 12, 1938.[7]
Đang khi trong thành phần dự bị, I-121, cùng với các tàu chị em I-122, I-123 và I-124 (nguyên là các chiếc I-22, I-23 và I-24 tương ứng, được đổi tên cùng vào ngày 1 tháng 6, 1938), được cải biến thành những tàu ngầm chở dầu.[3] Vẫn giữ lại khả năng mang ngư lôi và thủy lôi, chúng được tái trang bị để có thể vận chuyển 15 tấn xăng máy bay dùng để tiếp nhiên liệu cho các thủy phi cơ,[5][3] cho phép các máy bay này mở rộng tầm xa hoạt động trong các phi vụ trinh sát và ném bom, bằng cách gặp gỡ các tàu ngầm này tại các cảng hay vũng biển để tiếp thêm nhiên liệu. [3]
I-121 được cho tái biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5, 1940 trong thành phần Đội tàu ngầm 13,[4] và đơn vị này được phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 5 trực thuộc Đệ Tứ hạm đội cùng trong ngày hôm đó.[4] Nó cùng với các tàu chị em I-122, I-123 và I-124 thực hiện một chuyến đi huấn luyện kéo dài tại Thái Bình Dương.[4][9][10][11] Chúng xuất phát từ Sasebo vào ngày 16 tháng 5, viếng thăm các vùng biển thuộc các quần đảo Caroline, Marshall và Mariana, trước khi kết thúc chuyến đi tại Yokosuka vào ngày 22 tháng 9, 1940.[4][9][10][11] Vào ngày 11 tháng 10, 1940, I-121 là một trong số 98 tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được tập trung cùng với hơn 500 máy bay dọc bờ biển vịnh Yokohama để tham gia cuộc duyệt binh hạm đội lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, nhân kỷ niệm 2.600 năm đăng quang của Thiên hoàng Jimmu.[4][12][13]
Đội tàu ngầm 13 lại được phối thuộc trực tiếp cùng Quân khu Hải quân Kure từ ngày 15 tháng 11, 1940,[4] và trong giai đoạn từ ngày 30 tháng 1 đến ngày 4 tháng 2, 1941, I-121 tạm thời thay phiên cho tàu chị em I-122 trong vai trò soái hạm của đội tàu ngầm.[5] Đến ngày 1 tháng 5, 1941, Đội tàu ngầm 13 lại được điều sang Hải đội Tàu ngầm 6 trực thuộc Đệ Tam hạm đội, một bộ phận của Hạm đội Liên hợp.[4]
Khi lực lượng Hải quân Nhật Bản bắt đầu được huy động để chuẩn bị cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương, I-121 xuất phát từ Yokosuka trong tháng 11 để đi sang căn cứ Samah (nay là Tam Á) trên đảo Hải Nam, Trung Quốc,[4][5] đến nơi vào ngày 27 tháng 11.[4] Chiếc tàu ngầm khởi hành từ căn cứ này vào ngày 1 tháng 12 để hướng xuống phía Nam cho chuyến tuần tra đầu tiên của nó trong chiến tranh.[5] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 bên kia đường đổi ngày tại Hawaii, nơi sẽ diễn ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng).[5] Vào ngày 7 tháng 12, ngày cuối cùng trước cuộc xung đột, I-121 đã rải 42 quả thủy lôi Type 88 Mark 1 ở vùng biển phía Đông Bắc Singapore tại tọa độ 00°40′B 115°00′Đ / 0,667°B 115°Đ.[5] Sau đó nó tuần tra ngoài khơi lối ra vào phía Đông của eo biển Johore.[5]
Thế Chiến II kết thúc vào ngày 15 tháng 8, 1945, khi Thiên hoàng Chiêu Hòa Hirohito công bố qua đài phát thanh mệnh lệnh đình chỉ chiến sự giữa Nhật Bản và Đồng Minh.[5] I-121 đầu hàng lực lượng Đồng Minh tại Căn cứ Hải quân Mazuru trong tháng 9,[5] sau khi văn kiện đầu hàng được ký kết trên thiết giáp hạm USS Missouri neo đậu trong vịnh Tokyo vào ngày 2 tháng 9.
I-121 được cho rút tên khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 30 tháng 11, 1945.[4][5] Trong khuôn khổ Chiến dịch Road's End, nó cùng các tàu ngầm Ro-68 và Ro-500 bị đánh chìm trong vịnh Wakasa ngoài khơi đảo Kanmurijima trong biển Nhật Bản vào ngày 30 tháng 4, 1946.[5]