I-123 (tàu ngầm Nhật)

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 50
Xưởng đóng tàu Kawasaki Corporation, Kobe
Đặt lườn 12 tháng 6, 1925
Hạ thủy 19 tháng 3, 1927
Đổi tên I-23, 19 tháng 3, 1927
Hoàn thành 28 tháng 4, 1928
Nhập biên chế 28 tháng 4, 1928
Xuất biên chế 25 tháng 5 hoặc 25 tháng 11, 1935
Tái biên chế 26 tháng 12, 1935
Xuất biên chế 1 tháng 4, 1939
Đổi tên I-123, 17 tháng 6, 1938
Tái biên chế 1 tháng 5, 1940
Xóa đăng bạ 5 tháng 10, 1942
Số phận Bị tàu khu trục rải mìn USS Gamble (DM-15) đánh chìm tại khu vực Guadalcanal, 29 tháng 8, 1942
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp I-121 (Kiraisen)
Trọng tải choán nước
  • 1.142 tấn Anh (1.160 t) (nổi) [1]
  • 1.768 tấn Anh (1.796 t) (lặn) [1]
Chiều dài 85,2 m (279 ft 6 in) chung[1]
Sườn ngang 7,52 m (24 ft 8 in)[1]
Mớn nước 4,42 m (14 ft 6 in)[1]
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 10.500 nmi (19.400 km) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h) (nổi) [1]
  • 40 nmi (74 km) ở tốc độ 4,5 hải lý trên giờ (8,3 km/h) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm
  • 75 m (246 ft) (ban đầu)
  • 55 m (180 ft) (từ năm 1936)
Thủy thủ đoàn tối đa 75[1]
Vũ khí

I-123, nguyên là Tàu ngầm số 50 và mang tên I-23 từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp I-121 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nhập biên chế năm 1928, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, bao gồm các Chiến dịch Mã LaiPhilippines, cuộc ném bom Darwintrận Midway, cũng như các Chiến dịch GuadalcanalĐông Solomon, cho đến khi bị tàu khu trục rải mìn Hoa Kỳ USS Gamble (DM-15) đánh chìm tại khu vực Guadalcanal vào ngày 29 tháng 8, 1942.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp I-121 là lớp tàu ngầm chuyên rải thủy lôi duy nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.[3] Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là Kiểu tàu ngầm Kiraisen (機雷潜型潜水艦 Kiraisen-gata sensuikan?); là tên rút gọn từ Kirai Fusetsu Sensuikan (機雷敷設水艦 Tàu ngầm rải mìn?).[3] Thiết kế của chúng dựa trên chiếc tàu ngầm rải mìn SM U-125, một chiếc Type UE II của Hải quân Đế quốc Đức, là chiếc lớn nhất trong số bảy tàu ngầm Đức mà Nhật Bản nhận được sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất như là chiến lợi phẩm bồi thường chiến tranh. U-125 đã phục vụ cùng Hải quân Nhật Bản như là chiếc O-6 trong những năm 1920-1921.[3]

Giống như U-125, tàu ngầm kiểu Kiraisen có hai động cơ diesel cung cấp tổng công suất 2.400 mã lực (1.790 kW), có khả năng mang theo 42 quả thủy lôi, có bốn ống phóng ngư lôi cùng một khẩu hải pháo trên boong tàu với cỡ nòng 5,5 inch (140 mm) của Nhật Bản thay cho cỡ 5,9 inch (150 mm) trên U-125.[3] So sánh với chiếc tàu ngầm Đức nguyên mẫu, lớp I-125 có kích thước lớn hơn, dài hơn 10 foot (3 m) và trọng lượng choán nước nặng hơn 220 tấn khi nổi và 300 tấn khi lặn — và có tầm hoạt động xa hơn 970 hải lý (1.800 km; 1.120 mi) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi nổi và 5 hải lý (9,3 km; 5,8 mi) ở tốc độ 4,5 hải lý trên giờ (8,3 km/h; 5,2 mph) khi lặn.[3] Tuy nhiên I-125 chậm hơn 0,2 hải lý trên giờ (0,37 km/h; 0,23 mph) cả khi nổi và lặn, mang theo ít hơn hai ngư lôi, và chỉ có thể lặn sâu đến 200 foot (61 m) khi so với 250 foot (76 m) của U-125.[3]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

I-123 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 50 tại xưởng tàu của hãng KawasakiKobe vào ngày 12 tháng 6, 1925.[4][5] Nó được đổi tên thành I-23[4][5] đồng thời được hạ thủy cùng vào ngày 19 tháng 3, 1927.[4][5] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 28 tháng 4, 1928,[4][5] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Kobayashi Mitsuyoshi.[4][5]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

1928 – 1937

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào lúc nhập biên chế, I-23 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka,[4][5] và được phân về Đội tàu ngầm 9 trực thuộc Hải đội Phòng vệ Yokosuka.[4] Đang khi I-23 tiến hành thử nghiệm lặn sâu cùng tàu chị em I-24 vào ngày 25 tháng 5, 1935, I-24 bị hư hại thùng dằn chính.[6] I-23 được cho xuất biên chế vào ngày hôm đó[4] hoặc ngày 25 tháng 11,[5] và đưa về thành phần dự bị để gia cố thùng dằn chính.[5] Trong thời gian đó, Đội tàu ngầm 9 được phân về Hải đội Phòng vệ Yokosuka trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka từ ngày 15 tháng 11, 1935.[4] Sau khi hoàn tất việc gia cố thùng dằn, I-23 được cho tái biên chế trở lại vào ngày 26 tháng 12, 1935.[5] Tuy nhiên đến năm 1936, cả bốn chiếc trong lớp đều bị giới hạn độ sâu lặn tối đa theo thiết kế còn 180 ft (55 m).[6]

Chiến tranh Trung Nhật

[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ sau khi xảy ra sự kiện Lư Câu Kiều (cầu Marco Polo) vào ngày 7 tháng 7, 1937.[5] Đến tháng 9, Đội tàu ngầm 9 bao gồm I-23 và tàu ngầm chị em I-24 chuyển đến căn cứ tại Thanh Đảo, Trung Quốc, bắt đầu hoạt động tại vùng biển phía Bắc Trung Quốc như một phần của kế hoạch phong tỏa Trung Quốc.[5][7] Đến ngày 1 tháng 12, Đội tàu ngầm 9 được phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 3 trực thuộc Đệ Tứ hạm đội, một bộ phận của Hạm đội Liên hợp.[4] Cùng trong tháng 12, tàu tuần dương hạng nhẹ Kuma được phái đến Thanh Đảo để đảm nhiệm vai trò soái hạm cho Hải đội Tàu ngầm 3, vốn bao gồm các tàu ngầm I-21, I-22, I-23I-24.[7]

I-23 được cho đổi tên thành I-123 vào ngày 1 tháng 6, 1938,[4][5] để lấy lên cũ đặt cho chiếc tàu ngầm mới I-23, một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?), vốn sẽ được đặt lườn vào năm đó.“I-23(2) ex No-41”. ijnsubsite.info. 4 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.</ref>[8] Đến ngày 20 tháng 6, 1938, Đội tàu ngầm 9 được phân về Trường pháo binh trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka.[4] Trong một nỗ lực nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ quốc tế do cuộc xung đột với Trung Quốc, Nhật Bản cho rút lực lượng tàu ngầm của họ khỏi vùng biển Trung Quốc từ tháng 12, 1938.[7]

1939 – 1941

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 1 tháng 4, 1939, Đội tàu ngầm 9 được đưa về thành phần dự bị 3 trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka,[4] rồi chuyển sang thành phần dự bị 2 cùng quân khu vào ngày 15 tháng 11.[4] Đang khi trong thành phần dự bị, I-123, cùng với các tàu chị em I-121, I-122I-124 (nguyên là các chiếc I-21, I-22I-24 tương ứng, được đổi tên cùng vào ngày 1 tháng 6, 1938), được cải biến thành những tàu ngầm chở dầu.[3] Vẫn giữ lại khả năng mang ngư lôi và thủy lôi, chúng được tái trang bị để có thể vận chuyển 15 tấn xăng máy bay dùng để tiếp nhiên liệu cho các thủy phi cơ,[5][3] cho phép các máy bay này mở rộng tầm xa hoạt động trong các phi vụ trinh sát và ném bom, bằng cách gặp gỡ các tàu ngầm này tại các cảng hay vũng biển để tiếp thêm nhiên liệu.[3]

I-123 được cho tái biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5, 1940 trong thành phần Đội tàu ngầm 9,[4] và đơn vị này được phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 5 trực thuộc Đệ Tứ hạm đội cùng trong ngày hôm đó.[4] Nó cùng với các tàu chị em I-121, I-122I-124 thực hiện một chuyến đi huấn luyện kéo dài tại Thái Bình Dương.[4][9][10][11] Chúng xuất phát từ Sasebo vào ngày 16 tháng 5, viếng thăm các vùng biển thuộc các quần đảo Caroline, MarshallMariana, trước khi kết thúc chuyến đi tại Yokosuka vào ngày 22 tháng 9, 1940.[4][9][10][11] Vào ngày 11 tháng 10, 1940, I-123 là một trong số 98 tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được tập trung cùng với hơn 500 máy bay dọc bờ biển vịnh Yokohama để tham gia cuộc duyệt binh hạm đội lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, nhân kỷ niệm 2.600 năm đăng quang của Thiên hoàng Jimmu.[4][12][13]

Đội tàu ngầm 9 lại được đưa về trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka từ ngày 15 tháng 11, 1940,[9] rồi đến ngày 1 tháng 5, 1941 đơn vị này được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 6 trực thuộc Đệ Tam hạm đội, một bộ phận của Hạm đội Liên hợp.[5] I-123 cùng I-124 đặt căn cứ tại Kure, Hiroshima,[4][5] nơi I-123 đảm nhiệm vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 9 từ ngày 2 tháng 8, 1941.[5]

Khi lực lượng Hải quân Nhật Bản bắt đầu được huy động để chuẩn bị cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương, I-123 cùng với I-124 xuất phát từ Yokosuka để đi đến căn cứ Samah (nay là Tam Á) trên đảo Hải Nam, Trung Quốc, đến nơi vào ngày 27 tháng 11.[4][5] Hai chiếc tàu ngầm khởi hành từ căn cứ này vào ngày 1 tháng 12 cho chuyến tuần tra đầu tiên của họ trong chiến tranh.[5] Chúng được phối thuộc cùng Lực lượng Chiếm đóng Philippines, nên hướng sang quần đảo Philippines nhằm hỗ trợ cho chiến dịch xâm chiếm quần đảo này.[5] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 bên kia đường đổi ngày tại Hawaii, nơi sẽ diễn ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng).[5]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc 04 giờ 20 phút ngày 6 tháng 12, I-123 gặp trục trặc bánh lái ngang khiến nó không không thể lặn trong suốt phần còn lại của chuyến tuần tra.[5] Tuy nhiên nó vẫn rải 42 quả thủy lôi Type 88 Mark 1 tại khu vực eo biển Balabac trong ngày 7 tháng 12, trước khi quay trở về vịnh Cam Ranh tại Đông Dương thuộc Pháp đã bị Nhật chiếm đóng để sửa chữa.[5] Nó vẫn đang trên đường đi khi chiến tranh bắt đầu tại Đông Á vào ngày 8 tháng 12.[5] Nó về đến Cam Ranh an toàn vào ngày 9 tháng 12, kết thúc chuyến tuần tra đầu tiên.[5] Bãi mìn mà I-123 rải trong eo biển Balabac có thể đã đánh chìm tàu ngầm Hoa Kỳ USS Flier vào ngày 13 tháng 8, 1944.[5]

Chuyến tuần tra thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại khu vực tuần tra mới, I-123 bắt gặp một thủy phi cơ Đồng Minh lúc 01 giờ 25 phút ngày 29 tháng 8, buộc nó phải lặn khẩn cấp để ẩn nấp.[5] Chiếc tàu ngầm báo cáo sự việc này qua bức điện lúc 03 giờ 12 phút, và sau đó nó hoàn toàn mất liên lạc với căn cứ.[5]

Lúc 08 giờ 05 phút, tàu khu trục rải mìn Hoa Kỳ USS Gamble, đang trong hành trình đi đến Guadalcanal trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 62.2.4, nhìn thấy tháp chỉ huy của I-123 khi chiếc tàu ngầm lặn xuống ở vị trí 60 nmi (110 km) về phía Đông đảo Savo.[5] Sử dụng một bộ dò dị thường từ để theo dõi đối phương, Gamble tung ra nhiều lượt tấn công bằng mìn sâu từ 08 giờ 44 phút đến 11 giờ 47 phút.[5] Sau lượt tấn công cuối cùng, Gamble băng ngang qua một vệt dầu loang lớn, quan sát thấy một bọt khí lớn trồi lên mặt nước, và thu được một mảnh gỗ lát sàn tàu.[5] Các chứng cứ này xác nhận tàu ngầm đối phương đã bị đánh chìm tại tọa độ 09°21′N 160°43′Đ / 9,35°N 160,717°Đ / -9.350; 160.717.[5]

Tàu ngầm Ro-34, lúc đó đang tuần tra về phía Đông I-123, báo cáo nghe thấy nhiều tiếng nổ lớn từ phía vị trí của đồng đội vào lúc Gamble tấn công.[5] Đến ngày 1 tháng 9, 1942, Hải quân Nhật Bản công bố I-123 có thể đã bị mất với toàn bộ 71 thành viên thủy thủ đoàn ngoài khơi Guadalcanal.[5] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 5 tháng 10, 1942.[4][5]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m “Type KRS”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  2. ^ Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b c d e f g h i Boyd & Yoshida (1995), tr. 18.
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v “I-123 ex-I-23(1) ex No-50”. ijnsubsite.info. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2013). “IJN Submarine I-123: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  6. ^ a b Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-124: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  7. ^ a b c Boyd & Yoshida (1995), tr. 54.
  8. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-23: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  9. ^ a b c “I-121 ex-I-21(1) ex No-48”. ijnsubsite.info. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  10. ^ a b “I-122 ex-I-22(1) ex No-49”. ijnsubsite.info. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  11. ^ a b “I-124 ex-I-24(1) ex No-60”. ijnsubsite.info. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  12. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2014). “IJN Seaplane Carrier CHITOSE: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  13. ^ “2012 Fleet Review” (PDF). Japan Defense Focus. tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2019.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Boyd, Carl; Yoshida, Akihiko (1995). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • “Rekishi Gunzō”., History of Pacific War Vol.17 "I-Gō Submarines", Gakken (Japan), January 1998, ISBN 4-05-601767-0
  • “Rekishi Gunzō”., History of Pacific War Extra "Perfect guide, The submarines of the Imperial Japanese Forces", Gakken (Japan), March 2005, ISBN 4-05-603890-2
  • The Maru Special, Ushio Shobō (Japan)
    • Japanese Naval Vessels No. 43, Japanese Submarines III, September 1980
    • Japanese Naval Vessels No. 132, Japanese Submarines I (New edition), February 1988
    • Japanese Naval Vessels No. 133, Japanese Submarines II (New edition), March 1988

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tổng quan về vị trí Event Planner trong một sự kiện
Tổng quan về vị trí Event Planner trong một sự kiện
Event Planner là một vị trí không thể thiếu để một sự kiện có thể được tổ chức suôn sẻ và diễn ra thành công
Xianyun – Lối chơi, hướng build và đội hình
Xianyun – Lối chơi, hướng build và đội hình
Xianyun là nhân vật 5 sao thứ 2 sau Shenhe có chỉ số đột phá là att, và cũng không bất ngờ bởi vai trò của bà cũng giống với Shenhe.
Những đôi môi gây nghiện
Những đôi môi gây nghiện
Đắm chìm vào sự ngọt ngào của những đôi môi
Baemin từ
Baemin từ "tân binh" đầy nổi bật thành "tàn binh" bên bờ vực dừng hoạt động ở Việt Nam
Thương hiệu "viral" khắp cõi mạng nhưng "không bao giờ có lãi", liệu có lặp lại câu chuyện của những chú gà vàng đen Beeline?