I-122 (tàu ngầm Nhật)

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 49
Xưởng đóng tàu Kawasaki Corporation, Kobe
Đặt lườn 28 tháng 2, 1925
Hạ thủy 8 tháng 11, 1926
Đổi tên I-22, 8 tháng 11, 1926
Hoàn thành 28 tháng 10, 1928
Nhập biên chế 28 tháng 10, 1928
Xuất biên chế 16 tháng 3, 1933
Tái biên chế 15 tháng 11, 1933
Xuất biên chế 15 tháng 2, 1936
Tái biên chế 30 tháng 6, 1936
Xuất biên chế 20 tháng 6, 1938
Đổi tên I-122, 1 tháng 6, 1938
Tái biên chế 1 tháng 5, 1940
Xóa đăng bạ 15 tháng 9, 1945
Số phận Bị tàu ngầm USS Skate đánh chìm trong biển Nhật Bản , 10 tháng 6, 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp I-121 (Kiraisen)
Trọng tải choán nước
  • 1.142 tấn Anh (1.160 t) (nổi) [1]
  • 1.768 tấn Anh (1.796 t) (lặn) [1]
Chiều dài 85,2 m (279 ft 6 in) chung[1]
Sườn ngang 7,52 m (24 ft 8 in)[1]
Mớn nước 4,42 m (14 ft 6 in)[1]
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 10.500 nmi (19.400 km) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h) (nổi) [1]
  • 40 nmi (74 km) ở tốc độ 4,5 hải lý trên giờ (8,3 km/h) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm
  • 75 m (246 ft) (ban đầu)
  • 55 m (180 ft) (từ năm 1936)
Thủy thủ đoàn tối đa 75[1]
Vũ khí

I-122, nguyên là Tàu ngầm số 49 và mang tên I-22 từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp I-121 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nhập biên chế năm 1928, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, bao gồm các Chiến dịch Mã LaiPhilippines, cuộc ném bom Darwintrận Midway, cũng như các Chiến dịch Guadalcanal, Đông SolomonNew Guinea. I-121 được rút về đảm nhiệm vai trò huấn luyện từ cuối năm 1943 cho đến khi bị tàu ngầm Hoa Kỳ USS Skate đánh chìm trong biển Nhật Bản vào ngày 10 tháng 6, 1945.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp I-121 là lớp tàu ngầm chuyên rải thủy lôi duy nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.[3] Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là Kiểu tàu ngầm Kiraisen (機雷潜型潜水艦 Kiraisen-gata sensuikan?); là tên rút gọn từ Kirai Fusetsu Sensuikan (機雷敷設水艦 Tàu ngầm rải mìn?).[3] Thiết kế của chúng dựa trên chiếc tàu ngầm rải mìn SM U-125, một chiếc Type UE II của Hải quân Đế quốc Đức, là chiếc lớn nhất trong số bảy tàu ngầm Đức mà Nhật Bản nhận được sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất như là chiến lợi phẩm bồi thường chiến tranh. U-125 đã phục vụ cùng Hải quân Nhật Bản như là chiếc O-6 trong những năm 1920-1921.[3]

Giống như U-125, tàu ngầm kiểu Kiraisen có hai động cơ diesel cung cấp tổng công suất 2.400 mã lực (1.790 kW), có khả năng mang theo 42 quả thủy lôi, có bốn ống phóng ngư lôi cùng một khẩu hải pháo trên boong tàu với cỡ nòng 5,5 inch (140 mm) của Nhật Bản thay cho cỡ 5,9 inch (150 mm) trên U-125.[3] So sánh với chiếc tàu ngầm Đức nguyên mẫu, lớp I-125 có kích thước lớn hơn, dài hơn 10 foot (3 m) và trọng lượng choán nước nặng hơn 220 tấn khi nổi và 300 tấn khi lặn — và có tầm hoạt động xa hơn 970 hải lý (1.800 km; 1.120 mi) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi nổi và 5 hải lý (9,3 km; 5,8 mi) ở tốc độ 4,5 hải lý trên giờ (8,3 km/h; 5,2 mph) khi lặn.[3] Tuy nhiên I-125 chậm hơn 0,2 hải lý trên giờ (0,37 km/h; 0,23 mph) cả khi nổi và lặn, mang theo ít hơn hai ngư lôi, và chỉ có thể lặn sâu đến 200 foot (61 m) khi so với 250 foot (76 m) của U-125.[3]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

I-122 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 49 tại xưởng tàu của hãng KawasakiKobe vào ngày 20 tháng 10, 1924.[4][5] Nó được đổi tên thành I-22[4][5] đồng thời được hạ thủy cùng vào ngày 8 tháng 11, 1926.[4][5] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 28 tháng 10, 1928,[4][5] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Kosokabe Yuzuru.[4][5]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

1928 – 1937

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước lúc nhập biên chế, I-22 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure[4][5] nhưng được điều sang Quân khu Hải quân Yokosuka sau khi hoàn tất.[4] Vào ngày 1 tháng 11, 1927, nó được phân về Đội tàu ngầm 9 thuộc Hải đội Phòng vệ Yokosuka.[4] Vào ngày 1 tháng 12, 1930, I-22 được điều động trực thuộc Quân khu Hải quân Kure,[4] rồi được phân về Đội tàu ngầm 13 thuộc Quân khu Hải quân Kure từ ngày 15 tháng 10, 1931.[4] Đến ngày 1 tháng 10, 1932, Đội tàu ngầm 13 nằm trong thành phần Hải đội Phòng vệ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure.[4]

I-22 được cho xuất biên chế vào ngày 15 tháng 3, 1933 và đưa về thành phần dự bị tại Kure, Hiroshima.[4][5] Đến ngày 15 tháng 11, 1933, Đội tàu ngầm 13 được phối thuộc trực tiếp cùng Quân khu Hải quân Kure, đồng thời I-22 được cho tái biên chế và gia nhập đơn vị này.[4][5] Sau khi tàu ngầm chị em I-24 bị hư hại thùng dằn chính vào ngày 25 tháng 5, 1935 khi thử nghiệm lặn sâu cùng tàu chị em I-23,[6] Đội tàu ngầm 13 được điều về Hải đội Phòng vệ Kure từ ngày 15 tháng 11,[5]I-22 được cho xuất biên chế vào ngày hôm đó để gia cố thùng dằn chính.[5] Tuy nhiên đến năm 1936, cả bốn chiếc trong lớp đều bị giới hạn độ sâu lặn tối đa theo thiết kế còn 180 ft (55 m).[6] Sau khi hoàn tất việc gia cố thùng dằn, I-22 được cho tái biên chế trở lại vào ngày 30 tháng 6, 1936.[5]

Chiến tranh Trung Nhật

[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ sau khi xảy ra sự kiện Lư Câu Kiều (cầu Marco Polo) vào ngày 7 tháng 7, 1937.[5] Đến tháng 9, Đội tàu ngầm 13 bao gồm I-22 và tàu ngầm chị em I-21 chuyển đến căn cứ tại Thanh Đảo, Trung Quốc, bắt đầu hoạt động tại vùng biển phía Bắc Trung Quốc như một phần của kế hoạch phong tỏa Trung Quốc.[5][7] Đến ngày 1 tháng 12, Đội tàu ngầm 13 được phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 3 trực thuộc Đệ Tứ hạm đội, một bộ phận của Hạm đội Liên hợp. [4] Cùng trong tháng 12, tàu tuần dương hạng nhẹ Kuma được phái đến Thanh Đảo để đảm nhiệm vai trò soái hạm cho Hải đội Tàu ngầm 3, vốn bao gồm các tàu ngầm I-21, I-22, I-23I-24. [7]

I-21 cùng với I-22 được lệnh hộ tống bảo vệ từ xa cho Kuma khi chiếc tàu tuần dương tiến hành đổ bộ một đơn vị Lực lượng Đổ bộ Đặc biệt Hải quân (SNLF) tại Yên Đài, Trung Quốc vào ngày 3 tháng 2, 1938. Tuy nhiên cả hai chiếc tàu ngầm đều gặp trục trặc động cơ, nên đã không thể lên đường để hỗ trợ cho Kuma.[5] Hai chiếc tàu ngầm thành công hơn vào ngày 22 tháng 3, khi cùng xuất phát từ Lữ Thuận Khẩu (Port Arthur), Mãn Châu và mỗi chiếc đã cho đổ bộ 15 binh lính SNLF đặt căn cứ tại Thượng Hải lên đảo Lưu Công ở cửa vịnh Uy Hải, rồi quay trở lại Lữ Thuận Khẩu.[4][5]

I-22 được cho đổi tên thành I-122 vào ngày 1 tháng 6, 1938,[4][5] để lấy lên cũ đặt cho chiếc tàu ngầm mới I-22, một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?), vốn sẽ được đặt lườn vào năm đó.[8] Đến ngày 20 tháng 6, 1938, I-122 được cho xuất biên chế và đưa về thành phần dự bị 2 thuộc Quân khu Hải quân Kure.[4] Trong một nỗ lực nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ quốc tế do cuộc xung đột với Trung Quốc, Nhật Bản cho rút lực lượng tàu ngầm của họ khỏi vùng biển Trung Quốc từ tháng 12, 1938.[7]

1939 – 1941

[sửa | sửa mã nguồn]

Đang khi trong thành phần dự bị, I-122, cùng với các tàu chị em I-121, I-123I-124 (nguyên là các chiếc I-21, I-23I-24 tương ứng, được đổi tên cùng vào ngày 1 tháng 6, 1938), được cải biến thành những tàu ngầm chở dầu.[3] Vẫn giữ lại khả năng mang ngư lôi và thủy lôi, chúng được tái trang bị để có thể vận chuyển 15 tấn xăng máy bay dùng để tiếp nhiên liệu cho các thủy phi cơ,[5][3] cho phép các máy bay này mở rộng tầm xa hoạt động trong các phi vụ trinh sát và ném bom, bằng cách gặp gỡ các tàu ngầm này tại các cảng hay vũng biển để tiếp thêm nhiên liệu. [3]

I-122 được cho tái biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5, 1940 trong thành phần Đội tàu ngầm 13,[4] và đơn vị này được phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 5 trực thuộc Đệ Tứ hạm đội cùng trong ngày hôm đó.[4] Nó cùng với các tàu chị em I-121, I-123I-124 thực hiện một chuyến đi huấn luyện kéo dài tại Thái Bình Dương.[4][9][10][11] Chúng xuất phát từ Sasebo vào ngày 16 tháng 5, viếng thăm các vùng biển thuộc các quần đảo Caroline, MarshallMariana, trước khi kết thúc chuyến đi tại Yokosuka vào ngày 22 tháng 9, 1940.[4][9][10][11]

Đội tàu ngầm 13 lại được phối thuộc trực tiếp cùng Quân khu Hải quân Kure từ ngày 15 tháng 11, 1940,[4] và trong giai đoạn từ ngày 30 tháng 1 đến ngày 4 tháng 2, 1941, trong khi I-122 được đưa về lực lượng dự bị tại Kure, I-121 tạm thời thay phiên cho tàu chị em I-122 trong vai trò soái hạm của đội tàu ngầm.[5] Đến ngày 1 tháng 5, 1941, Đội tàu ngầm 13 lại được điều sang Hải đội Tàu ngầm 6 trực thuộc Đệ Tam hạm đội, một bộ phận của Hạm đội Liên hợp.[4]

Khi lực lượng Hải quân Nhật Bản bắt đầu được huy động để chuẩn bị cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương, I-122 cùng với tàu tiếp liệu tàu ngầm Chōgei đi đến căn cứ Samah (nay là Tam Á) trên đảo Hải Nam, Trung Quốc vào ngày 27 tháng 11.[5] I-122 khởi hành từ căn cứ này vào ngày 1 tháng 12 để cùng tàu chị em I-121 hướng xuống phía Nam cho chuyến tuần tra đầu tiên của họ trong chiến tranh.[5] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 bên kia đường đổi ngày tại Hawaii, nơi sẽ diễn ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng).[5] Vào ngày 7 tháng 12, ngày cuối cùng trước cuộc xung đột, I-122 đã rải 42 quả thủy lôi Type 88 Mark 1 ở vùng biển phía Đông Bắc Singapore.[5] Sau đó nó cùng I-121 tuần tra ngoài khơi lối ra vào phía Đông của eo biển Johore.[5]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc 11 giờ 45 phút ngày 9 tháng 6, dưới quyền chỉ huy của Đại úy Hải quân Mihara Sosaku, I-122 xuất phát từ Maizuru cho một chuyến đi huấn luyện trong vịnh Nanao trong biển Nhật Bản.[5] Sang ngày hôm sau 10 tháng 6, nó quay trở lại căn cứ tại Nanao, và đang chạy zig-zag trên mặt nước trong vịnh Nanao với tốc độ 15 kn (28 km/h), khi bị tàu ngầm Hoa Kỳ USS Skate phát hiện lúc 11 giờ 20 phút.[5] Đến 11 giờ 44 phút, Skate phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công từ khoảng cách 800 yd (730 m),[5] và hai quả trúng đích phía giữa tàu đã khiến I-122 chìm nhanh chóng ở vị trí 6 nmi (11 km) về phía Đông Nam hải đăng Rokugo Misaki, tại tọa độ 37°29′B 137°25′Đ / 37,483°B 137,417°Đ / 37.483; 137.417.[5] Năm phút sau đó, Skate nghe thấy âm thanh chiếc tàu ngầm bị ép vỡ và một bọt nước lớn trồi lên mặt nước, tiếp nối bởi một lượng lớn dầu.[5]

Trinh sát viên từ hải đăng chứng kiến I-122 bị đắm, nhưng phía Nhật Bản không nhận thức rằng tàu ngầm Hoa Kỳ đã xâm nhập được qua hàng phòng thủ biển Nhật Bản, nên cho rằng chiếc tàu ngầm bị đắm bởi ngư lôi của chính nó.[5] Sau khi sự kiện được báo cáo, một thủy phi cơ Aichi M6A1 Seiran Hải quân được phái đến hiện trường để tìm kiếm những người sống sót, nhưng đã không tìm thấy ai.[5] Skate đã nhìn thấy chiếc Aichi M6A1, nhưng chiếc thủy phi cơ đã không nhìn thấy đối phương.[5]

I-122 bị mất với tổn thất toàn bộ thành viên thủy thủ đoàn.[5] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 15 tháng 9, 1945.[4][5]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m “Type KRS”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  2. ^ Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b c d e f g h i Boyd & Yoshida (1995), tr. 18.
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x “I-122 ex-I-22(1) ex No-49”. ijnsubsite.info. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2014). “IJN Submarine I-122: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  6. ^ a b Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-124: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  7. ^ a b c Boyd & Yoshida (1995), tr. 54.
  8. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-22: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  9. ^ a b “I-121 ex-I-21(1) ex No-48”. ijnsubsite.info. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  10. ^ a b “I-123 ex-I-23(1) ex No-50”. ijnsubsite.info. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.
  11. ^ a b “I-124 ex-I-24(1) ex No-60”. ijnsubsite.info. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Boyd, Carl; Yoshida, Akihiko (1995). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • “Rekishi Gunzō”., History of Pacific War Vol.17 "I-Gō Submarines", Gakken (Japan), January 1998, ISBN 4-05-601767-0
  • “Rekishi Gunzō”., History of Pacific War Extra "Perfect guide, The submarines of the Imperial Japanese Forces", Gakken (Japan), March 2005, ISBN 4-05-603890-2
  • The Maru Special, Ushio Shobō (Japan)
    • Japanese Naval Vessels No. 43, Japanese Submarines III, September 1980
    • Japanese Naval Vessels No. 132, Japanese Submarines I (New edition), February 1988
    • Japanese Naval Vessels No. 133, Japanese Submarines II (New edition), March 1988

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Bạn biết những biện pháp bảo vệ mắt nào?
Bạn biết những biện pháp bảo vệ mắt nào?
Cùng tìm hiểu những biện pháp bảo vệ đôi mắt các bạn nhé
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] trong Tensura
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] trong Tensura
Trái ngược với Tử quỷ tộc [Goblin] (Quỷ nhỏ), đây là chủng tộc mạnh mẽ nhất trong Đại sâm lâm Jura
Review cuốn sách I, Robot: The Illustrated Screenplay của Harlan Ellison
Review cuốn sách I, Robot: The Illustrated Screenplay của Harlan Ellison
I, Robot: The Illustrated Screenplay vốn ban đầu là một kịch bản do Harlan Ellison viết hồi cuối thập niên 70
Tìm hiểu tổ chức Shadow Garden -  The Eminence In Shadow
Tìm hiểu tổ chức Shadow Garden - The Eminence In Shadow
Shadow Garden (シャドウガーデン, Shadou Gāden?) là một tổ chức ẩn bí ẩn được thành lập bởi Cid Kagenō còn được gọi là Shadow.