Nước hoa hay dầu thơm (tiếng Anh: Perfume, tiếng Pháp: parfum) là hỗn hợp của tinh dầu thơm hoặc các hợp chất tạo mùi thơm, chất hãm hương (lưu hương) và dung môi, thường ở dạng lỏng. Sử dụng với mục đích tạo ra mùi thơm cho cơ thể, cảm giác dễ chịu, sự quyến rũ giới tính hay đơn giản chỉ là che giấu một mùi khó chịu nào đó.[1]
Các văn bản cổ và các cuộc khai quật khảo cổ cho thấy việc sử dụng nước hoa trong một số nền văn minh tiền sử. Nước hoa hiện đại bắt đầu vào cuối thế kỷ 19 với sự tổng hợp của các hợp chất tạo mùi thơm thương mại như vanillin hoặc coumarin, cho phép tạo ra nước hoa có mùi mà trước đây không thể đạt được nếu chỉ dùng các chất thơm tự nhiên.
Từ nước hoa trong tiếng Anh (Perfume) bắt nguồn từ tiếng Latinh perfumare, có nghĩa là "hút qua".[2] Nước hoa cũng như nghệ thuật làm nước hoa bắt nguồn từ vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại và có thể cả Trung Quốc cổ đại. Nó được người La Mã và người Ả Rập tinh chỉnh thêm.
Nhà hóa học được ghi nhận đầu tiên trên thế giới được cho là một phụ nữ tên là Tapputi, một nhà sản xuất nước hoa được nhắc đến trong một bảng chữ hình nêm từ thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên ở Lưỡng Hà.[3] Cô chưng cất hoa, dầu và cây Thủy xương bồ với các chất thơm khác, sau đó lọc và đặt chúng trở lại trong bình nhiều lần.[4]
Trên tiểu lục địa Ấn Độ, nước hoa và cách làm nước hoa đã tồn tại trong nền văn minh lưu vực sông Ấn (3300 TCN - 1300 TCN).[5]
Năm 2003,[6] các nhà khảo cổ học đã khám phá ra thứ được cho là loại nước hoa lâu đời nhất còn sót lại trên thế giới ở Pyrgos, Cộng hòa Síp. Nước hoa có niên đại hơn 4.000 năm. Chúng được phát hiện trong một xưởng sản xuất nước hoa cổ, rộng 300 mét vuông (3.230 sq ft)[6] chứa ít nhất 60 ảnh tĩnh, bát trộn, phễu và chai nước hoa. Vào thời cổ đại, người ta sử dụng các loại thảo mộc và gia vị như Hạnh đào, rau mùi, Hương đào, nhựa cây tùng và cam Bergamot cùng một số hoa khác.[7] Vào tháng 5 năm 2018, một loại nước hoa cổ đại "Rodo" (Hoa hồng) đã được tái chế trong buổi trình diễn kỷ niệm "Vô số khía cạnh của vẻ đẹp" của Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia Hy Lạp, cho phép du khách trở về thời cổ đại thông qua khứu giác.[8]
Vào thế kỷ thứ 9, nhà hóa học người Ả Rập al-Kindī (Alkindus) đã viết cuốn sách Hóa học về nước hoa và chưng cất, trong đó có hơn một trăm công thức sản xuất dầu thơm, nước muối, nước thơm và các chất thay thế hoặc bắt chước các loại thuốc đắt tiền. Cuốn sách cũng mô tả 107 phương pháp và công thức sản xuất nước hoa và thiết bị làm nước hoa như nồi cất (vẫn mang tên tiếng Ả Rập của nó.[9][10] [từ tiếng Hy Lạp ἄμβιξ chó nghĩa là "cốc", "cốc mỏ"][11][12] được Synesius mô tả vào thế kỷ thứ 4[13]).
Nhà hóa học Ba Tư Ibn Sina (còn được gọi là Avicenna) đã giới thiệu quy trình chiết xuất tinh dầu từ hoa bằng phương pháp chưng cất, quy trình được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Lần đầu tiên, ông thử nghiệm với hoa hồng. Cho đến khi ông phát hiện ra, nước hoa dạng lỏng bao gồm hỗn hợp dầu và các loại thảo mộc hoặc cánh hoa nghiền nát tạo thành một hỗn hợp nồng đậm. Nước hoa hồng tinh tế hơn và ngay lập tức trở nên phổ biến. Cả nguyên liệu thô và công nghệ chưng cất của ông đều ảnh hưởng đáng kể đến quá trình phát triển khoa học và nước hoa phương Tây, đặc biệt là hóa học.
Nghệ thuật làm nước hoa có lẽ đã được biết đến ở Tây Âu từ năm 1221, dựa trên các công thức nấu ăn của các tu sĩ ở Santa Maria delle Vigne hoặc Santa Maria Novella ở Firenze, Ý.[14] Ở phương đông, người Hungary đã sản xuất một loại nước hoa làm từ dầu thơm pha trong dung dịch cồn - hay được gọi là Nước Hungary - theo lệnh của Nữ hoàng Elizabeth của Hungary vào khoảng năm 1370.[15][16][17] Nghệ thuật làm nước hoa thịnh vượng ở Ý thời Phục hưng, và vào thế kỷ 16, nhà pha chế nước hoa riêng cho Caterina de' Medici (1519–1589) là René người Firenze (Renato il fiorentino) đã mang những cải tiến của Ý đến Pháp. Phòng thí nghiệm của anh được kết nối với các căn hộ của cô bằng một lối đi bí mật để không có công thức nào có thể bị đánh cắp trên đường đi. Nhờ Rene, Pháp nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm sản xuất nước hoa và mỹ phẩm của Châu Âu. Việc trồng hoa để lấy tinh chất nước hoa bắt đầu từ thế kỷ 14 và đã phát triển thành một ngành công nghiệp quan trọng ở miền Nam nước Pháp.
Giữa thế kỷ 16 và 17, nước hoa chủ yếu được sử dụng bởi những người giàu có để che đi mùi cơ thể do tắm rửa không thường xuyên. Năm 1693, thợ cắt tóc người Ý Giovanni Paolo Feminis đã tạo ra một loại nước hoa có tên Aqua Admirabilis,[18] ngày nay được biết đến nhiều nhất với tên gọi eau de cologne; cháu trai của ông là Johann Maria Farina (Giovanni Maria Farina) tiếp quản công việc kinh doanh vào năm 1732.[19][20]
Vào thế kỷ 18, vùng Grasse của Pháp, Sicilia và Calabria (ở Ý) đã trồng cây thơm để cung cấp nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp nước hoa đang phát triển. Ngay cả ngày nay, Ý và Pháp vẫn là trung tâm của thiết kế và thương mại nước hoa châu Âu.
Các loại nước hoa phản ánh nồng độ của các hợp chất thơm trong dung môi, trong đó có mùi thơm đặc trưng là etanol hoặc hỗn hợp nước và etanol. Các nguồn khác nhau đáng kể trong định nghĩa của các loại nước hoa. Cường độ và tuổi thọ của nước hoa dựa trên nồng độ, cường độ và tuổi thọ của các hợp chất thơm hoặc tinh dầu nước hoa. Khi nồng độ các hợp chất thơm tăng lên thì cường độ và tuổi thọ của mùi hương cũng tăng theo. Các thuật ngữ cụ thể được sử dụng để mô tả nồng độ gần đúng của hương thơm bằng phần trăm tinh dầu nước hoa trên thể tích của sản phẩm cuối cùng. Các thuật ngữ phổ biến nhất[21] là:
Có nhiều sự nhầm lẫn về thuật ngữ "cologne" (nghĩa là nước hoa co-lô-nhơ), từ này có ba nghĩa chính. Định nghĩa đầu tiên và lâu đời nhất đề cập đến một loại nước hoa tươi, chiết xuất từ cam quýt, được chưng cất bằng cách sử dụng chiết xuất từ các thành phần cam quýt, hoa và gỗ. Người ta cho rằng chúng được phát triển lần đầu tiên vào đầu thế kỷ 18 ở Köln, Đức nên có tên như vậy. Loại "cologne cổ điển" này mô tả các chế phẩm dành cho giới tính "về cơ bản là hỗn hợp cam quýt và không có thành phần phụ là nước hoa."[22] Ví dụ như 4711 của Mäurer & Wirtz (được tạo ra vào năm 1799) và Eau de Cologne Impériale của Guerlain (1853).
Trong thế kỷ 20, thuật ngữ này mang ý nghĩa thứ hai. Các công ty nước hoa bắt đầu đưa ra những giải thích nhẹ nhàng hơn, ít tập trung hơn về các loại nước hoa hiện có của họ, giúp sản phẩm của họ phổ biến cho nhiều đối tượng khách hàng hơn. Ví dụ, Guerlain đã đưa ra phiên bản Eau de Cologne của nước hoa Shalimar hàng đầu của mình. Trái ngược với các loại nước hoa cologne cổ điển, loại nước hoa cologne hiện đại này nhẹ hơn, loãng hơn so với sản phẩm nồng độ cao hơn là parfum nguyên bản. Phiên bản nước hoa cologne thường có nồng độ nhẹ nhất trong một dòng sản phẩm nước hoa.[22]
Cuối cùng, thuật ngữ "cologne" đã đi vào ngôn ngữ tiếng Anh như một thuật ngữ chung để biểu thị một loại nước hoa của đàn ông bất kể nồng độ của nó. Sản phẩm của đàn ông thực tế mặc về mặt kỹ thuật có thể là eau de toilette nhưng anh ta vẫn có thể nói rằng anh ta "sức nước hoa cologne". Một vấn đề tương tự cũng xẩy ra với thuật ngữ "perfume", có thể được sử dụng theo nghĩa chung để chỉ các loại nước hoa được bán cho phụ nữ cho dù hương thơm có thực sự là extrait hay không.
Nước hoa cologne cổ điển lần đầu tiên xuất hiện ở Châu Âu vào thế kỷ 17. Hương thơm đầu tiên được dán nhãn chiết xuất "parfum" với nồng độ cao các hợp chất thơm là Jicky của Guerlain vào năm 1889. Eau de Toilette xuất hiện cùng với parfum vào khoảng đầu thế kỷ. Thuật ngữ và nồng độ EdP xuất hiện gần đây nhất. Parfum de toilette và EdP bắt đầu xuất hiện từ những năm 1970 và trở nên phổ biến vào những năm 1980.
Phạm vi về tỷ lệ phần trăm các hợp chất thơm rộng lớn trong nồng độ nước hoa có nghĩa là thuật ngữ extrait, EdP, EdT và EdC là hoàn toàn không chính xác. Mặc dù EdP thường sẽ có nồng độ cao hơn EdT và EdT có nồng độ cao hơn EdC nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Các xưởng chế nước hoa hoặc nhà sản xuất nước hoa khác nhau chỉ định lượng tinh dầu khác nhau với mỗi loại nước hoa của họ. Do đó, mặc dù nồng độ dầu của nước hoa trong dung dịch pha loãng EdP sẽ cao hơn so với nước hoa EdT cùng loại của một công ty nhưng liều lượng thực tế khác nhau giữa các nhà sản xuất nước hoa. EdT từ nhà sản xuất này có thể có nồng độ các hợp chất thơm cao hơn một EdP từ nhà sản xuất khác.
Hơn nữa, một số loại nước hoa có cùng tên sản phẩm nhưng có nồng độ khác nhau có thể không chỉ khác nhau về độ pha loãng mà các hỗn hợp tinh dầu nước hoa cũng khác nhau hoàn toàn. Ví dụ, để làm cho phiên bản EdT của nước hoa nhẹ hơn và tươi hơn EdP của nó, dầu EdT có thể được "tinh chỉnh" để chứa nhiều hương đầu hơn một chút hoặc ít hương cuối hơn. Chanel Nº 5 là một ví dụ điển hình: nồng độ parfum, EdP, EdT và EdC hiện đã ngừng sản xuất của nó trên thực tế là các thành phần khác nhau (parfum có từ năm 1921, trong khi EdP không được phát triển cho đến những năm 1980). Trong một số trường hợp, những từ như extrême, intense hoặc concentrée có thể biểu thị nồng độ hương thơm cao hơn thực sự là những loại nước hoa hoàn toàn khác nhau nhưng có một sự hoà quyện hương nước hoa tương tự nhau. Một ví dụ về điều này là Pour Monsieur và Pour Monsieur Concentrée của Chanel.
Trong lịch sử, nước hoa của phụ nữ có xu hướng có hàm lượng hợp chất thơm cao hơn nước hoa của nam giới. Nước hoa dành cho nam giới thường được bán dưới dạng EdT hoặc EdC, hiếm khi là EdP hoặc chiết xuất từ nước hoa nguyên chất. Điều này đang thay đổi trong thế giới nước hoa hiện đại, đặc biệt là khi nước hoa ngày càng dùng được cho cả hai giới. Nước hoa dành cho phụ nữ trước đây thường phổ biến ở mọi mức độ nồng độ nhưng ngày nay chủ yếu là các nồng độ parfum, EdP và EdT.
Dầu nước hoa thường được pha loãng với một dung môi mặc dù điều này không phải lúc nào cũng đúng như vậy và sự cần thiết của nó còn bị tranh cãi. Cho đến nay, dung môi phổ biến nhất để pha loãng tinh dầu nước hoa là rượu, thường là hỗn hợp của etanol và nước hoặc cồn tinh cất. Dầu nước hoa cũng có thể được pha loãng bằng các loại dầu có mùi trung tính như dầu dừa phân đoạn hoặc sáp lỏng như dầu Jojoba.
Thoạt đầu nước hoa chỉ là sản phẩm dành riêng cho phái đẹp, dành riêng cho những quý bà quyền quý bởi tự nó toát lên sự sang trọng, quyến rũ và gợi cảm. Còn ngày nay, nước hoa đã trở nên quen thuộc với mọi người, mọi lứa tuổi. Đã chấm dứt những tư tưởng nước hoa không dành cho nam giới và chỉ dành cho phái đẹp cho giới giàu sang quyền quý.
Mỗi sản phẩm nước hoa có mục đích sử dụng và đối tượng khách hàng riêng biệt như: sử dụng trong các hoạt động thể thao, trong các bữa tiệc, trong dã ngoại hay tiệc ngoài trời...Với các đối tượng được phân loại theo độ tuổi, phong cách, giới tính, nghề nghiệp.
Cách sử dụng truyền thống là bôi (xức) lên một số vị trí nhất định của cơ thể, và là cách sử dụng hiệu quả nhất. Việc xức nước hoa lên quần, áo hay các đồ dùng thật sự chỉ là một sự lãng phí. Cổ tay, phía sau tai, dưới cổ là những vị trí thường được dùng, nguyên tắc là không dùng nước hoa với những vùng da mỏng (như mặt), các vùng da tiết mồ hôi nhiều (như nách), các vết thương hở, mẩn ngứa.
Việc sử dụng nước hoa nguyên chất thông thường (parfum extrait) trong các nền văn hóa phương Tây là ở các điểm mạch như sau tai, gáy và mặt trong của cổ tay, khuỷu tay và đầu gối, nhờ đó, điểm mạch sẽ làm ấm nước hoa và tỏa hương thơm liên tục. Theo chuyên gia nước hoa Sophia Grojsman, phía sau đầu gối là điểm lý tưởng để thoa nước hoa để mùi hương có thể bay lên.[24] Ngành công nghiệp nước hoa hiện đại khuyến khích phân lớp hương thơm để nó được giải phóng với các cường độ khác nhau tùy thuộc vào thời điểm trong ngày. Nên dùng các sản phẩm có mùi thơm nhẹ như dầu tắm, sữa tắm, sữa dưỡng thể vào buổi sáng; eau de toilette được gợi ý dùng cho buổi chiều và nước hoa thoa lên các điểm mạch vào buổi tối.[25] Hương thơm nước hoa Cologne được giải phóng nhanh, kéo dài khoảng 2 giờ. Eau de toilette kéo dài từ 2 đến 4 giờ trong khi nước hoa có thể kéo dài đến 6 giờ.[26]
Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến cách hương thơm tương tác với tâm sinh lý của người sử dụng và ảnh hưởng đến cảm nhận về hương thơm. Chế độ ăn uống là một yếu tố vì ăn thức ăn cay và béo có thể làm tăng cường độ của mùi thơm.[27] Việc sử dụng thuốc cũng có thể ảnh hưởng đến đặc tính của hương thơm.[27] Độ khô tương đối của da người sử dụng là rất quan trọng vì da khô sẽ không giữ được mùi thơm lâu như da tiết nhiều dầu.[26]
Các công thức chính xác của nước hoa thương mại được giữ bí mật. Ngay cả khi chúng được công bố rộng rãi thì chúng sẽ bị chi phối bởi các thành phần và chất tạo mùi phức tạp đến mức chẳng cần thiết để hướng dẫn cho người tiêu dùng nói chung về trải nghiệm của một mùi hương. Tuy nhiên, những người sành nước hoa có thể trở nên cực kỳ khéo léo trong việc xác định các thành phần và nguồn gốc của mùi hương theo cách giống như các chuyên gia rượu vang.[28]
Cách thực tế nhất để bắt đầu mô tả một loại nước hoa là dựa theo các yếu tố trong nốt hương của mùi hương hoặc "họ" của nó, tất cả đều ảnh hưởng đến ấn tượng tổng thể về một loại nước hoa từ lần thoa đầu tiên đến gợi ý cuối cùng của mùi hương.[29][30]
Dấu vết của mùi hương do một người xức nước hoa để lại được gọi là sillage trong từ tiếng Pháp có nghĩa là "lằn tàu", giống như dấu vết do một chiếc thuyền rẽ nước để lại.
Nước hoa được miêu tả trong một phép ẩn dụ âm nhạc là có ba bộ nốt, tạo nên mùi hương hài hòa. Các nốt mở ra theo thời gian với ấn tượng ngay lập tức của nốt đầu dẫn đến nốt giữa sâu hơn và nốt cuối dần xuất hiện ở giai đoạn cuối. Những nốt này được tạo ra một cách cẩn thận dựa trên kiến thức về quá trình bay hơi của nước hoa.
Nốt hương đầu và giữa chịu ảnh hưởng của nốt hương cuối. Cũng như vậy, mùi hương của nốt cuối có thể bị bẻ cong khi kết hợp với nốt hương giữa.
Các nhà sản xuất thường ghi chú những nguyên liệu họ sử dụng trong các nốt hương cũng như thời gian lưu hương theo từng bậc (ở điều kiện chuẩn thí nghiệm của họ).
Ví dụ về nốt hương
Nhóm các loại nước hoa không bao giờ có thể hoàn toàn khách quan hoặc dứt khoát được. Có nhiều loại hương khác nhau được hợp thành ở mỗi họ. Ngay cả một loại nước hoa được cho là "Single Floral (từ một loài hoa)" cũng sẽ có các sắc thái nhẹ của các loại hương thơm khác. Hầu như không có bất kỳ loại nước hoa đơn nhất nào thực sự chỉ bao gồm một chất thơm duy nhất.
Phân loại họ mùi là một nơi khởi đầu để mô tả một loại nước hoa nhưng không hoàn toàn mô tả hết đặc điểm của nó.
Các danh mục truyền thống xuất hiện vào khoảng năm 1900:
Kể từ năm 1945, các danh mục mới đã xuất hiện để mô tả mùi hương hiện đại, do những tiến bộ lớn trong công nghệ thiết kế và tổng hợp hợp chất, cũng như sự phát triển tự nhiên của phong cách và thị hiếu:
Phương pháp phân loại mới này được sử dụng rộng rãi trong ngành bán lẻ và ngành công nghiệp nước hoa, được tạo ra vào năm 1983 bởi nhà tư vấn nước hoa Michael Edwards. Lược đồ mới đơn giản hóa việc phân loại và đặt tên cũng như hiển thị mối quan hệ giữa các cấp độ.[33]
Năm họ chính là Floral (Hoa), Oriental (phương Đông), Woody (Gỗ), Aromatic Fougère (Fougère thơm) và Fresh (Tươi), bốn họ đầu tiên từ thuật ngữ cổ điển và họ cuối cùng thuộc loại đại dương hiện đại. Mỗi loại được chia thành các nhóm con và sắp xếp xung quanh một bánh xe. Theo cách chia này, Chanel No.5, theo truyền thống được phân loại là hương hoa aldehyde, được xếp vào nhóm phụ Soft Floral, mùi hương hổ phách nằm trong nhóm Oriental. Nước hoa Chypre mơ hồ hơn, có mối liên hệ với cả hai họ Phương Đông và Gỗ. Chẳng hạn như Mitsouko của Guerlain thuộc Mossy Woods nhưng Rouge của Hermès, một loại chypre nhiều hoa hơn thuộc Floral Oriental.
Thực vật từ lâu đã được sử dụng trong nước hoa như một nguồn cung cấp tinh dầu và các hợp chất tạo mùi thơm. Những chất thơm này thường là chất chuyển hóa thứ cấp do thực vật tạo ra để bảo vệ chống lại động vật ăn thực vật, nhiễm trùng cũng như thu hút các loài thụ phấn. Cho đến nay, thực vật là nguồn cung cấp hợp chất thơm lớn nhất được sử dụng trong nước hoa. Nguồn của các hợp chất này có thể được lấy từ các bộ phận khác nhau của cây. Một loại cây có thể cung cấp nhiều hơn một nguồn chất thơm, ví dụ như các phần thân trên và hạt của rau mùi có mùi khác biệt đáng kể. Lá, hoa và vỏ quả cam là những nguồn tương ứng của petitgrain, tinh dầu hoa cam và dầu cam.
Nhiều loại nước hoa hiện đại có chứa chất tạo mùi tổng hợp. Chất tổng hợp có thể cung cấp các loại nước hoa không có trong tự nhiên. Ví dụ như Calone, một hợp chất có nguồn gốc tổng hợp, được tạo ra một mùi hương biển kim loại tươi mát được sử dụng rộng rãi trong nước hoa đương đại. Chất thơm tổng hợp thường được sử dụng như một nguồn thay thế của các hợp chất không dễ dàng thu được từ các nguồn tự nhiên. Ví dụ, linalool và coumarin đều là những hợp chất tự nhiên có thể được tổng hợp từ terpene một cách rẻ tiền. Hương hoa lan (điển hình là axit salicylic) thường không thu được trực tiếp từ chính cây mà thay vào đó được tạo ra một cách tổng hợp để phù hợp với các hợp chất thơm có trong các loại hoa lan khác nhau.
Một trong những loại chất thơm tổng hợp được sử dụng phổ biến nhất cho đến nay là xạ hương trắng. Những chất liệu này được tìm thấy trong tất cả các dạng nước hoa thương mại làm nền trung tính cho lớp hương giữa. Những chất xạ hương này được thêm một lượng lớn vào bột giặt để mang lại cho quần áo đã giặt một mùi hương "sạch sẽ" lâu dài.
Phần lớn các chất thơm tổng hợp trên thế giới được tạo ra bởi một số rất ít công ty. Các công ty này bao gồm:
Mỗi công ty trong số này đều đăng kí cấp bằng sáng chế cho một số quy trình sản xuất chất thơm tổng hợp hàng năm.
Chất tổng hợp và tự nhiên được sử dụng sẽ cho các đặc trưng mùi khác nhau trong nước hoa
Tự nhiên | Tổng hợp | |
---|---|---|
Sự khác biệt | Mùi hương tự nhiên sẽ khác nhau ở mỗi nhà cung cấp do thời gian và địa điểm thu hoạch, cách chúng được chế biến và phương pháp chiết xuất. Điều này có nghĩa là một loại hoa nào đó được trồng ở Ma-rốc và ở Pháp sẽ có mùi khác nhau ngay cả khi trồng, thu hoạch và chiết xuất mùi hương bằng phương pháp giống nhau. Như vậy, mỗi người làm nước hoa sẽ thích hoa được trồng ở nước này hơn nước khác hoặc phương pháp chiết xuất này hơn phương pháp chiết xuất khác. Tuy nhiên, do thành phần hỗn hợp có mùi hương tự nhiên, các nhà cung cấp vô đạo đức rất dễ làm tạp nhiễm nguyên liệu thực tế bằng cách thay đổi nguồn của nó (thêm hoa nhài Ấn Độ thành hoa nhài Grasse) hoặc thành phần (thêm linalool vào gỗ hồng) để tăng biên lợi nhuận của họ. | Nhất quán hơn nhiều so với chất thơm tự nhiên. Tuy nhiên, sự khác biệt trong tổng hợp hữu cơ có thể dẫn đến sự khác biệt nhỏ về nồng độ tạp chất. Nếu các tạp chất này có ngưỡng mùi (phát hiện) thấp thì sự khác biệt về mùi hương của chất thơm tổng hợp sẽ rất đáng kể. |
Thành phần | Chứa nhiều hợp chất hữu cơ khác nhau, mỗi loại thêm một nốt hương khác nhau vào mùi hương tổng thể. Một số chất có nguồn gốc tự nhiên có lịch sử sử dụng lâu dài nhưng điều này không phải lúc nào cũng được sử dụng như một chỉ số để đánh giá liệu chúng có an toàn hay không. Các hợp chất có thể gây dị ứng hoặc gây ung thư. | Tùy thuộc vào độ tinh khiết, chủ yếu bao gồm một hợp chất hóa học. Đôi khi hỗn hợp bất đối xứng của các đồng phân, chẳng hạn như trong trường hợp Iso E Super.[36] Do thành phần gần như tinh khiết của một hợp chất hóa học, các phân tử tương tự được tìm thấy được pha loãng tự nhiên sẽ có mùi hương và tác dụng khác nhau trên cơ thể nếu sử dụng không pha loãng. |
Tính độc đáo của mùi hương | Gợi nhớ đến nguyên liệu có nguồn gốc của nó, mặc dù quá trình chiết xuất có thể tạo ra một "lớp" mùi khác nhau tùy thuộc vào cách phương pháp chiết xuất làm biến tính các hợp chất tạo mùi. | Tương tự như mùi hương tự nhiên nhưng khác thời điểm. Một số chất tổng hợp cố gắng bắt chước các nốt tự nhiên trong khi những chất khác khám phá toàn bộ phổ mùi hương. Các hợp chất tạo mùi hương mới lạ không có trong tự nhiên thường sẽ có mùi hương độc đáo. |
Mùi hương phức tạp | Hương thơm sâu và phức tạp. Sắc thái mùi hương tinh tế. Được đánh giá cao về thành phần lý tưởng. | Hương thơm tinh khiết và rõ rệt. Thường đơn điệu về bản chất nhưng gợi nhớ đến những mùi hương tự nhiên khác. |
Giá thành | Phụ thuộc vào phương pháp chiết xuất. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng đắt hơn vì giá cả được xác định bởi công lao động và khó khăn trong việc chiết xuất đúng từng đơn vị nguyên liệu tự nhiên, cũng như chất lượng của nó. Thông thường, mối quan hệ giữa tuổi thọ của nước hoa, chi phí và nồng độ tinh dầu dựa theo biểu đồ dưới đây: [37] | Phụ thuộc vào phương pháp tổng hợp. Nói chung rẻ hơn nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Chất thơm tổng hợp không nhất thiết phải rẻ hơn chất tự nhiên, một số chất tổng hợp đắt hơn hầu hết các thành phần tự nhiên do các yếu tố khác nhau như đường tổng hợp dài, lượng tiền chất sẵn có thấp và năng suất tổng thể thấp. Tuy nhiên, do ngưỡng mùi thấp, chúng nên được pha loãng khi làm nước hoa. |
Trước khi có thể tạo ra nước hoa, trước tiên phải thu được các chất tạo mùi được sử dụng trong các chế phẩm nước hoa khác nhau. Chất tạo mùi tổng hợp được tạo ra thông qua quá trình tổng hợp hữu cơ và được tinh chế. Chất tạo mùi từ các nguồn tự nhiên đòi hỏi phải sử dụng các phương pháp khác nhau để chiết xuất chất thơm từ nguyên liệu thô. Kết quả của quá trình chiết xuất là tinh dầu, dịch nguyên chất, chất cô đặc hoặc mỡ, tùy thuộc vào lượng sáp trong sản phẩm chiết xuất.[38]
Tất cả các kỹ thuật này sẽ làm biến dạng mùi của các hợp chất thơm thu được từ nguyên liệu thô ở một mức độ nhất định. Điều này là do việc sử dụng nhiệt, dung môi mạnh hoặc qua việc tiếp xúc với oxy trong quá trình chiết xuất sẽ làm biến tính các hợp chất thơm, làm thay đổi đặc tính mùi của chúng hoặc làm cho chúng mất mùi.
Mặc dù công chúng thường gọi các loại dịch chiết thơm bằng thuật ngữ chung là "tinh dầu" nhưng trong ngành nước hoa, người ta sử dụng một thuật ngữ cụ thể hơn để mô tả nguồn gốc, độ tinh khiết và kỹ thuật được sử dụng để thu được một dịch chiết thơm cụ thể. Trong số các chất chiết xuất này, chỉ có dịch nguyên chất, tinh dầu và cồn thuốc được sử dụng trực tiếp để tạo ra nước hoa.
Các sản phẩm từ các phương pháp chiết xuất khác nhau được biết đến dưới các tên khác nhau mặc dù nguyên liệu ban đầu của chúng giống nhau. Ví dụ, hoa cam từ cam đắng đã trải qua quá trình chiết xuất dung môi tạo ra "dịch hoa cam nguyên chất" nhưng hoa đã được chưng cất bằng hơi nước được gọi là "dầu hoa cam".
Sáng tạo nước hoa là một phần quan trọng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, từ các ngành hàng xa xỉ, các ngành dịch vụ thực phẩm đến các nhà sản xuất hóa chất gia dụng. Mục đích của việc sử dụng nước hoa hoặc các chế phẩm tạo mùi thơm trong các ngành công nghiệp này là tác động đến khách hàng thông qua khứu giác và lôi kéo họ mua nước hoa hoặc sản phẩm có mùi thơm. Vì vậy, người ta quan tâm đáng kể đến việc sản xuất một công thức nước hoa mà mọi người sẽ thấy hài lòng về mặt thẩm mỹ.
Công việc sáng tạo nước hoa được giao cho một chuyên gia về thành phần nước hoa hoặc được biết đến trong ngành công nghiệp nước hoa với cái tên nhà pha chế nước hoa (perfumer). Đôi khi chúng cũng được gọi một cách trìu mến là "Nez" (tiếng Pháp có nghĩa là mũi) do khứu giác tốt và kỹ năng phân loại mùi.
Sáng tạo một loại nước hoa thường bắt đầu bằng một bản chỉ dẫn của người thuê nhà sáng tạo nước hoa hoặc một khách hàng bên ngoài. Khách hàng của nhà pha chế nước hoa hoặc người thuê họ thường là các hãng thời trang hoặc các tập đoàn lớn thuộc nhiều ngành khác nhau. [39] Sau đó, nhà pha chế nước hoa sẽ trải qua quá trình pha trộn nhiều hỗn hợp nước hoa và bán công thức cho khách hàng, thường là có những thay đổi về thành phần của nước hoa. Sáng tạo nước hoa sau đó sẽ được sử dụng để làm nổi bật sản phẩm khác như một hương thơm chức năng (dầu gội, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, nội thất xe hơi, v.v.) hoặc được tiếp thị và bán trực tiếp cho công chúng như một hương thơm hảo hạng.[28]
Mặc dù không có một kỹ thuật "chính xác" duy nhất để tạo ra một loại nước hoa nhưng có những hướng dẫn chung về cách một loại nước hoa có thể được tạo ra từ một khái niệm. Mặc dù nhiều thành phần không góp phần tạo nên mùi nước hoa nhưng nhiều loại nước hoa đều có chất tạo màu và chất chống oxy hóa để cải thiện hả năng tiếp thị và thời hạn sử dụng của nước hoa.
Dầu nước hoa thường chứa hàng chục đến hàng trăm thành phần và chúng thường được đưa vào trong nước hoa với vai trò cụ thể riêng. Những thành phần này có thể được nhóm lại thành bốn nhóm:
Hương đầu, hương giữa và hương cuối của nước hoa có thể có mùi hương chính và thành phần hỗ trợ riêng biệt. Dầu thơm của nước hoa sau đó được pha trộn với rượu etylic và nước, ủ trong bể trong vài tuần và được lọc qua thiết bị xử lý để các thành phần nước hoa trong hỗn hợp ổn định và loại bỏ toàn bo cặn và các hạt lơ lửng trước khi dung dịch được rót vào những chai nước hoa.[39]
Thay vì tạo ra một loại nước hoa "từ đâu chí cuối", nhiều loại nước hoa và nước hoa hiện đại được sản xuất bằng cách sử dụng nền hương hoặc đơn giản là nền. Mỗi lớp hương về cơ bản là nước hoa mô-đun được pha trộn từ tinh dầu và hóa chất thơm, được pha chế với một khái niệm đơn giản như "cỏ mới cắt" hoặc "táo chua ngon ngọt". Nhiều dòng Aqua Allegoria của Guerlain với khái niệm hương thơm đơn giản của họ là những ví dụ điển hình về nền hương nước hoa.
Nỗ lực được sử dụng trong việc phát triển nền hương của các công ty nước hoa hoặc các nhà sản xuất nước hoa cá nhân có thể tương đương với nỗ lực của một loại nước hoa bán trên thị trường vì chúng hữu ích ở chỗ có thể tái sử dụng. Ngoài khả năng tái sử dụng, lợi ích của việc sử dụng nền hương là rất nhiều:
Tạo nước hoa thông qua kỹ thuật đảo ngược với các kỹ thuật phân tích như sắc kí chất khí-trắc khối phổ (GC / MS) có thể tiết lộ công thức "chung" cho bất kỳ loại nước hoa cụ thể nào. Khó khăn trong phân tích GC/MS nảy sinh do sự phức tạp của các thành phần của nước hoa. Điều này đặc biệt là do sự hiện diện của tinh dầu tự nhiên và các thành phần khác trong một hỗn hợp hóa học phức tạp. Tuy nhiên, "bất kỳ ai được trang bị thiết bị GC/MS tốt và có kinh nghiệm sử dụng thiết bị này ngày nay đều có thể tìm hiểu rất nhiều về công thức của bất kỳ loại nước hoa nào... khách hàng và đối thủ cạnh tranh có thể phân tích chính xác hầu hết các loại nước hoa."[40]
Nước hoa cổ hoặc được bảo quản kém trong quá trình phân tích này cũng có thể khó khăn do có nhiều sản phẩm phụ và tạp chất xuống cấp có thể do sự phân hủy của các hợp chất có mùi. Các thành phần và hợp chất thường có thể được loại trừ hoặc xác định bằng cách sử dụng máy ngưởi sắc ký chất khí (GC), cho phép xác định từng thành phần hóa học thông qua các đặc tính vật lý và mùi hương của chúng. Kỹ thuật đảo ngược các loại nước hoa bán chạy nhất trên thị trường là một thực tế rất phổ biến trong ngành công nghiệp nước hoa do sự đơn giản tương đối của việc vận hành thiết bị GC, áp lực sản xuất nước hoa có thể bán được trên thị trường và lợi nhuận cao của thị trường nước hoa.[39]
Không rõ liệu nước hoa có đủ điều kiện là đối tượng bản quyền thích hợp theo Đạo luật Bản quyền của Hoa Kỳ hay không. Vấn đề vẫn chưa được giải quyết bởi bất kỳ tòa án Hoa Kỳ. Mùi hương của nước hoa không đủ điều kiện để được bảo hộ thương hiệu: mùi hương đóng vai trò là thành phần chức năng của sản phẩm.[41]
Năm 2006, Tòa án tối cao Hà Lan đã cấp bảo hộ bản quyền cho nước hoa Tresor của Lancôme (Lancôme v. Kecofa). Tòa án tối cao Pháp đã hai lần đưa ra quan điểm rằng nước hoa thiếu tính sáng tạo để cấu thành các cách diễn đạt có bản quyền (Bsiri-Barbir v. Haarman & Reimer, 2006; Beaute Prestige International v. Senteur Mazal, 2008).[41]
Một ví dụ về việc né tránh luật nhãn hiệu được biết đến ở các quốc gia cũ thuộc Liên Xô là "номерная парфюмерия" (nghĩa đen là "nước hoa được đánh số"): thay vì làm giả đơn thuần hoặc tái thiết kế và tái tạo bản quyền một cách tinh vi cho chai và bao bì của một loại nước hoa nổi tiếng, "công ty đánh số" có thiết bị nước hoa sẽ sử dụng chai của riêng họ chứ không sao chép nguyên xi, được dán nhãn là "hương thơm hướng [nước hoa nổi tiếng]" hoặc là "phiên bản" của một số loại nước hoa có thương hiệu.
Người bán lại trực tiếp tại các cửa hàng truyền thống (trong trung tâm thương mại, cửa hàng ở sân bay) có thể cung cấp nước hoa "có thể làm đầy" và có xu hướng khẳng định nước hoa của họ liên quan đến nước hoa nổi tiếng được đề cập đến mức tuyên bố "được phân phối từ cùng một bể chứa",[theo ai?] tùy thuộc vào người bán lại.
Các thành phần nước hoa, bất kể nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, đều có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe hoặc môi trường khi sử dụng. Mặc dù các lĩnh vực đang được nghiên cứu tích cực, nhưng vẫn còn nhiều điều cần tìm hiểu về tác động của hương thơm đối với sức khỏe con người và môi trường.
Bằng chứng trên các tạp chí được bình duyệt cho thấy một số loại nước hoa có thể gây ra phản ứng hen suyễn ở một số người, đặc biệt là những người bị hen suyễn nặng hoặc dị ứng.[43] Nhiều thành phần hương thơm cũng có thể gây đau đầu, dị ứng da[44] hoặc buồn nôn.[45][46][47]
Trong một số trường hợp, sử dụng quá nhiều nước hoa có thể gây ra các phản ứng dị ứng trên da. Ví dụ, acetophenone, etyl acetat và aceton[39] trong nhiều loại nước hoa được biết đến hoặc có khả năng gây dị ứng đường hô hấp. Tuy nhiên, điều này có thể gây hiểu lầm vì tác hại của nhiều loại hóa chất này (tự nhiên hoặc tổng hợp) phụ thuộc vào điều kiện môi trường và nồng độ của chúng trong nước hoa. Ví dụ, linalool được liệt kê là chất gây kích ứng, gây kích ứng da khi nó phân hủy thành peroxide, tuy nhiên, việc sử dụng chất chống oxy hóa trong nước hoa hoặc giảm nồng độ có thể ngăn chặn điều này. Ngoài ra, furanocoumarin có trong chiết xuất tự nhiên của bưởi hoặc cần tây có thể gây ra các phản ứng dị ứng nghiêm trọng và tăng nhạy cảm với bức xạ tia cực tím.[48]
Một số nghiên cứu về chất thơm tự nhiên đã chỉ ra rằng nhiều loại có chứa các hợp chất gây kích ứng da.[49] Tuy nhiên, một số nghiên cứu, chẳng hạn như nghiên cứu của IFRA cho rằng opoponax quá nguy hiểm để được sử dụng trong sản xuất nước hoa vẫn còn thiếu sự đồng thuận về mặt khoa học.[50] Cũng đúng là đôi khi chỉ hít vào cũng có thể gây kích ứng da.
Một số cuộc khảo sát trong nước và quốc tế đã xác định balsam Peru, chất thường được sử dụng trong nước hoa, nằm trong "năm chất gây dị ứng hàng đầu" thường gây ra phản ứng thử nghiệm miếng đắp ở những người được chuyển đến phòng khám da liễu.[51][52][53] Một nghiên cứu vào năm 2001 cho thấy 3,8% người được thử nghiệm bị dị ứng với nó.[54] Nhiều loại nước hoa có chứa các thành phần giống như balsam Peru.[55]
Balsam Peru được sử dụng như một chất đánh dấu dị ứng nước hoa. Sự hiện diện của nó trong mỹ phẩm được biểu thị bằng thuật ngữ Myroxylon pereirae theo INCI.[56] Balsam Peru đã bị Hiệp hội Nước hoa Quốc tế cấm sử dụng như một hợp chất tạo mùi thơm từ năm 1982 nhưng có thể có mặt dưới dạng chiết xuất hoặc sản phẩm chưng cất trong các sản phẩm khác, nơi không cần ghi nhãn bắt buộc khi sử dụng từ 0,4% hoặc ít hơn.[55]
Có bằng chứng khoa học cho thấy nitro-xạ hương như xylene xạ hương có thể gây ung thư trong một số thử nghiệm trên động vật cụ thể. Các báo cáo này được đánh giá bởi Ủy ban Khoa học về An toàn Người tiêu dùng của EU (SCCS, trước đây là SCCNFP[57]) và xylene xạ hương được chứng minh là an toàn để tiếp tục sử dụng trong các sản phẩm mỹ phẩm.[58] Trên thực tế, một phần của các thủ tục của Quy định Mỹ phẩm ở Châu Âu là các nguyên liệu được phân loại là chất gây ung thư yêu cầu cơ quan chức năng đánh giá an toàn để được phép sử dụng trong các sản phẩm mỹ phẩm tiêu dùng.
Mặc dù các thành phần khác như xạ hương tổng hợp đa vòng đã được báo cáo là dương tính trong một số xét nghiệm hormone trong ống nghiệm,[59][60] các báo cáo này đã được các cơ quan chức năng xem xét. Ví dụ, đối với một trong những loại xạ hương đa vòng chính là Galaxolide (HHCB), các đánh giá này bao gồm các đánh giá của Ủy ban Khoa học EU về An toàn Người tiêu dùng,[61] Đánh giá các Chất ưu tiên của EU,[62] Ủy ban Khoa học EU về Rủi ro Môi trường và Sức khỏe[63] và gần đây là EPA Hoa Kỳ.[64] Kết quả của tất cả các đánh giá này trong hơn một thập kỷ qua là không có mối lo ngại về an toàn đối với sức khỏe con người. Các đánh giá với kết quả tích cực tương tự cũng tồn tại đối với một loại xạ hương đa vòng chính khác (AHTN)—về sự an toàn khi sử dụng trong mỹ phẩm theo EU.[65]
Nhiều chất thơm tự nhiên như rêu sồi,[49][66] dầu húng quế, dầu hoa hồng và nhiều chất khác chứa chất gây dị ứng hoặc các hợp chất gây ung thư, độ an toàn của chúng hoặc được điều chỉnh bởi các quy định (ví dụ: mức metyl eugenol cho phép trong Quy định Mỹ phẩm của EU (Mục 102, Phụ lục III của Quy định Mỹ phẩm của EU.[67]) hoặc thông qua các giới hạn khác nhau do Hiệp hội Nước hoa Quốc tế đặt ra.[68]
Xạ hương tổng hợp có mùi dễ chịu và tương đối rẻ. Vì vậy chúng thường được sử dụng với số lượng lớn để che mùi khó chịu của bột giặt và nhiều sản phẩm tẩy rửa cá nhân. Do việc sử dụng trên quy mô lớn, một số loại xạ hương tổng hợp đã được tìm thấy trong chất béo và sữa người,[69] cũng như trong trầm tích và nước của Great Lakes.[70]
Các chất ô nhiễm này có thể gây ra thêm các vấn đề về sức khỏe và môi trường khi chúng xâm nhập vào thức ăn của người và động vật.
Nhu cầu về nguyên liệu thơm như gỗ đàn hương, trầm hương và xạ hương cũng như buôn bán và thu hoạch trái phép đã dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng của các loài này.
Ngành công nghiệp nước hoa ở Hoa Kỳ không chịu sự quản lý trực tiếp của FDA, thay vào đó FDA kiểm soát độ an toàn của nước hoa thông qua các thành phần của chúng và yêu cầu chúng phải được kiểm tra ở mức độ mà chúng được công nhận là an toàn nói chung (GRAS). Do nhu cầu bảo vệ bí mật kinh doanh, các công ty hiếm khi đưa ra danh sách đầy đủ các thành phần bất kể ảnh hưởng của chúng đối với sức khỏe. Ở Châu Âu, kể từ ngày 11 tháng 3 năm 2005, danh sách bắt buộc của một bộ 26 chất gây dị ứng hương thơm được công nhận đã được thực thi. [72] Yêu cầu liệt kê các vật liệu này phụ thuộc vào mục đích sử dụng của sản phẩm cuối cùng. Các giới hạn trên mà các chất gây dị ứng được yêu cầu công bố là 0,001% đối với các sản phẩm lưu lại trên da và 0,01% đối với các sản phẩm có thể rửa sạch. Điều này đã dẫn đến nhiều loại nước hoa cũ như chypres và fougère, vốn yêu cầu sử dụng chiết xuất từ cây sồi được cải tiến lại.
Các hợp chất tạo mùi thơm trong nước hoa sẽ bị biến chất hoặc hỏng nếu được bảo quản không đúng cách trong điều kiện nhiệt, ánh sáng, oxy và các vật liệu hữu cơ không liên quan. Bảo quản nước hoa đúng cách bao gồm việc giữ chúng tránh xa các nguồn nhiệt và cất chúng ở nơi không tiếp xúc với ánh sáng. Một chai đã mở nắp sẽ giữ được hương thơm nguyên vẹn trong vài năm miễn là nó được bảo quản tốt. [28] Tuy nhiên, sự có mặt của oxy trong khoang đầu của chai và các yếu tố môi trường về lâu dài sẽ làm biến đổi mùi của nước hoa.
Nước hoa được bảo quản tốt nhất khi được giữ trong chai nhôm kín nhẹ hoặc trong bao bì ban đầu khi không sử dụng và được bảo quản lạnh ở nhiệt độ tương đối thấp: từ 3–7 °C (37–45 °F). Mặc dù rất khó để loại bỏ hoàn toàn oxy ra khỏi khoang đầu của một bình lưu trữ hương thơm, nhưng lựa chọn thiết bị dạng xịt thay vì dạng con lăn và chai "mở" sẽ giảm thiểu tiếp xúc với oxy. Thuốc xịt cũng có lợi thế là cô lập hương thơm bên trong chai và ngăn không cho nó trộn với bụi, da và mảnh vụn, những thứ sẽ làm giảm chất lượng và thay đổi chất lượng của nước hoa.
Có một số kho lưu trữ và viện bảo tàng dành cho việc bảo tồn các loại nước hoa cổ, cụ thể là Osmothèque, nơi lưu trữ hơn 3.000 loại nước hoa từ hai thiên niên kỷ qua trong công thức ban đầu của chúng. Tất cả các mùi hương trong bộ sưu tập của họ được bảo quản trong các bình thủy tinh không nhạy quang được phủ bằng khí argon, được bảo quản trong các ngăn cách nhiệt duy trì ở 12 °C (53,6 °F) trong một hầm lớn.[71]
In 1693 an Italian, Giovanni Paolo de Feminis created a fragrance called "Aqua Mirabilis". This fragrance was said to have therapeutic properties to aid with headaches and heart palpitations. It was designed as a non-gender aroma that would enhance one's mood.
You’ll see all sorts of names in the fragrance section: perfume, eau de toilette, parfum, eau de cologne. What makes them different — and in many cases, more expensive?
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về: |