Nội chiến Nigeria

Nội chiến Nigeria
Một phần của Chiến tranh LạnhPhi thực dân hóa châu Phi
Thời gian6 tháng 7 năm 1967 – 15 tháng 1 năm 1970
(2 năm, 6 tháng, 1 tuần và 2 ngày)
Địa điểm
Đông Nam Nigeria
Kết quả

Chiến thắng của Nigeria

Tham chiến
 Biafra
Hỗ trợ:
Chỉ huy và lãnh đạo

Thành phần tham chiến
 Nigeria Armed Forces

 Biafra Armed Forces

  • Lính đánh thuê nước ngoài
Lực lượng
  • 10,000[4]–100,000[2] (1967)
  • 110,000 (1968)[5]
  • 50,000[3]–100,000[6] (1970)
Thương vong và tổn thất

45.000[3]–100.000[7][8] binh sĩ thiệt mạng


500.000–2.000.000 thường dân Biafra chết đói trong cuộc phong tỏa hải quân Nigeria[9][cần chú thích đầy đủ]


2.000.000–4.500.000 người di tản,[10] trong đó có 500.000 người chạy sang nước khác[11]

Nội chiến Nigeria hay Chiến tranh Nigeria–Biafra (tiếng Anh: Nigerian Civil War, Nigerian–Biafran War hay Biafran War) (6 tháng 7 năm 1967 – 15 tháng 1 năm 1970) là cuộc nội chiến giữa NigeriaCộng hòa Biafra, một quốc gia ly khai đã tuyên bố độc lập khỏi Nigeria vào năm 1967. Nigeria do Tướng Yakubu Gowon lãnh đạo, trong khi Biafra do Trung tá Chukwuemeka "Emeka" Odumegwu Ojukwu chỉ huy.[12] Biafra đại diện cho khát vọng chủ nghĩa dân tộc của nhóm dân tộc Igbo, mà nhóm lãnh đạo cảm thấy họ không còn có thể cùng tồn tại với chính phủ liên bang, vốn bị chi phối bởi lợi ích của người Hồi giáo Hausa-Fulanis ở Bắc Nigeria.[13] Cuộc xung đột bắt nguồn từ những căng thẳng chính trị, kinh tế, sắc tộc, văn hóa và tôn giáo xảy ra trước khi Vương quốc Anh chính thức phi thực dân hóa Nigeria từ năm 1960 đến năm 1963. Nguyên nhân trực tiếp của cuộc chiến năm 1966 bao gồm một cuộc đảo chính quân sự, một cuộc phản đảo chínhthảm sát người Igbo ở miền Bắc Nigeria.[14] Kiểm soát việc sản xuất nguồn dầu béo bở ở đồng bằng sông Niger cũng là một nguyên nhân chiến lược quan trọng, và là một nguyên nhân khiến Pháp ủng hộ mạnh mẽ Biafra.[15]

Trong vòng một năm, quân đội chính phủ Nigeria đã bao vây Biafra và chiếm được các cơ sở dầu mỏ ven biển và thành phố Port Harcourt. Một cuộc phong tỏa được áp dụng như một chính sách có chủ ý trong thời gian bế tắc, mà sau đó dẫn đến việc dân thường Biafran chết đói hàng loạt.[16] Trong hai năm rưỡi của cuộc chiến, có khoảng 100.000 thương vong quân sự tổng thể, trong khi khoảng 500.000 đến 2 triệu thường dân Biafra chết đói.[17]

Cùng với Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra đồng thời, Nội chiến Nigeria là một trong những cuộc chiến đầu tiên trong lịch sử loài người được truyền hình cho khán giả toàn cầu.[18] Vào giữa năm 1968, hình ảnh những đứa trẻ Biafra suy dinh dưỡng và chết đói tràn ngập các phương tiện thông tin đại chúng của các nước phương Tây. Hoàn cảnh của những người Biafra chết đói đã trở thành một nguyên nhân gây chú ý chính ở nước ngoài, tạo điều kiện cho sự gia tăng đáng kể nguồn tài trợ và sự nổi bật của các tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO). Biafra đã nhận được viện trợ nhân đạo quốc tế từ dân thường trong cuộc không vận Biafra, một sự kiện đã truyền cảm hứng cho việc thành lập Bác sĩ không biên giới sau khi chiến tranh kết thúc. Vương quốc AnhLiên Xô là các nước ủng hộ chính của chính phủ Nigeria, trong khi Pháp, Israel (sau năm 1968) và một số quốc gia khác ủng hộ Biafra.[19] Quan điểm chính thức của Hoa Kỳ là trung lập, coi Nigeria là "trách nhiệm của Anh",[20] nhưng một số người giải thích việc từ chối công nhận Biafra là có lợi cho chính phủ Nigeria.[21][22]

Chiến tranh đã bộc lộ những sai sót trong chủ nghĩa toàn châu Phi ngay từ đầu thời kỳ châu Phi giành độc lập khỏi chủ nghĩa thực dân, thông qua bằng chứng cho thấy các dân tộc châu Phi quá đa dạng để tìm thấy sự thống nhất chung, đồng thời nó cũng bộc lộ những điểm yếu ban đầu của Tổ chức châu Phi Thống nhất.[23] Chiến tranh cũng dẫn đến việc người Igbo bị gạt ra ngoài lề chính trị, vì Nigeria chưa bao giờ có tổng thống người Igbo nào khác kể từ khi chiến tranh kết thúc, khiến một số người Igbo tin rằng họ đang bị trừng phạt bất công vì chiến tranh.[24] Chủ nghĩa dân tộc Igbo đã nổi lên kể từ khi chiến tranh kết thúc, cũng như nhiều nhóm ly khai tân Biafra như Người bản địa BiafraPhong trào Hiện thực hóa Nhà nước có chủ quyền Biafra.[25]

  1. ^ a b Air support
  2. ^ Materiel support and shared military intelligence
  3. ^ a b c d e f g h Materiel support
  4. ^ a b c d e f Diplomatic support

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Nkwocha, 2010: 156
  2. ^ a b c Karl DeRouen & U. K. Heo (2007). Civil wars of the world: Major conflicts since World War II. Tomo I. Santa Bárbara: ABC CLIO, p. 569. ISBN 978-1-85109-919-1.
  3. ^ a b c Phillips, Charles, & Alan Axelrod (2005). "Nigerian-Biafran War". Encyclopedia of Wars. Tomo II. New York: Facts On File, Inc., ISBN 978-0-8160-2853-5.
  4. ^ Onyema Nkwocha (2010). The Republic of Biafra: Once Upon a Time in Nigeria: My Story of the Biafra-Nigerian Civil War – A Struggle for Survival (1967–1970). Bloomington: AuthorHouse, p. 25. ISBN 978-1-4520-6867-1.
  5. ^ West Africa. Londres: Afrimedia International, 1969, p. 1565. "Malnutrition affects adults less than children, half of whom have now died, reports Debrel, who also describes the reorganisation of the Biafran army after the 1968 defeats, making it a 'political' army of 110,000 men; its automatic weapons, ..."
  6. ^ Stan Chu Ilo (2006). The Face of Africa: Looking Beyond the Shadows. Bloomington: AuthorHouse, p. 138. ISBN 978-1-4208-9705-0.
  7. ^ Paul R. Bartrop (2012). A Biographical Encyclopedia of Contemporary Genocide. Santa Bárbara: ABC-CLIO, p. 107. ISBN 978-0-313-38679-4.
  8. ^ Bridgette Kasuka (2012). Prominent African Leaders Since Independence. Bankole Kamara Taylor, p. 331. ISBN 978-1-4700-4358-2.
  9. ^ Stevenson 2014, tr. 314: "The mass killing during the Nigeria-Biafra War was the result of a 'deliberately imposed economic blockade on the inhabitants of Nigeria's southeastern region by the country's federal government' that led to an induced 'famine in which over two million people died of starvation and related diseases.'"
  10. ^ Godfrey Mwakikagile (2001). Ethnic Politics in Kenya and Nigeria. Huntington: Nova Publishers, p. 176. ISBN 978-1-56072-967-9.
  11. ^ DeRouen & Heo, 2007: 570
  12. ^ “Nigeria – Independent Nigeria”. Encyclopedia Britannica (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020.
  13. ^ Daly, Samuel Fury Childs (2020). “A Nation on Paper: Making a State in the Republic of Biafra”. Comparative Studies in Society and History. 62 (4): 868–894. doi:10.1017/S0010417520000316. S2CID 224852757.
  14. ^ Plotnicov, Leonard (1971). “An Early Nigerian Civil Disturbance: The 1945 Hausa-Ibo Riot in Jos”. The Journal of Modern African Studies. 9 (2): 297–305. doi:10.1017/S0022278X00024976. ISSN 0022-278X. JSTOR 159448. S2CID 154565379.
  15. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Anwunah
  16. ^ Campbell, Colin (29 tháng 3 năm 1987). “Starvation Was The Policy”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  17. ^ “ICE Case Studies: The Biafran War”. American University: ICE Case Studies. American University. 1997. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  18. ^ Daly, Samuel Fury Childs (2020). A history of the Republic of Biafra : law, crime, and the Nigerian Civil War. Cambridge, United Kingdom. ISBN 9781108887748.
  19. ^ Chinua, Achebe (2012). There was a country: a personal history of Biafra. pearson.
  20. ^ Luepke, Anna-Katharina (2018). The 'Other Side' of the Nigeria-Biafra War: A Transnational History (PDF) (PhD). Bangor University. tr. 2. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2023. tr. 2: The United States, on the other hand, professed neutrality considering Nigeria, in the words of an American diplomat, as 'a responsibility of Britain'.
  21. ^ “Foreign Relations of the United States, 1964–1968”. Office of the Historian, US State Department. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2022.
  22. ^ Luepke, Anna-Katharina (2018). The 'Other Side' of the Nigeria-Biafra War: A Transnational History (PDF) (PhD). Bangor University. tr. 104. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2023. tr. 104: Despite remaining officially neutral and declaring an arms embargo on both sides, the United States leaned more towards federal Nigeria. A report prepared for president Nixon in January 1969 sees U.S. options as limited, arguing that 'our role is important but it alone will not ensure a solution' and 'to the degree that we have leverage, we have it only with the Feds'. The U.S. thus followed a policy described in the report in the following terms: 'support the Feds diplomatically, endorse "One Nigeria" with Ibo protection but refuse to sell arms'.
  23. ^ Ayittey, George B. N. (tháng 11 năm 2010). “The United States of Africa: A Revisit”. The Annals of the American Academy of Political and Social Science. 632 (1): 86–102. doi:10.1177/0002716210378988. S2CID 145436388.
  24. ^ Ugwueze, Michael I. (3 tháng 4 năm 2021). “Biafra War Documentaries: Explaining Continual Resurgence of Secessionist Agitations in the South-East, Nigeria”. Civil Wars. 23 (2): 207–233. doi:10.1080/13698249.2021.1903781. S2CID 233593634.
  25. ^ Onuoha, G. (2014). “The politics of 'hope' and 'despair': Generational dimensions to Igbo nationalism in post-civil war Nigeria”. African Sociological Review / Revue Africaine de Sociologie (bằng tiếng Anh). 18 (1): 2–26. doi:10.4314/asr.v18i1 (không hoạt động 3 July 2023). ISSN 1027-4332.Quản lý CS1: DOI không hoạt động tính đến tháng 7 2023 (liên kết)

Các tài liệu lịch sử và ghi nhớ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Falola, Toyin, and Ogechukwu Ezekwem, eds. Writing the Nigeria-Biafra War (Boydell & Brewer, 2016).
  • Nwosu, Maik. "The Muse of History and the Literature of the Nigeria-Biafra War." in Routledge Handbook of Minority Discourses in African Literature (Routledge, 2020) pp. 276–291.
  • O'Sullivan, Kevin (2014). “Humanitarian encounters: Biafra, NGOs and imaginings of the Third World in Britain and Ireland, 1967–70”. Journal of Genocide Research. 16 (2–3): 299–315. doi:10.1080/14623528.2014.936706. hdl:10379/6616. S2CID 71299457.
  • Ojaide, Tanure, and Enajite Eseoghene Ojaruega, eds. The Literature and Arts of the Niger Delta (Taylor & Francis, 2021) online.
  • Ojaruega, Enajite Eseoghene. "From the Niger Delta's viewpoint: The Nigerian Civil War literature." in The Literature and Arts of the Niger Delta (Routledge, 2021) pp. 206–217.
  • Ojaruega, Enajite E. "Beyond Victimhood: Female Agency in Nigerian Civil War Novels." CLCWeb: Comparative Literature and Culture 23.4 (2022): 2+ online.
  • Roy-Omoni, Alex. "Sleeping Crocodiles are not Dead: Echoes of The Civil War in Contemporary Niger Delta Poetry." African Journal of Rhetoric 13.1 (2021): 261–281.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài viết

[sửa | sửa mã nguồn]

Tài liệu quân sự

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tổng quan về EP trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
Tổng quan về EP trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
EP có nghĩa là Giá Trị Tồn Tại (存在値), lưu ý rằng EP không phải là ENERGY POINT như nhiều người lầm tưởng
Viết cho những chông chênh tuổi 30
Viết cho những chông chênh tuổi 30
Nếu vẫn ở trong vòng bạn bè với các anh lớn tuổi mà trước đây tôi từng chơi cùng, thì có lẽ giờ tôi vẫn hạnh phúc vì nghĩ mình còn bé lắm
Genius - Job Class siêu hiếm của Renner
Genius - Job Class siêu hiếm của Renner
Renner thì đã quá nổi tiếng với sự vô nhân tính cùng khả năng diễn xuất tuyệt đỉnh và là kẻ đã trực tiếp tuồng thông tin cũng như giúp Demiurge và Albedo
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Yui (結ゆい) là con gái thứ tám của thủ lĩnh làng Đá và là vợ của Gabimaru.