Chiến tranh Palestine 1948 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của xung đột liên cộng đồng ở Lãnh thổ Ủy trị Palestine, xung đột Ả Rập – Israel và xung đột Israel–Palestine | |||||||||
Các binh sĩ Ả Rập trước một chiếc xe tải bọc thép của Haganah đang bốc cháy gần thành phố Jerusalem (k. 1948) | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Yishuv Trước 26 tháng 5 năm 1948: Sau 26 tháng 5 năm 1948: Tình nguyện viên quốc tế: |
| ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Lực lượng | |||||||||
Israel: ban đầu ~10.000, tăng lên 115.000 vào tháng 3 năm 1949 |
Liên quân Ả Rập: ban đầu ~2.000, tăng lên 70.000, bao gồm:
| ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
6.080 chết (khoảng 4.074 lính và 2.000 thường dân)[8] |
Khoảng +5.000[8] đến 20.000 (bao gồm cả thường dân),[9] trong đó có 4.000 binh sĩ Ai Cập, Jordan và Syria Ước tính khác: 15.000 lính Ả Rập chết và 25.000 bị thương [10] |
Chiến tranh Palestine 1948[a] là cuộc chiến diễn ra ở khu vực Lãnh thổ Ủy trị Palestine của Anh.[12][13][14][15][16][17] Trong chiến tranh, người Anh rút khỏi Palestine, các lực lượng theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái chiếm đóng lãnh thổ và thành lập Nhà nước Israel, và hơn 700.000 người Palestine đã chạy trốn hoặc bị trục xuất. Đây là cuộc chiến đầu tiên trong xung đột Israel–Palestine và rộng hơn là xung đột Ả Rập – Israel.
Cuộc chiến được chia thành hai giai đoạn chính. Giai đoạn đầu tiên là cuộc nội chiến 1947–1948 bắt đầu từ ngày 30 tháng 11 năm 1947,[18] một ngày sau khi Liên Hợp Quốc bỏ phiếu thông qua Kế hoạch phân chia Palestine về phân chia lãnh thổ thành các quốc gia có chủ quyền của người Do Thái và Ả Rập. Trong thời kỳ này, Anh vẫn duy trì quyền cai trị ngày càng suy yếu đối với Palestine và thỉnh thoảng can thiệp vào các hành động bạo lực.[19][20] Vào cuối giai đoạn nội chiến, các lực lượng theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã thực hiện Kế hoạch Dalet, một chiến dịch tấn công nhằm chinh phục lãnh thổ với mục đích thành lập một nhà nước Do Thái theo kế hoạch.[21]
Giai đoạn thứ hai của cuộc chiến bắt đầu vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, với việc chấm dứt sự ủy trị của Anh và tuyên bố thành lập Nhà nước Israel. Sáng hôm sau, quân đội Ả Rập bao vây xâm lược Palestine, bắt đầu Chiến tranh Ả Rập – Israel 1948. Quân Ai Cập tiến về phía đông nam trong khi Liên đoàn Ả Rập ở Jordan và lực lượng Iraq chiếm được vùng cao nguyên trung tâm. Syria và Liban chiến đấu với lực lượng Israel ở phía bắc. Lực lượng Phòng vệ Israel đã ngăn chặn được đoàn quân Ả Rập và trong những tháng tiếp theo bắt đầu đẩy lùi họ và tái chiếm lãnh thổ. Đến cuối cuộc chiến, Nhà nước Israel đã chiếm được khoảng 78% lãnh thổ ủy trị trước đây, Vương quốc Jordan chiếm đóng và sáp nhập khu vực mà ngày nay là Bờ Tây, và Ai Cập chiếm đóng Dải Gaza. Chiến tranh chính thức kết thúc với Hiệp định đình chiến 1949, thiết lập “Đường Xanh” (Green Line) phân định các lãnh thổ này.
Trong chiến tranh, các vụ thảm sát và hành động khủng bố đã được cả hai bên tiến hành. Một chiến dịch thảm sát và bạo lực nhắm vào người dân Ả Rập, chẳng hạn như tại Lydda và Ramle và Trận Haifa, dẫn tới việc 700.000 người Palestine bị trục xuất và phải bỏ trốn, với phần lớn các đô thị bị mất dân số và bị phá hủy. Việc bạo lực và sự tước đoạt quyền sở hữu này của người Palestine ngày nay được gọi là Nakba (tiếng Ả Rập có nghĩa là "thảm họa")[22] và mở ra vấn đề người tị nạn Palestine.
This Jewish-Druze partnership was often referred to as a "covenant of blood," in recognition of the common military yoke carried by the two peoples for the security of the country.
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :0
To Jews, the Jewish-Arab war of 1947–1948 is the War of Independence (milchemet ha'atzma'ut). To Arabs, and especially Palestinians, it is the nakba or calamity. I therefore refrain from assigning names to wars. I refer to the wars between the State of Israel and its Arab and Palestinian neighbors according to their dates: 1948, 1956, 1967, 1973, and 1982.
Perhaps the most famous case of differences over the naming of events is the 1948 war (more accurately, the fighting from December 1947 through January 1949). For Israel it is their 'War of Liberation' or 'War of Independence' (in Hebrew, milhemet ha-atzama'ut) full of the joys and overtones of deliverance and redemption. For Palestinians, it is Al-Nakba, translated as 'The Catastrophe' and including in its scope the destruction of their society and the expulsion and flight of some 700,000 refugees.
Although some historians would cite 14 May 1948 as the start of the war known variously as the Israeli War of Independence, an-Nakba (the (Palestinian) Catastrophe), or the first Palestine war, it would be more accurate to consider that war as beginning on 30 November 1947.
'Plan Dalet' or 'Plan D' was the name given by the Zionist High Command to the general plan for military operations within the framework of which the Zionists launched successive offensives in April and early May 1948 in various parts of Palestine. These offensives, which entailed the destruction of the Palestinian Arab community and the expulsion and pauperization of the bulk of the Palestine Arabs, were calculated to achieve the military fait accompli upon which the state of Israel was to be based.
It is impossible to arrive at a definite persuasive estimate. My predilection would be to opt for the loose contemporary British formula, that of 'between 600,000 and 760,000' refugees; but, if pressed, 700,000 is probably a fair estimate
One of the most important problems which must be cleared up before a lasting peace can be established in Palestine is the question of the more than 700,000 Arab refugees who during the Palestine conflict fled from their homes in what is now Israeli occupied territory and are at present living as refugees in Arab Palestine and the neighbouring Arab states.
Approximately 700,000 refugees from the Palestine hostilities, now located principally in Arab Palestine, Transjordan, Lebanon and Syria, will require repatriation to Israel or resettlement in the Arab states.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “GilbertBookReview” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “Morris2008p47” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “Morris2008p412” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “unispal” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “morris2008p67” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “morris2008p116” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.
<ref>
có tên “morris2008p339” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.