Ngụy (Tây Chu) (魏, thế kỷ 11 TCN–661 TCN): quốc gia được Chu Thành Vương phân phong cho em ruột của mình ở đất cũ của nước Cổ Ngụy đời Hạ Thương ngày trước, sau bị nước Tấn tiêu diệt.
Ngụy Tử là tước hiệu của các vị tông chủ họ Ngụy của nước Tấn thời Xuân Thu Chiến Quốc, kể từ khi Ngụy Thù được ban tước tử đến lúc Ngụy Tư được nhà Chu phong hầu có 8 vị giữ tước hiệu này.
Ngụy huyện khai quốc tử là tước hiệu của Thôi Thần Khánh thời Võ Chu.
Ngụy huyện khai quốc tử là tước hiệu của Lư Thừa Nghiệp đời nhà Đường.
Ngụy huyện khai quốc tử là tước hiệu của Lư Toàn Táo đời nhà Đường.
Ngụy huyện khai quốc tử là tước hiệu của Diêu Cảnh Chi đời nhà Đường.
Ngụy hầu là tước hiệu của Bốc Thương thời Xuân Thu, do Đường Huyền Tông truy tặng.
Ngụy hầu là tước hiệu của các vị vua nước Ngụy thời Chiến Quốc, từ khi được nhà Chu công nhận là chư hầu đến trước khi Ngụy Huệ Thành Hầu xưng vương, có 3 vị quân chủ giữ tước hiệu này.
Ngụy Kỳ hầu là tước hiệu của Đậu Anh thời Tây Hán.
Ngụy Thọ hương hầu là tước hiệu của Giả Hủ nhà Tào Ngụy, truyền được 3 đời.
Ngụy quận công cùng Ngụy quốc công là các tước hiệu tiến phong thứ nhất và thứ nhì của Hạng Huy (200-275) con thứ 10 của Hạng Vũ, nhân vật hư cấu trong tác phẩm Tây Sở Bá Vương Sấm Trinh Quán của Hổ Báo Kị.
Ngụy Công từng là tước hiệu của Tào Tháo thời Đông Hán.
Ngụy quận công là tước hiệu của Minh Dự cuối thời Tây Tấn và giai đoạn đầu Ngũ Hồ loạn Hoa.
Ngụy Công từng là tước hiệu của Phù Sưu nhà Tiền Tần.
Ngụy Xương huyện công từng là tước hiệu của Phù Toản nhà Tiền Tần.
Ngụy Vương là tước hiệu của các đời vua nước Ngụy thời Chiến Quốc kể từ khi Ngụy Huệ Thành vương tiếm hiệu thiên tử nhà Chu, có 6 hoặc 7 vị quân chủ nước Ngụy giữ tước hiệu này.
Ngụy Vương là tước hiệu do người nước Ngụy và Sở Ẩn VươngTrần Thắng ủng lập Chu Phất nhằm khôi phục nước Ngụy thời Chiến Quốc, tuy nhiên người này đã kiên quyết cự tuyệt mà tiến cử Ngụy Cữu.
Ngụy Vương là tước hiệu của Ngụy Cữu thời Tần mạt, do Chu Phất ủng lập.
Ngụy Vương là tước hiệu tự xưng của Ngụy Báo sau khi Ngụy Cữu bị giết, thời Tây Sở được đổi gọi là Tây Ngụy Vương.
Ngụy quận vương là tước hiệu tiến phong cuối cùng của Hạng Huy (200-275) con thứ 10 của Hạng Vũ, nhân vật hư cấu trong tác phẩm Tây Sở Bá Vương Sấm Trinh Quán của Hổ Báo Kị.
Ngụy Vương là tước hiệu của Tào Tháo thời Đông Hán, truyền đến đời thứ 2 là Tào Phi thì xưng đế.
Ngụy Vương từng là tước hiệu của Hậu Lương Thái TổChu Ôn thời Ngũ Đại Thập Quốc, ngoài ra 3 đời Tổ tiên trực hệ của Chu Ôn cũng đều được truy phong làm Ngụy Vương.
Ngụy Quốc phu nhân từng là tước hiệu được truy tặng của Hàn Ngụy Quốc phu nhân Sử thị, chính thê của Ngụy quận vương Giả Thiệp, đích mẫu của hữu thừa tướng Ngụy quốc công Giả Tự Đạo thời Nam Tống.
Ngụy Quốc công chúa là danh xưng chung của con gái những vị quân vương nước Ngụy thời Chiến Quốc, trong đó có 2 nhân vật nổi tiếng nhất là Tần Huệ Văn hậu và Tần Điệu Vũ hậu.
Ngụy Quốc trưởng công chúa từng là tước hiệu truy phong của Trang Thuận Đại Trưởng Đế Cơ (zh)(1040—1042), con gái thứ 3 vua Tống Nhân Tông, chết yểu khi chưa đầy 3 tuổi.
Ngụy Quốc công chúa từng là tước hiệu truy phong của Trang Hi Đại Trưởng Đế Cơ (zh), con gái thứ 8 vua Tống Nhân Tông, chết yểu.
Ngụy Quốc đại trưởng công chúa từng là tước hiệu của Ý Mục Đại Trưởng Đế Cơ (zh) (1060—1112), con gái thứ 12 vua Tống Nhân Tông.
Ngụy Quốc đại trưởng công chúa từng là tước hiệu truy phong của Huệ Hòa Đại Trưởng Đế Cơ (zh), con gái đầu lòng vua Tống Anh Tông, sau được gia phong làm Ngụy Quốc Sở Quốc đại trưởng công chúa.
Ngụy Quốc đại trưởng công chúa từng là tước hiệu của Hiền Huệ Bảo An công chúa (zh) (1051-1080), con gái thứ 2 vua Tống Anh Tông.
Hàn Quốc Ngụy Quốc đại trưởng công chúa từng là tước hiệu gia phong của Hiền Đức Ý Hành Đại Trưởng Đế Cơ (zh) (1051-1123), con gái thứ 3 vua Tống Anh Tông, chị em song sinh với Hiền Huệ Bảo An công chúa.
Ngụy Gia Đài trấn (zh): tên một Hương Trấn cũ trước năm 2015 ở huyện Thương Nam thuộc địa cấp thị Thương Lạc tỉnh Thiểm Tây, sau sát nhập vào Triệu Xuyên trấn.
Ngụy kỷ, chương cuối trong bộ sách cổ Trúc thư kỉ niên, cuốn biên niên sử nước Ngụy thời Chiến Quốc, bản gốc hiện đã mất, hiện chỉ còn các bản sao do các học giả đời sau sưu tầm biên soạn.
Ngụy sách (魏策), từ quyển 22 đến quyển 24, một trong 12 thiên của Chiến Quốc sách do Lưu Hướng thời Tây Hán biên soạn, ghi chép về các sách lược của nước Ngụy thời Chiến Quốc.
Ngụy kỷ, bộ sách chép lịch sử nhà Tào Ngụy của Âm Đạm thời Tây Tấn.
Ngụy chí, một phần trong Tam Quốc chí của Trần Thọ thời Tây Tấn.
Ngụy danh thần tấu, phần sau của bộ sách Hán Ngụy danh thần tấu do Trần Thọ thời Tây Tấn biên soạn, ghi chép các bản tấu chương của những danh thần nhà Tào Ngụy.
Ngụy bản kỷ, phần đầu tiên từ quyển 1 đến quyển 5 trong Bắc sử, ghi chép sự tích và công trạng các vị hoàng đế nhà Bắc Ngụy, nhà Đông Ngụy và nhà Tây Ngụy của Lý Diên Thọ thời nhà Đường.
Ngụy bi (zh), tập hợp các tác phẩm thư pháp khắc đá như: Văn bia, Mộ chí, Tạo tượng, Ma nhai..v..v..thời kỳ Bắc triều (386-581) do Khang Hữu Vi thời cận đại sưu tập.
Ngụy Vương hậu là danh xưng của chính thê các vị Ngụy Vương, không phải tước hiệu.
Ngụy Vương phi là danh xưng của chính thê các vị Ngụy quận vương, không phải tước hiệu.
Ngụy Quận phu nhân là danh hiệu nghiễm nhiên của những thê thiếp các vị Ngụy quận công, Ngụy quận hầu, Ngụy quận bá ngày xưa. Tùy theo tước hiệu của chồng mà gọi, không phải tước hiệu của vợ.
Ngụy Huyện phu nhân là danh hiệu nghiễm nhiên của những thê thiếp các vị Ngụy huyện công, Ngụy huyện hầu, Ngụy huyện bá, Ngụy huyện tử, Ngụy huyện nam ngày xưa. Tùy theo tước hiệu của chồng mà gọi, không phải tước hiệu của vợ.
Ngụy phu nhân là danh phận, là cách xưng hô nghiễm nhiên mà người đời gọi khi giao tiếp với những thê thiếp của các vị quan lại hoặc tướng lĩnh họ Ngụy thời xưa.
Tử Hư Nguyên Quân Lĩnh Thượng Chân Tư Mệnh Nam Nhạc Ngụy Phu Nhân: danh hiệu được sắc phong của nữ đạo sĩ Thượng Thanh Phái Ngụy Hoa Tồn (zh) thời Tây Tấn sau khi hiển thánh.
Ngụy phu nhân là biệt danh của nữ thi sĩ Ngụy Ngoạn (zh) thời Bắc Tống.
Ngụy Quận thái thú, chức quan đứng đầu Ngụy quận thời xưa, từ lúc bắt đầu có Ngụy quận đến khi chấm dứt, thỉnh thoảng đan xen có có một số cách gọi khác qua từng triều đại.
Từ dùng để chỉ một chính phủ bù nhìn do ngoại quốc lập ra để hợp thức hóa việc xâm lược và cai trị một quốc gia khác, ví như: Ngụy Sở, Ngụy Tề ..v..v..
Từ dùng để chỉ một chính quyền cướp đoạt ngôi vị của triều đại khác nhưng sau cùng thất bại bởi tôn thất tiền triều đã trung hưng được cơ nghiệp tổ tiên: ví như nhà Lê trung hưng gọi nhà Mạc là Ngụy Mạc, nhà Nguyễn gọi nhà Nguyễn Tây Sơn là Ngụy Tây[3]..v..v..
Từ dùng để chỉ sự vật, sự việc mang tính giả tạo, ví dụ như: Ngụy biện, Ngụy trang..v..v..
Ngụy Gia Nam sự kiện (zh): sự kiện binh nhì nghĩa vụ Ngụy Gia Nam tử vong ở bộ tư lệnh tuần phòng hải ngạn của quân đội Trung Hoa dân quốc ngày 16/01/1996.
Ngụy Nhĩ Thi Đặc Lạp Tư Bức Cận định lý (zh): định lý gần đúng Weierstrass, tên một định lý trong giải tích, nội dung nói mọi hàm liên tục được xác định trên một khoảng đóng [a,b] có thể được xấp xỉ một cách thống nhất gần đúng như mong muốn của một hàm đa thức.
Ngụy Nhĩ Thi Đặc Lạp Tư Phán biệt pháp (zh): Kiểm tra Weierstrass M-Test, là một phương pháp kiểm tra đặc biệt trong toán học để xác định xem một chuỗi vô hạn các hàm có hội tụ đồng đều và tuyệt đối hay không.
Ngụy Nhĩ Thi Đặc Lạp Tư Phân Giải định lý (zh): định lý phân tích nhân tử Weierstrass, tên một định lý trong toán học, khẳng định mọi hàm toàn bộ đều có thể được biểu diễn dưới dạng tích (có thể là vô hạn) bao gồm các số 0 của nó.
Ngụy Nhĩ Tư Đặc Lạp Tư Dự Bị định lý (zh): định lý chuẩn bị Weierstrass, một công cụ để xử lý các hàm phân tích của một số biến phức tạp, tại một điểm P cho trước.
Ngụy Nhĩ Đối (zh): cặp ghép Weil, một cặp (dạng song tuyến tính, mặc dù có ký hiệu nhân) trên các điểm có thứ tự chia n của một đường cong elliptic lấy các giá trị ở nghiệm thứ n của đơn vị.
Trang định hướng này liệt kê những bài viết liên quan đến tiêu đề Ngụy. Nếu bạn đến đây từ một liên kết trong một bài, bạn có thể muốn sửa lại để liên kết trỏ trực tiếp đến bài viết dự định.
Câu chuyện kể về Minazuki Kashou, con trai của một gia đình sản xuất bánh kẹo truyền thống bỏ nhà ra đi để tự mở một tiệm bánh của riêng mình tên là “La Soleil”