Nhóm ngôn ngữ Songhay

Nhóm ngôn ngữ Songhay
Songhai
Sắc tộcngười Songhai
Phân bố
địa lý
Thung lũng sông Niger
(Mali, Niger, Benin, Burkina Faso, Nigeria); ốc đảo rải rác (Niger, Mali, Algérie)
Phân loại ngôn ngữ họcNin-Sahara
  • Songhay–Sahara?[1]
    • Nhóm ngôn ngữ Songhay
Ngữ ngành con
ISO 639-2 / 5:son
Glottolog:song1307[2]
{{{mapalt}}}
Vị trí của các ngôn ngữ Songhay[3]

Songhay Tây Bắc:

Songhay Đông:

Nhóm ngôn ngữ Songhay hoặc Songhai là một nhóm các ngôn ngữ/phương ngữ có liên quan chặt chẽ tập trung ở mạn trung lưu sông Niger ở các quốc gia Tây Phi gồm Mali, Niger, Bénin, Burkina FasoNigeria. Đặc biệt, chúng được nói ở các thành phố TimbuktuGao. Chúng đã được sử dụng rộng rãi như một lingua franca trong khu vực đó kể từ thời Đế chế Songhai. Tại Mali, chính phủ đã chính thức áp dụng phương ngữ Gao (mạn đông Timbuktu) làm phương ngữ phương tiện cho giáo dục tiểu học.[4]

Một số ngôn ngữ Songhay có ít hoặc không có sự thông hiểu lẫn nhau giữa chúng. Ví dụ, người nói Senni Koyraboro (nói ở Gao) không thể hiểu được người nói tiếng ZarmaNiger (theo Ethnologue). Tuy nhiên, ở Niger, tiếng Songhay, tiếng Zarma và tiếng Dendi thông hiểu lẫn nhau ở mức cao.[5]

Đối với các nhà ngôn ngữ học, một điểm quan tâm chính trong các ngôn ngữ Songhay là khó khăn trong việc xác định mối quan hệ di truyền của chúng; chúng thường được coi là thuộc ngữ hệ Nin-Sahara, theo định nghĩa của Joseph Greenberg năm 1963, nhưng sự phân loại này vẫn còn gây tranh cãi. Nhà ngôn ngữ học Gerrit Dimmendaal (2008) tin rằng cho đến nay, nó nên được coi là một ngữ hệ độc lập.[6] Roger Blench cho rằng các ngôn ngữ Songhay và Sahara cùng nhau tạo nên nhánh Songhay-Sahara trong ngữ hệ Nin-Sahara.

Trong lịch sử, tên Songhay không phải là một tộc danh cũng không phải là một ngữ danh, mà là một tên cho tầng lớp cầm quyền trong Đế quốc Songhai. Dưới ảnh hưởng của việc sử dụng tiếng Pháp, người nói ở Mali đã ngày càng chấp nhận nó như là một tộc danh;[7] tuy nhiên, các nhóm nói tiếng Songhay khác tự nhận mình bởi tộc danh khác, chẳng hạn như Zarma (Djerma) hoặc Isawaghen (Sawaq).

Một vài bài thơ thời tiền thuộc địa và các lá thư bằng tiếng Songhay viết bằng chữ Ả Rập từng tồn tại ở Timbuktu.[8] Tuy nhiên, các ngôn ngữ Songhay hiện được viết bằng chữ Latinh.

Các ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]

Tỷ lệ người nói Songhay theo dân số

  tiếng Zarma (77.3%)
  tiếng Dendi (5.5%)
  Tadaksahak (2.2%)
  Các ngôn ngữ khác (1.4%)

Các nhà nghiên cứu phân loại các ngôn ngữ Songhay thành hai nhánh chính: Nam và Bắc.[9] Nhánh Nam nằm ở trung tâm sông Niger. Tiếng Zarma (Djerma), ngôn ngữ Songhay được sử dụng rộng rãi nhất với hai hoặc ba triệu người nói, là ngôn ngữ chính của miền tây nam Niger (hạ lưu từ và nam của Mali), kể cả ở thủ đô Niamey. Senni Koyraboro, với 400.000 người nói, là ngôn ngữ của thị trấn Gao, kinh đô của Đế chế Songhai cũ. Tiếng Koyra Chiini được nói về phía tây của nó. Nhánh Songhay Bắc nhỏ hơn nhiều và là một nhóm các phương ngữ chịu ảnh hưởng nặng nề từ ngữ tộc Berber được nói ở Sahara. Do các ngôn ngữ Berber ảnh hưởng đến từ vựng thậm chí thay đổi cả hình thái nên các ngôn ngữ Songhay Bắc đôi khi được xem là ngôn ngữ hỗn hợp.[10]

Mối quan hệ di truyền

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm ngôn ngữ Songhay được coi là một ngữ hệ độc lập bởi Dimmendaal (2011), mặc dù ông phân loại nhóm ngôn ngữ Sahara là một phần của ngữ hệ Nin-Saraha.[11]

Ngữ pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm ngôn ngữ Songhay hầu hết là ngôn ngữ thanh điệu, trật tự câu SOV, một ngoại lệ là tiếng Koyra Chiini ở Timbuktu hơi khác biệt, nó không có thanh điệu và sử dụng trật tự câu SVO.

Nhóm ngôn ngữ Songhay có một hình vị -ndi thể hiện sự gây khiến hay bị động phi chủ thể. Trong một động từ, hình vị này có thể xuất hiện hai lần, với hai nghĩa khác nhau. Do đó, ŋa-ndi-ndi dịch theo nghĩa nôm na là "bị (ai đó) làm cho [bắt phải] ăn [cơm]".[12]

Phục dựng

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số từ vựng phục dựng cho ngôn ngữ Songhay nguyên thủy:[1]

Từ Songhay nguyên thủy
người *bòro
chim *kídòw
bọ cạp, mũi *(n)děŋ
tro *bó:sú
đá, núi *tóndì
năm (thời gian) *gí:rí; *mán(n)à
hôm qua *bǐ:
hỏi *há˜
mang *kàte
gai *kárgí
da *kú:rú
máu *kúdí

Một số từ vựng phục dựng cho ngôn ngữ Songhay Đông nguyên thủy:[1]

Từ Songhay Đông nguyên thủy
chòi láng lợp tranh *bùgù
nách, cánh *fátá
khát *gèw
sườn *kéráw
(một loại) ong *bímbín(í)
mồ hôi *súŋgáy

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Blench, Roger & Lameen Souag. m.s. Saharan and Songhay form a branch of Nilo-Saharan.
  2. ^ Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Songhay”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
  3. ^ Bản đồ này dựa trên phân loại từ Glottolog và dữ liệu từ Ethnologue.
  4. ^ Heath 2005
  5. ^ “Ethnologue report for Niger”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
  6. ^ Dimmendaal, Gerrit (ngày 18 tháng 9 năm 2008). “Language Ecology and Linguistic Diversity on the African Continent”. Language and Linguistics Compass 2/5: 840–858. doi:10.1111/j.1749-818X.2008.00085.x.
  7. ^ Heath 1999:2
  8. ^ Hunwick and Boye 2008: ____
  9. ^ A map of the varieties is provided by Ethnologue at its Web site. See the list of External Links.
  10. ^ SIL Working Papers on Songhay
  11. ^ Dimmendaal, Gerrit J. (2011). Historical Linguistics and the Comparative Study of African Languages. John Benjamins. ISBN 978-90-272-8722-9.
  12. ^ Shopen, T. & Konaré, M. 1970.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • CSLI = Center for the Study of Language and Information.
  • IFAN = Institut Français d'Afrique Noire (since renamed the Institut Fondamental d'Afrique Noire).
  • SELAF = Société d'études linguistiques et anthropologiques de France.
  • SUGIA = Sprache und Geschichte in Afrika, journal published by Rüdiger Köppe Verlag, Cologne (Köln).
  • Köppe = Rüdiger Köppe Verlag.
  • Dimmendaal, Gerrit. 2008. Language Ecology and Linguistic Diversity on the African Continent. Language and Linguistics Compass 2(5): 843ff.
  • Dupuis-Yakouba, Auguste. 1917. Essai pratique de méthode pour l'étude de la langue songoï ou songaï [...]. Paris: Ernest Leroux.
  • Hunwick, John O.; Alida Jay Boye. 2008. The Hidden Treasures of Timbuktu. Thames & Hudson.
  • Nicolaï, Robert. 1981. Les dialectes du songhay: contribution à l'étude des changements linguistiques. Paris: SELAF. 302 pp.
  • Nicolaï, Robert & Petr Zima. 1997. Songhay. LINCOM-Europa. 52 pp.
  • Prost, R.P.A. [André]. 1956. La langue sonay et ses dialectes. Dakar: IFAN. Series: Mémoires de l'Institut Français d'Afrique Noire; 47. 627 pp.

Về liên kết di truyền

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bender, M. Lionel. 1996. The Nilo-Saharan Languages: A Comparative Essay. München: LINCOM-Europa. 253 pp
  • Roger Blench and Colleen Ahland, "The Classification of Gumuz and Koman Languages",[1] presented at the Language Isolates in Africa workshop, Lyons, ngày 4 tháng 12 năm 2010
  • D. Creissels. 1981. "De la possibilité de rapprochements entre le songhay et les langues Niger–Congo (en particulier Mandé)." In Th. Schadeberg, M. L. Bender, eds., Nilo-Saharan: Proceedings of the First Nilo-Saharan Linguistics Colloquium, Leiden, September 8–10, pp. 185–199. Foris Publications.
  • Greenberg, Joseph, 1963. The Languages of Africa (International Journal of American Linguistics 29.1). Bloomington, IN: Indiana University Press.
  • Lacroix, Pierre-Francis. 1971. "L'ensemble songhay-jerma: problèmes et thèmes de travail". In Acte du 8ème Congrès de la SLAO (Société Linguistique de l’Afrique Occidentale), Série H, Fasicule hors série, 87–100. Abidjan: Annales de l’Université d’Abidjan.
  • Mukarovsky, H. G. 1966. "Zur Stellung der Mandesprachen". Anthropos, 61:679-88.
  • Nicolaï, Robert. 1977. "Sur l'appartenance du songhay". Annales de la faculté des lettres de Nice, 28:129-145.
  • Nicolaï, Robert. 1984. Préliminaires à une étude sur l'origine du songhay: matériaux, problématique et hypothèses, Berlin: D. Reimer. Series: Marburger Studien zur Afrika- und Asienkunde. Serie A, Afrika; 37. 163 pp
  • Nicolaï, Robert. 1990. Parentés linguistiques (à propos du songhay). Paris: CNRS. 209 pp
  • Nicolaï, Robert. 2003. La force des choses ou l'épreuve 'nilo-saharienne': questions sur les reconstructions archéologiques et l'évolution des langues. SUGIA - Supplement 13. Köln: Köppe. 577 pp
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Genius - Job Class siêu hiếm của Renner
Genius - Job Class siêu hiếm của Renner
Renner thì đã quá nổi tiếng với sự vô nhân tính cùng khả năng diễn xuất tuyệt đỉnh và là kẻ đã trực tiếp tuồng thông tin cũng như giúp Demiurge và Albedo
Cuộc đời bất hạnh của Oni Chiyo
Cuộc đời bất hạnh của Oni Chiyo
Chiyo là đồng minh thân cận của Raiden Shogun, bạn của Kitsune Saiguu. Cô là một Oni xuất thân từ gia tộc Mikoshi
Tại sao Hamas lại tấn công Israel?
Tại sao Hamas lại tấn công Israel?
Vào ngày 7 tháng 10, một bình minh mới đã đến trên vùng đất Thánh, nhưng không có ánh sáng nào có thể xua tan bóng tối của sự hận thù và đau buồn.
The Silence of The Marsh - Sự Yên Lặng Của Đầm Lầy
The Silence of The Marsh - Sự Yên Lặng Của Đầm Lầy
The Silence of The Marsh (Sự Yên Lặng Của Đầm Lầy) là một phim tâm lý tội phạm có lối kể chuyện thú vị với các tình tiết xen lẫn giữa đời thực và tiểu thuyết