Jacobus Henricus van 't Hoff | |
---|---|
Van 't Hoff năm 1904 | |
Sinh | 30 tháng 8 năm 1852 Rotterdam, Hà Lan |
Mất | 1 tháng 3 năm 1911 Steglitz, Berlin, Đức | (58 tuổi)
Quốc tịch | Hà Lan |
Trường lớp | Đại học Bách khoa Delft Đại học Leiden Đại học Bonn Đại học Paris Đại học Utrecht |
Nổi tiếng vì | Động lực học hoá học, Hóa học lập thể |
Giải thưởng | Giải Nobel Hóa học (1901) |
Sự nghiệp khoa học | |
Ngành | Hóa lý Hóa hữu cơ |
Nơi công tác | Học viện Thú y Utrecht Đại học Amsterdam Đại học Berlin |
Người hướng dẫn luận án tiến sĩ | Eduard Mulder |
Jacobus Henricus van 't Hoff (30 tháng 8 năm 1852 - 1 tháng 3 năm 1911) là một nhà vật lý học và hóa học người Hà Lan và là người đầu tiên được nhận giải Nobel hóa học. Nghiên cứu của ông về động lực học hoá học, cân bằng hóa học, áp suất thẩm thấu và hóa học lập thể là các thành tựu nổi bật của ông. Qua các thành tựu này, Van 't Hoff giúp tìm ra hệ thống môn học hóa lý đang được học tập hiện nay.
Van 't Hoff sinh ra tại Rotterdam, Hà Lan, con trai của một nhà vật lý học.[1] Ngay từ nhỏ ông đã thích thú với khoa học và tự nhiên; ông thường tham gia đi chơi vườn bách thảo, tư tưởng triết học và lòng yêu thích thơ văn đã xuất hiện khi ông đang học ở trường. (Lord Byron là thần tượng của van 't Hoff.) Không chấp nhận ước muốn của người cha, ông theo học hóa học, lần đầu tại Đại học Bách khoa Delft, sau đó là Đại học Leiden, và tiếp tới nữa là Bonn, Đức (nơi mà ông đã học với Friedrich Kekulé), rồi tới Paris (nơi ông học với C. A. Wurtz), cuối cùng nhận bằng tiến sĩ của Eduard Mulder tại Đại học Utrecht vào năm 1874[2]. Năm 1878 van 't Hoff kết hôn với Johanna Francina Mees. Họ có hai con gái, Johanna Francina (sinh 1880) và Aleida Jacoba (sinh 1882), và hai con trai, Jacobus Hendricus (sinh 1883) và Govert Jacob (sinh 1889).
Van 't Hoff trở thành giảng viên hóa học và vật lý về thuốc thú y ở học viện Utrecht. Sau đó trở thành giáo sư về hóa học, vật học, và địa chất học tại Đại học Amsterdam gần 18 năm trước khi trở thành tổ trưởng khoa Hóa. Năm 1896 van 't Hoff chuyển đến Đức là nơi kết thúc đời ông ở Đại học Berlin năm 1911. Năm 1901 ông là người đầu tiên nhận Giải Nobel Hóa học cho công trình nghiên cứu của ông về dung dịch.