Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. Bạn có thể giúp cải thiện trang này nếu có thể. Xem trang thảo luận để biết thêm chi tiết.
Phim truyền hình Hàn Quốc hay phim bộ Hàn Quốc (Hangul: 한국드라마; Romaja quốc ngữ: Han-gukdeurama; tiếng Anh: Korean drama/South Korean drama), gọi tắt là phim Hàn hay K-drama, là thể loại phim truyện truyền hình ở dạng ngắn tập được sản xuất tại Hàn Quốc. Nhiều trong số các bộ phim này đã trở nên phổ biến khắp châu Á, với sự yêu thích ngày càng tăng ở những nơi khác trên toàn cầu. Phim truyền hình Hàn Quốc đã đóng góp vào hiện tượng chung của Làn sóng Hàn Quốc, còn được gọi là Hallyu (Hangul: 한류) hay DramaFever (Cơn sốt phim truyền hình) ở một số nước.[1]
Những bộ phim hàng đầu được chia làm 2 thể loại chính. Thể loại thứ nhất bao gồm các câu chuyện được đặt trong bối cảnh Hàn Quốc hiện đại. Những ví dụ phổ biến phải kể đến Bản tình ca mùa đông và Vườn sao băng.
Nam diễn viên Kim Soo-hyun trong trang phục của bộ phim lịch sử cổ trang Mặt trăng ôm mặt trời. Anh là một trong những diễn viên Hàn Quốc nổi tiếng nhất.[4][5]
Các diễn viên chính của phim truyền hình Hàn Quốc đã trở nên nổi tiếng bên ngoài lãnh thổ nước này nhờ vào làn sóng Hàn Quốc.
Vào những năm 2000, việc chọn các thần tượng K-pop nổi tiếng trong các bộ phim truyền hình đã trở thành thông lệ. Ban đầu, điều này tạo ra các phản ứng hỗn hợp. Sự xuất hiện của họ chủ yếu gây ra phản ứng tiêu cực bên ngoài cộng đồng fan của họ bởi vì các ca sĩ và vũ công hoạt động bên ngoài vòng tròn âm nhạc của họ được coi là thiếu chuyên nghiệp. Ngoài ra, một số thần tượng cũng bị chỉ trích vì diễn xuất kém. Ngày nay, điều này đã trở nên phổ biến hơn nhiều trong các bộ phim truyền hình Hàn Quốc, khi công chúng đã quen hơn với khái niệm "diễn viên thần tượng" và một số thần tượng đã trở nên nổi tiếng với kỹ năng diễn xuất tuyệt vời.[6] Sự đón nhận từ giới phê bình của họ vẫn còn lẫn lộn, tuy nhiên, một số người trong số họ đã trở nên thành công với tư cách là diễn viên.[7]
Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng trong các bộ phim truyền hình Hàn Quốc. Nhạc phim, viết tắt là OST, được thực hiện rõ ràng cho từng bộ phim, và ngược lại với các bộ phim truyền hình Mỹ, người hâm mộ có nhu cầu mua album nhạc phim của các bộ phim truyền hình. Xu hướng này bắt đầu từ những năm 1990, khi các nhà sản xuất hoán đổi các bản nhạc hoàn toàn là nhạc cụ cho các bài hát do các ca sĩ K-pop nổi tiếng thể hiện. Tom Larsen, giám đốc YA Entertainment, công ty phân phối phim truyền hình Hàn Quốc, cho rằng các bản nhạc phim Hàn Quốc được trau chuốt về mặt âm nhạc đủ để được coi là những bản hit độc lập.[8]
Trong những năm 2000, việc các diễn viên chính tham gia vào các bản nhạc phim đã trở thành thông lệ, một phần cũng do việc sử dụng các ngôi sao K-pop làm diễn viên. Diễn viên Lee Min-ho, và trưởng nhóm nhạc nam SS501, Kim Hyun-joong đã thực hiện thu âm các bài hát cho bộ phim Vườn sao băng, trong khi các diễn viên của bộ phim Cô nàng đẹp trai thành lập một ban nhạc hư cấu và tổ chức các buổi hòa nhạc.[9][10][11]
Các bài hát nhạc phim của các bộ phim truyền hình Hàn Quốc cũng có thể trở thành các bản hit và lọt vào các bảng xếp hạng, với lượng tiêu thụ album tốt và được đánh giá cao.[12] Thành tích bảng xếp hạng của các bài hát OST thường liên quan đến mức độ nổi tiếng của bộ phim. Ví dụ, các bài hát trong OST của Secret Garden đã có doanh thu cao và xếp thứ hạng cao trên các bảng xếp hạng âm nhạc. My Destiny, bài hát được thực hiện bởi Lyn cho bộ phim Vì sao đưa anh tới, đã dẫn đầu bảng xếp hạng âm nhạc ở Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, và một số nước châu Á.[13] Bài hát đã giành được đề cử Nhạc phim hay nhất tại Lễ trao giải Giải thưởng nghệ thuật Baeksang năm 2014.[14] Album nhạc phim Vì sao đưa anh tới đã bán được 57.000 bản.[15] Các nghệ sĩ tham gia sản xuất nhạc phim cho bộ phim hành động Mật danh Iris đã tổ chức hai buổi hòa nhạc tại Nhật Bản trước 60.000 khán giả.[16]
Các hát nhạc phim thương phản ánh tâm trạng và cấu trúc của bộ phim. Đôi khi các bài hát độc lập của các nghệ sĩ được đưa vào làm OST cho bộ phim. Ví dụ, Baek Ji-young nghĩ rằng bài hát That Man của cô ấy, ban đầu được viết cho album của chính cô ấy, nhưng bài hát sau đó đã trở thành nhạc phim cho bộ phim Khu vườn bí mật. Có những ca sĩ OST nổi tiếng như Baek Ji-young, Lyn và Lee Seung-cheol thường được mời tham gia sản xuất nhạc phim cho các bộ phim truyền hình.[17] Đôi khi các ca sĩ nước ngoài nổi tiếng thường được mời tham gia sản xuất các bản nhạc phim của Hàn Quốc. Ví dụ, nghệ sĩ Thụy Điển Lasse Lindh đã tham gia sản xuất và hát một số bài cho loạt phim như Đôi mắt thiên thần, Soul Mate, Khát Khao Hạnh Phúc và Yêu tinh.
Hệ thống xếp hạng truyền hình do Ủy ban Truyền thông Hàn Quốc quy định và được thực hiện vào năm 2000. Theo hệ thống này, các chương trình, bao gồm cả phim truyền hình Hàn Quốc, được xếp hạng theo các nguyên tắc sau (xếp hạng không liên quan đến phim truyền hình bị bỏ qua):[18]
Các chương trình có thể phù hợp với mọi lứa tuổi.
Các chương trình có thể không phù hợp với trẻ em dưới 7 tuổi.
: Các chương trình có thể không phù hợp với trẻ em dưới 12 tuổi, chẳng hạn như bạo lực nhẹ, chủ đề hoặc ngôn ngữ.
: Các chương trình có thể không phù hợp với trẻ em dưới 15 tuổi. Hầu hết các bộ phim truyền hình và chương trình trò chuyện đều được đánh giá theo cách này. Các chương trình này có thể bao gồm chủ đề người lớn vừa phải hoặc mạnh mẽ, ngôn ngữ, suy luận tình dục và bạo lực.
: Chương trình chỉ dành cho người lớn. Các chương trình này có thể bao gồm chủ đề người lớn, tình huống tình dục, thường xuyên sử dụng ngôn từ mạnh mẽ và cảnh bạo lực đáng lo ngại.
Các bộ phim trong danh sách này được phát sóng trên kênh truyền hình cáp/truyền hình trả phí nên thường có lượng người xem tương đối thấp hơn so với kênh truyền hình miễn phí/truyền hình công cộng (KBS, SBS, MBC và EBS).
^'미남' 꽃미남 그룹 에이엔젤, 공개 미니 콘서트 연다! [A.N.JELL to hold a second mini-concert]. BNTNews (bằng tiếng Korean). ngày 21 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
^'미남' 마지막 콘서트, 3천명 구름관중 [A.N.JELL holds its last concert]. Osen (bằng tiếng Korean). ngày 23 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
^“'미남이시네요' AN.Jell, 실제 가수로 활약?” [You're Beautiful's AN.Jell to work as real singers?]. IS Plus (bằng tiếng Korean). ngày 25 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
^Kim, Su-jin (ngày 10 tháng 11 năm 2009). “TV 드라마의 등급 분류 기준은?” (bằng tiếng Korean). 매일경제. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
^“AGB Nielsen Korea” (bằng tiếng Hàn). AGB Nielsen Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2014.
^손원제 (ngày 10 tháng 6 năm 2004). “주말 '국민드라마' 부재시대” [Weekend "national drama" absence period]. The Hankyoreh (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
^ abHan Hae-seon (ngày 24 tháng 6 năm 2017). “[SE★기획:KBS주말극①] '딸부잣집'부터 '아이해'까지..국민드라마 史” [[SE★ Special Edidion: KBS Weekend Theater ①] From "Daughters of a Rich Family" to "My Father is Strange.." National Drama History]. The Seoul Economic Daily (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
^“'파리의 연인' 최종회, 57.6%로 최고 시청률 기록” ['Paris Lovers' final episode, the highest viewership rating at 57.6%]. 연합뉴스 (bằng tiếng Hàn). 네이버 뉴스 편집부. Yeonhap News Agency. ngày 16 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2020.
^김영목 (ngày 19 tháng 12 năm 2016). “[추억의 한국 드라마] 질투” [[Korean Drama of Memories] Jealousy]. Korea Post (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
^ ab김용호 (ngày 6 tháng 7 năm 2005). “[포커스]생생 연예가 소식”. Newsen (bằng tiếng Hàn). 뉴스엔.
^ ab“시청률 50% 넘은 드라마 최다 출연자는”. StarNews (bằng tiếng Hàn). 스타뉴스. ngày 1 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2020.
^김재원 (ngày 31 tháng 7 năm 2019). “[SW이슈] 여름 안방극장 어떻게 변모했나” (bằng tiếng Hàn). Sports World. 스포츠월드. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2020.
^“'장밋빛인생' 과연 '최진실 표 히트 드라마' 기록 깰까” [Will 'Rose Life' really break the record of'Choi Jin-sil'] (bằng tiếng Hàn). TV Report. ngày 13 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
^“최진실, '국민요정'에서 '국민아줌마'로 20년” [Jinsil Choi, 20 years from'National Fairy' to'National Aunt'] (bằng tiếng Hàn). 오마이뉴스. ngày 5 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
^“깔끔한 마무리 '내 이름은 김삼순', 시청률 50% 돌파” [Clean finish'My name is Kim Sam-soon', 50% viewer rating]. 연합뉴스 (bằng tiếng Hàn). 네이버 뉴스 편집부. Yeonhap News Agency. ngày 22 tháng 7 năm 2005. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2020.
^손남원, 유진모 (ngày 2 tháng 3 năm 2013). “최민식 한석규 있어 한국영화 관객은 행복하다”. n.news.naver.com/entertain/article (bằng tiếng Hàn). Naver News. OSEN. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2020.
^전찬일, 강유정 (ngày 20 tháng 11 năm 2019). “잔잔한 듯 폭발적… 90년대 한국영화의 페르소나 '한석규”. n.news.naver.com/entertain/article (bằng tiếng Hàn). Naver News. 국민일보. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2020.
^이슬비 (ngày 8 tháng 10 năm 2010). “[명드의 재구성] ⑧ 마지막 승부 - 최고의 스포츠 드라마”. news.v.daum.net/v (bằng tiếng Hàn). xportsnews.com. 엑스포츠뉴스. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2020.
^iMBC 편집팀 (ngày 14 tháng 11 năm 2013). “[응답하라! MBC 드라마①] 1994년 '농구 열풍'의 주역 <마지막 승부>” [[Respond! MBC Drama ①] The Last Match, starring in 'Basketball Fever' in 1994.]. enews.imbc.com/News (bằng tiếng Hàn). iMBC.com. iMBC연예. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2020.
^“'장밋빛인생' 47% '장밋빛 질주' 계속된다” ['Rose Life' 47%'Rose Sprint' continues]. 스타뉴스 (bằng tiếng Hàn). 다음 뉴스 편집부. Monet Today Star News. ngày 13 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2020.
Ông chính là người đã để lại một báu vật tại hòn đảo cuối cùng của Grand Line, sau này báu vật ấy được gọi là One Piece, và hòn đảo đó được Roger đặt tên Laugh Tale