Trinh Đường | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Trương Đình |
Ngày sinh | 1 tháng 1, 1919 |
Nơi sinh | Đại Lộc, Quảng Nam |
Mất | |
Ngày mất | 28 tháng 9, 2001 | (82 tuổi)
Nơi mất | Hà Nội |
An nghỉ | Quảng Nam |
Nơi cư trú | Hà Nội |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | ![]() |
Đảng chính trị | ![]() |
Nghề nghiệp | nhà thơ, lý luận, phê bình |
Lĩnh vực | văn học |
Sự nghiệp văn học | |
Bút danh | Trương Phú Xuân, La Vân, Duy Mỹ |
Thể loại | thơ, văn xuôi, phê bình, biên soạn |
Tác phẩm |
|
Giải thưởng | |
Giải thưởng Nhà nước 2012 Văn học Nghệ thuật | |
Trinh Đường (tên khai sinh là Trương Đình; 1919 – 2001) là nhà thơ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2012.
Trinh Đường tên khai sinh là Trương Đình, các bút danh khác là Trương Phú Xuân, La Vân, Duy Mỹ. Ông sinh ngày 01 tháng 01 năm 1919, tại thôn Đại Thắng, xã Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Trinh Đường sinh ra trong một gia đình thuộc loại khá giả ở nông thôn thời xưa nên ông được học hành chu đáo, thông thạo chữ nho, chữ Hán, đọc nhiều thơ Đường, thơ Nguyễn Du và nhiều thơ cổ khác của Việt Nam. Sau này Trinh Đường còn học tiếng Pháp và thơ phương Tây.[1]
Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, ông tham gia Ban chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền của tổng Quảng Hòa. Sau đó, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban Cách mạng tổng Quảng Hòa, Thư ký Ủy ban lâm thời phía tây huyện Duy Xuyên (nay là các xã Đại Cường, Đại Thắng, Đại Thạnh, Đại Chánh của huyện Đại Lộc), rồi làm ủy viên Trinh sát huyện.[1] Từ năm 1947 đến 1954, ông là ủy viên Ban chấp hành chi hội văn nghệ Liên khu V, phân hội trưởng Phân hội văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng, tiền thân của Hội Văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng sau này.[2]
Sau Hiệp định Genève 1954, Trinh Đường tập kết ra Bắc. Ông là một trong những người sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1957) và lần lượt công tác ở các cơ quan thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, trưởng ban thơ Báo Văn nghệ, biên tập thơ Nhà xuất bản Văn học, Nhà xuất bản Giải phóng.[1]
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trinh Đường qua đời tại Hà Nội ngày 28 tháng 9 năm 2001. Tang lễ ông được tổ chức tại Hà Nội, thi hài được đưa về an táng tại quê nhà ở Quảng Nam.[1]
Trinh Đường yêu thơ và bắt đầu làm thơ từ tuổi thiếu niên nhưng trước năm 1945, ông chưa công bố thơ.[2]
Trong thời gian đầu tham gia cách mạng, ông tham gia chiến dịch với bộ đội, đi công tác với đoàn công tác địch hậu và sáng tác được nhiều thơ văn phục vụ cách mạng. Bài thơ đầu tiên của ông được nhiều người biết đến là bài “Hồi ký đầu thu”.[2]
Ông có nhiều tác phẩm thơ: Hoa gạo, Hạt giống, Thủy triều, Bạch Đằng tráng khúc, Giao mùa, Phượng hoàng con, Quán trọ, Hội hóa trang, Cà Mau, Hành trình...[3] Suốt đời thơ, Trinh Đường đã có mười bốn tập thơ và trường ca, xuất bản đều đặn từ 1960 đến 2001.
Ngoài thơ, ông còn sáng tác văn xuôi (bút ký, truyện ngắn), viết tiểu luận, bình thơ. Cuộc đời văn của ông gồm hai sự nghiệp: sáng tác và biên tập, phê bình. Trong đó, sự đóng góp của ông cho xã hội ở phần lý luận, biên tập, phê bình, lại lớn hơn phần sáng tác.[3]
Sau khi về hưu (1981), Trinh Đường vẫn đi nhiều nơi khắp Nam Bắc để giới thiệu lực lượng qua các tập Những gương mặt thơ mới. Ngoài ra, ông còn một mình đứng ra làm tất cả mọi việc để cho ra đời Tuyển tập thơ thế kỷ gồm ba tập. Năm 1995 ông cho in cuốn Một thế kỷ thơ Việt - Tập I (Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin). Đây là lần đầu tiên ở nước ta, một cá nhân nhà thơ đứng ra làm tuyển tập thơ thế kỷ. Năm 1999, ông tiếp tục cho ra đời cuốn Thơ Việt thế kỷ XX - chọn lọc và bình - Tập 1 (Nhà xuất bản Thanh Niên).[1]
“ | Về sáng tác, tôi luôn luôn đổi mới trên cơ sở truyền thống và hiện đại, biệt lập phong cách. Về đào tạo lớp người kế tục, nổi lên trong và sau chống Mỹ và công việc của Hội đều ít nhiều có phần đóng góp của tôi. | ” |
— nhà thơ Trinh Đường [4] |
Trinh Đường là một trong số ít người có công trong việc phát hiện và bồi dưỡng lực lượng viết trẻ, là lực lượng xung kích thời chống Mỹ, sau này là những cây bút chủ lực chủ trì công việc của Hội Nhà văn Việt Nam và các Hội văn nghệ trong cả nước.
Năm 2012, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật với cụm tác phẩm: Hạt giống (tập thơ); Giao mùa (tập thơ).[5]
Nguồn:[1]