Duy Khán | |
---|---|
Sinh | Nguyễn Duy Khán 6 tháng 8, 1934 Thôn Sơn Trung, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam (Nay là Khu Sơn Trung, phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) |
Mất | 29 tháng 1, 1993 Hải Phòng, Việt Nam | (58 tuổi)
Bút danh | Duy Khán |
Nghề nghiệp | Nhà văn, nhà thơ, nhà báo, phóng viên chiến trường |
Quốc tịch | Việt Nam |
Dân tộc | Người Việt Nam |
Tư cách công dân | Việt Nam |
Giai đoạn sáng tác | 1972 - 1993 |
Tác phẩm nổi bật | Tuổi thơ im lặng |
Giải thưởng nổi bật | Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật |
Con cái | ba con trai |
Duy Khán (1934-1993) là một văn thi sĩ người Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2012 vì những đóng góp của ông đối với nền văn học Việt Nam[1].
Ông nguyên tên khai sinh là Nguyễn Duy Khán, sinh ngày 6 tháng 8 năm 1934, tại thôn Sơn Trung, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh (Nay là phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh).
Thời niên thiếu, ông từng được đi học trong vùng Pháp kiểm soát, nhưng do ảnh hưởng của 2 người anh trai là Nguyễn Đình Thư và Nguyễn Đình Thả, năm 15 tuổi, ông bỏ dở việc học trốn ra vùng Việt Minh kiểm soát để nhập ngũ.
Do có nền tảng học vấn tốt so với thời bấy giờ, thay vì tham gia chiến đấu, ông được đơn vị phân công dạy học, rồi làm phóng viên chiến trường cho chương trình Phát thanh Quân đội. Ông được xem như là một phóng viên chiến trường năng nổ, có mặt trong hầu hết các chiến dịch lớn, từ Điện Biên đến đường 9 - Nam Lào, Campuchia. Năm 1972, ông về công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, làm biên tập viên, từng có thời gian khá dài công tác ở quần đảo Trường Sa.
Sau khi nghỉ hưu với cấp bậc Đại tá, ông về Hải Phòng sống cùng gia đình ở phố Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân.
Ông mất ngày 29 tháng 1 năm 1993 tại thành phố Hải Phòng.