Khoai môn[4][5][6] (/ˈtɑːroʊ, ˈtær-/; Colocasia esculenta) là một loại rau ăn củ. Đây là loài được trồng rộng rãi nhất trong một số loài thực vật thuộc họ Araceae, được sử dụng làm rau để lấy củ, lá, thân và cuống lá của chúng. Củ khoai môn là một loại thực phẩm chủ yếu ở các nền văn hóa châu Phi, châu Đại Dương, Đông Á, Đông Nam Á và Nam Á (tương tự như khoai từ). Khoai môn được cho là một trong những cây được trồng sớm nhất.
Ở Síp, khoai môn đã được sử dụng từ thời đế quốc La Mã. Ngày nay chúng được gọi là kolokasi (Kολοκάσι). Chúng thường được chiên hoặc nấu với ngô, thịt lợn hoặc thịt gà trong nước sốt cà chua trong nồi đất. "Baby" kolokasi được gọi là "poulles": sau khi chiên khô, thêm rượu vang đỏ và hạt rau mùi vào, sau đó dùng kèm với chanh tươi vắt. Gần đây, một số nhà hàng đã bắt đầu phục vụ những lát kolokasi chiên giòn mỏng, gọi chúng là "kolokasi lát mỏng".
Trong tiếng Bồ Đào Nha, chúng được gọi đơn giản là taro, cũng như inhame, inhame-coco, taioba, taiova, taioba-de-são-tomé hoặc matabala;[25][26] trong tiếng Tây Ban Nha, chúng được gọi là malanga.[27][28]
Khoai môn là một trong những loài được trồng rộng rãi nhất trong nhóm thực vật lâu năm nhiệt đới, thường được gọi thông tục là "tai voi", khi được trồng làm cây cảnh.[31] Các loài thực vật khác có cùng biệt danh bao gồm một số loài ráy có liên hệ sở hữu lá lớn hình trái tim, thường nằm trong các chi như Alocasia, Caladium, Monstera, Philodendron, Syngonium, Thaumatophyllum và Xanthosoma.
Ở Philippines, toàn bộ cây thường được gọi là gabi, trong khi thân cây được gọi là taro. Khoai môn là hương vị trà sữa rất phổ biến trong nước và cũng là nguyên liệu quen thuộc trong một số món ăn mặn của Philippines như sinigang.
Khoai môn là thực vật nhiệt đới lâu năm, chủ yếu được trồng làm rau ăn củ để lấy thân củ có nhiều tinh bột, ăn được. Cây có thân rễ với nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau. Lá dài đến 40 cm × 25 cm (15,7 in × 9,8 in) và mọc ra từ thân rễ. Chúng có màu xanh đậm ở trên và màu xanh nhạt ở dưới. Chúng có hình ovan gần nhọn, hơi tròn và có hình mút nhọn ở đỉnh, với đầu của các thùy đáy tròn hoặc hơi tròn. Cuống lá cao 0,8–1,2 m (2,6–3,9 ft). Ống lá có thể dài đến 25 cm (10 in). Bông mo dài khoảng 3/5 đoạn mo, với phần đóa hoa có đường kính dài đến 8 mm (0,31 in). Cụm hoa cái nằm ở bầu nhụy màu mỡ xen lẫn với bầu khác màu trắng vô sinh. Hoa vô tính phát triển phía trên hoa cái và có thùy hình thoi hoặc không đều, có 6 hoặc 8 tế bào. Phần phụ ngắn hơn cụm hoa đực.
Carl Linnaeus ban đầu mô tả hai loài, Colocasia esculenta và Colocasia antiquorum, nhưng nhiều nhà thực vật học sau này xem cả hai đều là thành viên của một loài duy nhất, rất đa dạng, danh pháp chính xác là Colocasia esculenta.[32]
Khoai môn có lẽ có nguồn gốc đầu tiên ở vùng đất ngập nước thấp của Malaysia, nơi chúng được gọi là taloes .
Ở Úc, C. esculenta var. aquatilis được cho là có nguồn gốc ở vùng Kimberley thuộc Tây Úc; giống esculenta phổ biến hiện đã được du nhập và được xem là một loại cỏ dại xâm lấn ở Tây Úc, Lãnh thổ Bắc Úc, Queensland và New South Wales.
Ở châu Âu, C. esculenta được trồng tại Síp và được gọi là Colocasi (Κολοκάσι trong tiếng Hy Lạp) và được chứng nhận là sản phẩm PDO. Khoai cũng sinh sống trên đảo Ikaria của Hy Lạp và được xem là nguồn thực phẩm quan trọng cho hòn đảo trong Thế chiến thứ hai.[35]
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, C. esculenta có tên địa phương là gölevez và được trồng chủ yếu ven bờ biển Địa Trung Hải, chẳng hạn như huyện Alanya của tỉnh Antalya và huyện Anamur của tỉnh Mersin.
Khoai môn là một trong những loại cây trồng cổ xưa nhất.[41][42] Khoai môn phân bố rộng rãi khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á và Papua New Guinea, miền bắc Australia và Maldives. Khoai môn có tính đa hình cao, khiến cho việc phân loại và phân biệt giữa loài hoang dã và trồng trọt trở nên khó khăn. Người ta tin rằng chúng đã được thuần hóa độc lập nhiều lần. Giới học giả đưa ra các địa điểm có thể là New Guinea, lục địa Đông Nam Á và đông bắc Ấn Độ, chủ yếu dựa trên phạm vi bản địa giả định của các loài thực vật hoang dã.[43][44][45] Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng khoai môn hoang dã có thể có phân bố bản địa lớn hơn nhiều so với những gì được tin tưởng trước đây và các kiểu nhân giống hoang dã cũng có thể là bản địa tại các khu vực khác của Đông Nam Á hải đảo.[46][47]
Dấu vết khảo cổ về hoạt động khai thác khoai môn đã được phục hồi từ nhiều địa điểm, mặc dù không thể xác định chắc chắn đây là loại được trồng hay hoang dã. Chúng bao gồm hang Niah ở Borneo khoảng 10.000 năm trước,[48]hang Ille ở Palawan, có niên đại ít nhất 11.000 năm trước;[48][49]đầm lầy Kuk ở New Guinea, có niên đại từ năm 8250 TCN đến 7960 TCN;[50][51] và hang Kilu ở Quần đảo Solomon có niên đại khoảng 28.000 đến 20.000 năm trước.[52] Trong trường hợp đầm lầy Kuk, có bằng chứng về nền nông nghiệp chính thức xuất hiện khoảng 10.000 năm trước, với bằng chứng về các thửa đất được canh tác, mặc dù loại cây nào được trồng vẫn chưa biết.[53]
Khoai môn được người Nam Đảo mang đến các đảo Thái Bình Dương từ khoảng năm 1300 TCN. Tại đây, chúng trở thành cây trồng chủ yếu của người Polynesia, cùng với các loại "khoai môn" khác, như Alocasia macrorrhizos, Amorphophallus paeoniifolius và Cyrtosperma merkusii. Chúng là cây quan trọng nhất và được ưa thích nhất trong số bốn loại vì ít khả năng chứa tinh thể hình kim gây khó chịu có trong các loại cây khác.[54][55] Khoai môn cũng được xác định là một trong những thực phẩm chủ yếu tại Micronesia, từ bằng chứng khảo cổ học có niên đại từ thời kỳ Latte tiền thuộc địa (khoảng 900 – 1521 SCN), cho biết rằng khoai cũng được người Micronesia mang theo khi họ xâm chiếm quần đảo.[56][57] Phấn hoa khoai môn và dư lượng tinh bột cũng đã được xác định tại địa điểm Lapita, có niên đại từ năm 1100 TCN đến năm 550 TCN.[58] Khoai môn sau đó được truyền đến Madagascar vào đầu thế kỷ I SCN.[59]
Năm 2022, sản lượng khoai môn toàn thế giới là 18 triệu tấn, dẫn đầu là Nigeria với 46% tổng sản lượng (bảng).
Khoai môn có sản lượng lớn thứ năm trong số các loại cây lấy rễ và củ trên toàn thế giới.[60] Năng suất khoai môn bình quân khoảng 7 tấn/ha.[60]
Khoai môn có thể được trồng trên ruộng lúa nơi có nhiều nước hoặc ở vùng cao nơi được mưa rút nước hoặc tưới bổ sung. Khoai môn là một trong số ít cây trồng (cùng với lúa và sen) có thể trồng được trong điều kiện ngập nước. Canh tác ngập nước có vài lợi thế so với canh tác trên đất khô như: năng suất cao hơn (khoảng gấp đôi), sản xuất trái mùa (có thể dẫn đến giá cao hơn) và kiểm soát cỏ dại (tạo điều kiện ngập lụt thuận lợi).
Giống như hầu hết các loại cây trồng lấy củ, khoai môn và khoai sọ phát triển tốt ở vùng đất sâu, ẩm hoặc thậm chí đầm lầy, nơi có lượng mưa hàng năm vượt quá 2,500 mm (0,0984 in). Khoai sọ có khả năng chịu hạn hán và lạnh tốt hơn. Cây trồng đạt độ chín trong vòng 6 đến 12 tháng sau khi trồng tại vùng đất khô và sau 12 đến 15 tháng tại vùng đất ngập nước. Thu hoạch khi chiều cao cây giảm và lá chuyển vàng.
^“Quy trình trồng và chăm sóc khoai môn?”. thuvien.mard.gov.vn. Ba Đình, Hà Nội: Thư viện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 27 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2024.
^Blust, Robert; Trussel, Stephen (2010). “*tales: taro: Colocasia esculenta”. Austronesian Comparative Dictionary. Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2023.
^“Wild Taro”. Outdoor Alabama. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2020.
^Denham, Tim (tháng 10 năm 2011). “Early Agriculture and Plant Domestication in New Guinea and Island Southeast Asia”. Current Anthropology. 52 (S4): S379–S395. doi:10.1086/658682. |hdl-access= cần |hdl= (trợ giúp)
^Kreike, C.M.; Van Eck, H.J.; Lebot, V. (20 tháng 5 năm 2004). “Genetic diversity of taro, Colocasia esculenta (L.) Schott, in Southeast Asia and the Pacific”. Theoretical and Applied Genetics. 109 (4): 761–768. doi:10.1007/s00122-004-1691-z. PMID15156282.
^Fullagar, Richard; Field, Judith; Denham, Tim; Lentfer, Carol (tháng 5 năm 2006). “Early and mid Holocene tool-use and processing of taro (Colocasia esculenta), yam (Dioscorea sp.) and other plants at Kuk Swamp in the highlands of Papua New Guinea”. Journal of Archaeological Science. 33 (5): 595–614. Bibcode:2006JArSc..33..595F. doi:10.1016/j.jas.2005.07.020.
^Denham, Tim P.; Golson, J.; Hughes, Philip J. (2004). “Reading Early Agriculture at Kuk Swamp, Wahgi Valley, Papua New Guinea: the Archaeological Features (Phases 1–3)”. Proceedings of the Prehistoric Society. 70: 259–297. doi:10.1017/S0079497X00001195.