Tổng dân số | |
---|---|
≈ 606.000[1] | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
Nga * Mari El | 547.605 (2010) *290.863 (2010)[2] |
Kazakhstan | 4.416 (2009)[3] |
Ukraina | 4.130 (2001)[4] |
Belarus | 416 (2009)[5] |
Latvia | 234 (2019)[6] |
Estonia | 241 (2011)[7] |
Ngôn ngữ | |
Tiếng Mari, Nga | |
Tôn giáo | |
Phần lớn Chính thống giáo Nga và Tín ngưỡng dân gian Mari | |
Sắc tộc có liên quan | |
Các dân tộc Phần Lan-Ugria khác |
Người Mari (tiếng Mari: мари, tiếng Nga: марийцы) là dân tộc thuộc nhóm dân tộc Phần Lan-Ugria, có vùng cư trú truyền thống dọc theo sông Volga và Kama ở Liên bang Nga. Có khoảng 600 ngàn người Mari. Gần một nửa dân số Mari ngày nay sống ở nước Cộng hòa Mari El, và tại các nước cộng hòa Bashkortostan và Tatarstan có dân số đáng kể. Ngoài ra họ còn cư trú tại các nước thuộc Liên Xô cũ.
Trong quá khứ, người Mari còn được gọi là người Cheremisa hoặc người Cheremis trong tiếng Nga và Çirmeş trong tiếng Tatar.[8]
Người Mari bao gồm bốn nhóm khác nhau:
Trong cuộc điều tra dân số năm 2002 của Liên bang Nga, 604.298 người tự nhận mình là "Mari", với 18.515 người trong số đó xác định rằng họ là Mari vùng núi và 56.119 người là Mari Đông. Gần 60% người Mari sống ở nông thôn.[9]
Người Mari nói tiếng Mari (tiếng Mari: марий йылме, marii jõlme; tiếng Nga: марийский язык, marijskij jazyk) [10], một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Phần Lan-Ugria trong ngữ hệ Ural.[11] Các nhà ngôn ngữ học ngày nay phân biệt bốn phương ngữ Mari khác nhau, và không phải tất cả đều có thể hiểu được lẫn nhau.[12]
Người Mari hiện sử dụng một phiên bản sửa đổi của bảng chữ cái Cyrillic.