Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Tam quốc diễn nghĩa | |
---|---|
三國演義 | |
Thông tin sách | |
Tác giả | La Quán Trung |
Quốc gia | Trung Quốc |
Ngôn ngữ | Tiếng Trung |
Thể loại | Tiểu thuyết |
Ngày phát hành | Thế kỷ 14 |
ISBN | 9787119005904 |
Số OCLC | 49389330 |
Cuốn trước | Đông Hán diễn nghĩa (Tạ Chiếu) |
Cuốn sau | Lưỡng Tấn diễn nghĩa (Dương Nhĩ Tăng) |
Tam Quốc Diễn Nghĩa | |||||||||||||||||||||||||||
Tam Quốc Diễn Nghĩa bằng chữ phồn thể và chữ giản thể | |||||||||||||||||||||||||||
Tên tiếng Trung | |||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Phồn thể | 三國演義 | ||||||||||||||||||||||||||
Giản thể | 三国演义 | ||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||
Tên tiếng Việt | |||||||||||||||||||||||||||
Tiếng Việt | Tam quốc diễn nghĩa | ||||||||||||||||||||||||||
Hán-Nôm | 三國演義 | ||||||||||||||||||||||||||
Tên tiếng Triều Tiên | |||||||||||||||||||||||||||
Hangul | 삼국지연의 | ||||||||||||||||||||||||||
Hanja | 三國志演義 | ||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||
Tên tiếng Nhật | |||||||||||||||||||||||||||
Kanji | 三国志演義 | ||||||||||||||||||||||||||
Hiragana | さんごくしえんぎ | ||||||||||||||||||||||||||
|
Tam quốc diễn nghĩa (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: sān guó yǎn yì), nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa,[1] là một cuốn tiểu thuyết dã sử về Lịch sử Trung Quốc được nhà văn La Quán Trung viết vào thế kỷ 14. Tiểu thuyết có nội dung kể về một thời kỳ hỗn loạn trong lịch sử Trung Hoa là thời Tam Quốc (190–280) với 120 chương hồi, theo phương pháp bảy phần thực, ba phần hư (七分實事, 三分虛構 - 7 phần thực tế, 3 phần hư cấu).[2] Tiểu thuyết này được xem là một tác phẩm văn học kinh điển, và là một trong Tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc.
Tam quốc diễn nghĩa về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng thực ra bộ tiểu thuyết này trước sau đã trải qua một quá trình tập thể sáng tác lâu dài của rất nhiều người.
Truyện Tam quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời nhà Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:
Nói tóm lại, La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam quốc mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân kể chuyện đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng.
Một trong những thành công lớn nhất của Tam quốc diễn nghĩa là tính chất quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật. Do vậy mà phần sau đây chỉ cố gắng tóm tắt hết sức sơ lược toàn bộ truyện theo những nét chính yếu mà không đi vào chi tiết nhân vật và sự kiện:
Truyện lấy bối cảnh vào thời kỳ suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế cuối cùng của triều đại này quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều chính ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế khủng hoảng và đời sống người dân trở nên cơ cực. Đến đời Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Sau đó là cuộc hội ngộ giữa ba nhân vật Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, cả ba người đều muốn dẹp loạn yên dân nên đã kết nghĩa huynh đệ với nhau ở vườn đào.
Hà Tiến chỉ huy các quan đại thần đi trấn áp chẳng mấy chốc dập tắt được cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng. Nhờ là anh rể vua, ông được nhậm chức đại tướng quân của triều đình. Sau khi Hán Linh Đế mất, Hà Tiến lập con trưởng của vua là Hán Thiếu Đế lên kế vị. Lúc đó ông có mâu thuẫn với bọn hoạn quan Thập thường thị nên muốn trừ bỏ bọn chúng. Thủ hạ của Hà Tiến là Viên Thiệu khuyên ông kêu gọi quân các trấn trên cả nước vào Lạc Dương diệt hoạn quan, Tiến nghe theo ngay. Khi mà mưu đồ diệt hoạn quan của Hà Tiến chưa thành thì ông lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung Trường Lạc và giết chết. Ngay sau đó các đại thần do Viên Thiệu, Tào Tháo cầm đầu đem quân vào cung giết sạch đám hoạn quan này.
Trong số các quan lại nhận lệnh Hà Tiến để vào kinh diệt hoạn quan có Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội cả Hà Tiến và đám hoạn quan đều đã chết, liền vào Lạc Dương làm loạn triều đình. Ông ta phế truất Hán Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm hoàng đế, rồi tự phong mình làm tướng quốc, thâu tóm triều chính. Chỉ mỗi thứ sử Tinh Châu Đinh Nguyên là dám phản đối sự lộng quyền của Trác, nhưng Trác không thể hại được ông do Đinh Nguyên có người con nuôi là Lã Bố rất dũng mãnh, hộ vệ. Tuy nhiên, Đổng Trác dùng kế mua chuộc Lã Bố, sai Lý Túc đem tặng cho Lã Bố vàng bạc và con ngựa Xích Thố của mình. Lã Bố nổi lòng tham, làm phản giết Đinh Nguyên ngay trong đêm hôm đó để quay sang quy phục Đổng Trác.
Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến các chư hầu vô cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu để cùng diệt Đổng Trác. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi cũng đi theo liên quân diệt gian tặc. Lã Bố thường xuyên được Đổng Trác sai đi trấn áp, từng một mình giao chiến với cả ba anh em Lưu Bị, nhưng liên tục thất bại. Sau nhiều chiến thắng liên tiếp, liên quân Viên Thiệu tiến thẳng đến Lạc Dương. Đổng Trác hoảng sợ, liền bắt vua Hán dời đô về Trường An lánh nạn.
Trong thời kì Đổng Trác nắm quyền, vẫn còn nhiều trung thần như Vương Doãn luôn tìm cách diệt trừ Trác. Một lần, Vương Doãn đã sử dụng liên hoàn kế, ban đầu hứa gả con gái Điêu Thuyền cho Lã Bố, nhưng sau đó lại dâng cho Đổng Trác, khiến Lã Bố tức giận chất vấn Vương Doãn. Vương Doãn nói thác rằng Trác muốn giữ Điêu Thuyền trước để chọn ngày tốt mà gả lại cho Bố, nhưng sau đó Bố thấy Trác ăn ngủ với Điêu Thuyền như vợ chồng thì vô cùng tức giận. Có lần Lã Bố nhân lúc Đổng Trác đang cùng vua Hán bàn chính sự, lén tới đình Phượng Nghi để gặp Điêu Thuyền. Điêu Thuyền nghe lời Vương Doãn, đã nói khích vài câu để ly gián Đổng Trác với Lã Bố. Khi Đổng Trác về điện, thấy Lã Bố đang ôm Điêu Thuyền, nổi giận ném long kích vào Lã Bố nhưng ông đã may mắn tránh được. Từ đó, Lã Bố hận thù Đổng Trác, Vương Doãn thấy vậy liền nói khích ông nhiều hơn, khiến Lã Bố càng quyết tâm giết Đổng Trác để trả thù. Cả hai đã bày mưu lừa Đổng Trác vào kinh thành để rồi đích thân Lã Bố vác họa kích lao đến đâm chết ông.
Không lâu sau khi Đổng Trác bị giết chết, các thuộc hạ của hắn là Lý Thôi và Quách Dĩ cùng nhau nổi dậy làm loạn, báo thù cho chủ sau khi bọn chúng không được Vương Doãn xá tội. Lã Bố chống cự không nổi bèn bỏ thành mà chạy. Chẳng bao lâu sau, bọn Thôi, Dĩ chiếm được Trường An, giết được Vương Doãn, rồi nắm vua Hiến Đế thay Đổng Trác. Vua Hán không chịu nổi sự quản thúc của chúng, bèn liên kết với chư hầu ở Tây Lương là Mã Đằng, Hàn Toại, âm mưu đem quân vào Trường An tiêu diệt bọn Lý Thôi, nhưng thất bại nặng nề. Cả hai may mắn chạy thoát nạn.
Trong lúc đó, các chư hầu trong liên quân chống Đổng Trác như Tào Tháo và Viên Thiệu lại lục đục với nhau. Tôn Kiên, cha của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ truyền quốc rồi bỏ trốn về Giang Đông. Viên Thiệu nghi ngờ, lệnh cho thái thú Lưu Biểu ở Kinh Châu đem quân đánh úp Tôn Kiên để đòi lại ngọc tỉ. Từ đó Tôn Kiên hận thù Lưu Biểu, không lâu sau dẫn quân đánh Kinh Châu báo thù nhưng bị Lưu Biểu đánh bại, bản thân ông cũng bị tử trận. Con của Tôn Kiên là Tôn Sách phải đem ngọc tỷ cùng các tướng dưới trướng bỏ Giang Đông, chạy sang Hoài Nam nương nhờ Viên Thuật. Lúc đó liên quân chống Đổng Trác đã bị tan rã, các chư hầu quay về địa phương của mình và bắt đầu giao chiến với nhau. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực lượng riêng.
Viên Thiệu lúc mới khởi sự địa bàn rất nhỏ. Có lúc lương thực cạn kiệt, Thiệu phải mượn lương của chư hầu Hàn Phức ở Ký Châu. Mưu sĩ Phùng Kỷ liền bày mưu cho Viên Thiệu một mặt dụ Công Tôn Toản cùng Thiệu đánh Ký Châu, mặt khác báo tin này cho Hàn Phức. Hàn Phức hoảng sợ, lại hèn nhát. Sau khi nghe lời dụ của Viên Thiệu, Hàn Phức liền dâng Ký Châu cho Thiệu nhằm bảo vệ Ký Châu khỏi sự xâm phạm của Công Tôn Toản. Nhờ đó, Viên Thiệu lấy được Ký Châu mà không tốn binh lực. Công Tôn Toản biết mình bị Viên Thiệu lừa gạt, lập tức cất quân báo thù, kết quả là thảm bại. Từ đó cả Viên Thiệu và Công Tôn Toản bắt đầu nảy sinh hận thù và liên tục đánh nhau.
Tào Tháo cho đón cha mình từ quê nhà tới căn cứ của mình, có đi qua nghỉ đêm ở Từ Châu. Thứ sử Từ Châu là Đào Khiêm lệnh cho bộ tướng Trương Khải tiếp tục hộ tống ông ta về chỗ Tào Tháo. Nhưng Trương Khải thấy cha Tào Tháo mang nhiều vàng bạc của cải nên nổi lòng tham, đã giết ông ta trong đêm để cướp sạch. Tào Tháo nghe tin thì vô cùng tức giận, đem đại quân đánh Từ Châu báo thù. Quân đội của Đào Khiêm yếu thế, phải liên thủ với Lưu Bị lúc đó đang theo Công Tôn Toản, mới đẩy lui được quân Tào. Sau đó, Đào Khiêm ốm chết, Lưu Bị thay Đào Khiêm cai quản Từ Châu.
Sau khi bị Lý Thôi và Quách Dĩ đánh bại, Lã Bố tạm thời chạy trốn, phiêu bạt qua nhiều nơi và nương tựa các chư hầu khác nhau. Sau này, Lã Bố thấy Tào Tháo lơi lỏng phòng bị, nên đã tập hợp quân đội cùng các thuộc hạ như Cao Thuận, Trương Liêu, Tang Bá đánh chiếm địa bàn Duyện Châu. Lã Bố cũng thu phục được mưu sĩ Trần Cung, người vốn muốn theo Tào Tháo nhưng bất mãn trước việc ông ta tàn sát dân Từ Châu khi đánh Đào Khiêm. Với tài túc trí đa mưu, Trần Cung giúp Lã Bố thắng Tào Tháo nhiều trận, thậm chí suýt bắt sống được ông. Tuy nhiên, Lã Bố sau đó đã trúng kế của Tào Tháo nên thất bại trong việc giữ địa bàn, cùng đường đành phải nương nhờ anh em Lưu Bị ở Từ Châu, nhưng phải tạm đóng quân ở quận Tiểu Bái. Tận dụng sự lơ là của Trương Phi khi được Lưu Bị giao việc giữ Từ Châu, Lã Bố bất ngờ đánh úp Từ Châu. Để chuộc lỗi với Lưu Bị, Lã Bố vẫn cho ông ta đóng quân ở Tiểu Bái, nói thác là chỉ muốn thay Trương Phi giữ Từ Châu. Khi Viên Thuật vây đánh căn cứ Tiểu Bái của Lưu Bị, Lã Bố đã bắn kích viên môn cứu ông, buộc Viên Thuật phải giải vây rút về. Tuy nhiên, Lã Bố sau đó lại trở mặt đánh Lưu Bị và chiếm được Tiểu Bái. Lưu Bị phải dẫn quân về hàng Tào Tháo làm thế lực của Tào Tháo càng trở nên lớn mạnh.
Lúc này ở Hoài Nam, Tôn Sách không muốn ở với Viên Thuật nữa, cùng Trương Chiêu và các thuộc hạ thân tín ra sức tự lập. Tôn Sách lấy cớ đi đánh chư hầu nguy hiểm là Lưu Do để bảo vệ gia quyến, đồng thời để ngọc tỷ lại làm tin. Viên Thuật chấp thuận. Sau khi đánh bại được Lưu Do ở Dương châu, Tôn Sách thừa thắng chinh phục Ngô quận và Cối Kê, đánh bại được các chư hầu Nghiêm Bạch Hổ và Vương Lãng. Nhờ đó Sách chính thức làm chủ Giang Đông, li khai với Viên Thuật và gửi thư yêu cầu ông ta trả lại ngọc tỉ. Viên Thuật thấy Tôn Sách làm phản mình thì vô cùng giận dữ, nên không chịu trả ngọc tỉ. Có ngọc tỉ truyền quốc, Viên Thuật đã tự xưng đế không lâu sau đó, dù nhà Hán vẫn còn. Hành động này của Thuật bị Tào Tháo và các chư hầu xem là tội phản nghịch, nên họ đã cùng liên minh với nhau để đánh ông.
Để đối phó với các chư hầu, Viên Thuật muốn liên minh với Lã Bố, thậm chí cho sứ giả đến xin kết nghĩa thông gia. Nhưng Lã Bố đã khước từ yêu cầu này, quyết định đi theo liên minh các chư hầu để thảo phạt Viên Thuật. Viên Thuật thua to nhiều trận liền, lực lượng trở nên suy yếu, đành phải an phận ở Hoài Nam để cố thủ.
Lúc đó ở Trường An, các đại thần triều đình thấy bọn Thôi, Dĩ chuyên quyền, đã bày mưu với vua Hán để li gián bọn chúng, buộc Lý Thôi và Quách Dĩ nảy sinh mâu thuẫn và trở mặt đánh lẫn nhau. Nhân lúc bọn chúng tiêu diệt nhau, các quần thần bí mật hộ tống thiên tử về Lạc Dương để thoát khỏi bọn chúng. Lý Thôi và Quách Dĩ nghe tin phải giảng hòa rồi đem quân đuổi theo bắt vua lại. Các bộ tướng triều đình như Đổng Thừa, Dương Phụng, Từ Hoảng nhiều lần giúp vua đẩy lui được chúng nhưng binh lực cứ hao hụt dần. Hán Hiến Đế đành triệu Tào Tháo đem quân đến cứu giá, cả Lý Thôi và Quách Dĩ đều bị Tào Tháo đánh bại. Nhờ đó, Tào Tháo nắm được vua Hán, có thể dùng lệnh thiên tử để hiệu triệu chư hầu.
Quyền lực của Tào Tháo mạnh lên sau khi sở hữu được thiên tử. Ông lấy danh nghĩa giúp Lưu Bị, cất quân chinh phạt Lã Bố ở Từ Châu. Lã Bố thua trận liên tiếp, Tiêu Quan, Tiểu Bái và cả Từ Châu đều thất thủ, cuối cùng bị vây khốn ở Hạ Phì, cùng đường đành xin kết nghĩa thông gia với Viên Thuật để được ông ta gửi quân chi viện. Viên Thuật không tin ông, đòi Lã Bố phải đem con gái mình qua trước rồi mới xuất binh. Do bị quân Tào vây chặt thành, kế hoạch này đã thất bại. Lã Bố sau đó bị các thủ hạ làm phản, trói lại nộp cho Tào Tháo và cuối cùng bị xử tử. Tuy lấy được Từ Châu, Tào Tháo đã không trao lại châu này cho Lưu Bị như đã hứa, mà quyết định giữ ông ta ở lại Hứa Xương để dễ bề kiểm soát.
Viên Thuật tuy không cứu Lã Bố, nhưng khi thấy thế lực của Tào Tháo ngày càng lớn mạnh, ông muốn đem ngọc tỷ và ngôi vua sang trao cho anh là Viên Thiệu ở Ký Châu để cùng liên minh chống Tào. Tào Tháo sai Lưu Bị đem quân chặn đánh Viên Thuật ở Từ Châu khi ông ta đang trên đường sang chỗ Viên Thiệu. Quân Viên Thuật thua to phải rút về Hoài Nam. Trên đường rút quân, Viên Thuật thổ huyết qua đời, thế lực của ông bị Tào Tháo và Tôn Sách thôn tính. Tào Tháo cũng tịch thu được ngọc tỷ của Viên Thuật.
Khi Tào Tháo nắm vua Hán, trở nên lộng quyền ngang ngược, khi quân phạm thượng. Hán Hiến Đế không cam chịu thân phận đó, lập tức viết một mật chiếu cho Đổng Thừa, khuyên Thừa trừ giặc. Đổng Thừa lập ra hội Nghĩa trạng, tức là hội chống Tào Tháo. Ít lâu sau có bảy người tham dự, trong đó có Mã Đằng và Lưu Bị. Về sau, Mã Đằng về Tây Lương, Lưu Bị về Từ Châu, Đổng Thừa giận họ nên phát bệnh. Khi chữa bệnh cho Đổng Thừa, thái y Cát Bình phát hiện Thừa muốn diệt Tào Tháo, xin tham gia vào Nghĩa trạng. Nhưng ngay sau đó kế hoạch đã bị bại lộ khi người đầy tớ của Đổng Thừa, do bị chủ trách phạt nên oán giận, bí mật tố giác vụ hội Nghĩa trạng cho Tào Tháo biết. Tào Tháo bèn cho bắt Cát Bình đem tra tấn để lấy lời khai nhưng Cát Bình đã tự sát. Sau một hồi điều tra, vụ việc đã bị phát hiện, và cả năm người bọn Đổng Thừa đều bị Tào Tháo tru di.
Lưu Bị sau khi tiêu diệt Viên Thuật đã không thu quân về Hứa Đô theo lệnh của Tào Tháo mà giết thái thú Từ Châu là Xa Trụ và đóng quân tại đây để ngầm củng cố thế lực, dù chưa chính thức li khai. Tào Tháo nghi ngờ, đã sai người đem quân tới Từ Châu giám sát Lưu Bị, nhưng họ bị ông bức đuổi về Hứa Đô. Biết Lưu Bị nằm trong hội Nghĩa trạng nên ngay sau khi trừ Đổng Thừa, Tào Tháo dẫn quân đánh Từ Châu, Lưu Bị không chống cự nổi phải chạy sang Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam còn Quan Vũ do cùng đường nên phải tạm hàng Tào Tháo. Về sau, Quan Vũ từ chối mọi chiêu dụ của Tào Tháo, tự mình cưỡi ngựa qua năm ải chém sáu tướng để về với Lưu Bị.
Viên Thiệu sau khi tiêu diệt được kẻ thù phía bắc của mình là Công Tôn Toản đã trở thành một thế lực quân phiệt hùng mạnh ở Hà Bắc mà ngay cả Tào Tháo cũng phải e ngại. Do đó Lưu Bị sau khi li khai Tào Tháo ban đầu đã quyết định sang Ký Châu với Viên Thiệu để cùng đánh Tào, song do nhận thấy Viên Thiệu không có khả năng bình định thiên hạ nên ông đành bỏ đi. Và trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, Tào Tháo với chiến thuật "lấy ít địch nhiều" cùng tài mưu lược của mình, đã giành được thắng lợi ban đầu ở trận Bạch Mã - Diên Tân và chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ. Nỗ lực báo thù của Viên Thiệu sau đó đã bị phá sản hoàn toàn khi ông lại để thua tiếp một trận đánh lớn khác với Tào Tháo ở Thương Đình nên từ đó sức khỏe bắt đầu suy sụp, lực lượng cũng trở nên kiệt quệ.
Sau khi Viên Thiệu qua đời, do Thiệu bỏ con trưởng Viên Đàm để lập con út Viên Thượng lên kế vị, các con của ông đã nảy sinh mâu thuẫn rồi dấy binh đánh lẫn nhau. Tào Tháo thừa cơ hội anh em họ Viên cắn xé lẫn nhau, đem quân chiếm được cả bốn châu Hà Bắc, buộc tàn dư họ Viên phải chạy sang Liêu Đông. Tào Tháo bèn mượn tay thái thú Liêu Đông là Công Tôn Khang để giết hai anh em Viên Thượng và Viên Hy, một người con thứ khác của Viên Thiệu. Thất bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, Lưu Bị lập được căn cứ mới ở Nhữ Nam để chống Tào Tháo, hai nghĩa đệ của ông ta là Quan Vũ và Trương Phi cũng tìm đường theo về. Ban đầu Lưu Bị tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại nặng nề, bèn tới Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của mình cho lánh nạn. Lưu Bị được Lưu Biểu cho đóng quân ở quận Tân Dã để đề phòng Tào Tháo, tại đó ông đã thu phục được mưu sĩ Từ Thứ. Từ Thứ với tài mưu lược của mình, ông đã giúp Lưu Bị thắng quân Tào nhiều trận. Nhưng Tào Tháo lập mưu bắt mẹ của Từ Thứ, buộc Từ Thứ phải theo mình. Trước khi buộc phải rời bỏ Lưu Bị, Từ Thứ tiến cử Gia Cát Lượng với Lưu Bị. Sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát Lượng lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá.
Không lâu sau Lưu Biểu mất, để lại di chúc trao Kinh Châu cho con trưởng là Lưu Kỳ. Nội bộ Kinh Châu bắt đầu lục đục khi bộ tướng của Lưu Biểu là Sái Mạo đưa con thứ Lưu Tông lên làm chúa rồi định giết Lưu Kỳ để trừ họa, nhưng Lưu Kỳ đã chủ động trốn về Giang Hạ. Tào Tháo biết tin Kinh Châu đang có biến loạn, lập tức cho quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị nhận thấy binh mã ở Tân Dã không đủ khả năng chống Tào nên muốn tạm rút lui. Do được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị quân Tào xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của Lưu Tông, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏), là thành của Lưu Kỳ, do bị Sái Mạo hãm hại nên bỏ trốn đến đây. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ dung thân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo. Tào Tháo sai người đưa thư tới Tương Dương chiêu hàng Lưu Tông. Lưu Tông đồng ý, dẫn tùy tùng về Hứa Đô đầu hàng, chủ động nộp hết chín quận Kinh Châu cho Tào Tháo.
Còn ở Giang Đông, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết bất ngờ của người anh Tôn Sách. Sau khi chiếm Kinh Châu mà không tốn binh lực, Tào Tháo tiếp tục huy động đại quân sang phía đông nam, chuẩn bị chinh phạt Tôn Quyền. Tháo ban đầu cho người sang Giang Đông dụ hàng, tuy nhiên Gia Cát Lượng đã tự mình đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết phục được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị để kháng Tào. Các bề tôi của Tôn Quyền chia thành hai phe là chủ hàng và chủ chiến. Đứng đầu phe chủ hàng là Trương Chiêu, đứng đầu phe chủ chiến là Chu Du. Tôn Quyền nghe theo Chu Du, quyết liên minh với Lưu Bị để đánh Tào Tháo. Mùa đông năm 208, Tào Tháo dẫn đại quân hơn tám mươi vạn người tiến xuống Giang Đông tiêu diệt Tôn Quyền để thống nhất Trung Hoa. Biết quân Tào không giỏi thủy chiến, Chu Du và Gia Cát Lượng đã lệnh cho mưu sĩ Bàng Thống đến trá hàng, dụ Tào Tháo cho nối các thuyền chiến lại với nhau để dễ bày binh bố trận. Chu Du tận dụng cơ hội này để dùng hỏa công kháng Tào
, đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích.
Sau khi thua trận Xích Bích, lực lượng của Tào Tháo về cơ bản không còn trội hơn so với Lưu Bị và Tôn Quyền như trước nữa. Thế chân vạc dần hình thành từ đây.
Do trước đó đã chiếm được Kinh Châu, Tào Tháo đã giao ba quận lớn của châu này là Nam Quận, Tương Dương và Hợp Phì lần lượt cho Tào Nhân, Hạ Hầu Đôn và Trương Liêu coi giữ. Liên minh Tôn-Lưu thừa thắng trận Xích Bích, cùng nhau xâu xé những vùng đất này, nhưng Lưu Bị đã chiếm ưu thế nhờ tài mưu lược của Gia Cát Lượng. Chu Du dẫn quân đánh Nam Quận, đánh bại được Tào Nhân nhưng Nam Quận đã bị tướng của Lưu Bị là Triệu Vân chiếm mất trước đó, và Tương Dương sau đó cũng bị Quan Vũ thừa cơ chiếm trước. Trong khi đó, Tôn Quyền dẫn quân đánh trận Hợp Phì thì bị Trương Liêu đánh bại.
Để lấy Kinh Châu mà không phải cất quân, Chu Du chỉ cho Lưu Bị "mượn Kinh Châu" và khi Lưu Kỳ (con trưởng Lưu Biểu) chết thì phải trả, do Lưu Kỳ trên danh nghĩa vẫn đang kế thừa Lưu Biểu ở Kinh Châu. Tuy nhiên, Lưu Kỳ mất sớm, Chu Du lại sai Lỗ Túc đến đòi. Một lần nữa Gia Cát Lượng lại dùng mưu mẹo để trì hoãn vấn đề này khi nói rằng muốn mượn Kinh Châu cho đến khi Lưu Bị đánh chiếm được đất Tây Xuyên của Lưu Chương, nếu không sẽ không có chỗ dung thân. Vì thế Chu Du rất tức giận và thề sẽ tìm kế trả đũa Gia Cát Lượng.
Với ý định loại trừ Lưu Bị, Chu Du bày mưu cho Tôn Quyền gả em gái mình cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ mình là Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do tài mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới. Chu Du liền dùng cách khác đánh Kinh Châu khi chủ động sửa soạn binh mã rồi mượn tiếng đánh Tây Xuyên giúp Lưu Bị nhưng thực ra là muốn chiếm Kinh Châu để Lưu Bị chủ quan không phòng bị, nhưng mưu kế này cuối cùng vẫn thất bại bởi những kế sách đúng đắn của Gia Cát Lượng. Thất vọng, Chu Du buồn bã về Sài Tang rồi quá uất ức mà qua đời.
Tào Tháo sau khi nam chinh thất bại đã tiêu diệt luôn hai chư hầu Hàn Toại, Mã Đằng và đánh bại con Mã Đằng là Mã Siêu ở Tây Lương, trước khi bình định Trương Lỗ ở Hán Trung, nhưng vẫn không thể thống nhất Trung Hoa. Về sau Mã Siêu quay lại đánh Tào Tháo ở trận Ký Thành để báo thù nhưng vẫn thất bại nặng nề, phải liều chết phá vây để chạy thoát. Siêu bỏ chạy, ban đầu phiêu bạt qua Trương Lỗ, sau này do nghe lời dụ hàng của Lưu Bị mà Mã Siêu mới về theo Lưu Bị.
Lưu Bị cũng dẫn quân Tây chinh đánh Lưu Chương, chiếm được Thành Đô (Ích Châu). Tuy nhiên đó là một cuộc chiến không mấy dễ dàng vì dù thắng trận nhưng quân đội Lưu Bị chịu nhiều tổn thất, đặc biệt cái chết trong đám loạn tiễn của mưu sĩ Bàng Thống ở gò Lạc Phượng. Một thời gian sau Lưu Bị nhận ra cơ hội chinh phục Trung Nguyên đã đến, liền sai tướng Hoàng Trung đánh vào đất Hán Trung của Tào Tháo, giết được tướng Tào là Hạ Hầu Uyên. Tào Tháo tức giận đem quân đến báo thù nhưng lại thất bại nặng nề phải rút về Nghiệp Thành. Sau chiến thắng này, Lưu Bị lên ngôi Hán Trung vương.
Khi Lưu Bị đang đánh Hán Trung thì Quan Vũ (lúc đó đang được Lưu Bị giao việc giữ Kinh Châu) cũng đem quân đánh hai quận Tương Dương và Phàn Thành. Tướng giữ Phàn Thành là Tào Nhân thua trận liên tiếp. Tào Tháo phải sai Vu Cấm và Bàng Đức đem quân đi cứu viện. Quan Vũ đánh thắng cả đại quân cứu viện, Vu Cấm bị bắt sống, Bàng Đức không hàng bị chém, còn Tào Nhân bị Quan Vũ vây chặt ở Phàn Thành. Tào Tháo thấy tình hình nguy khốn đành phải liên minh với Tôn Quyền để đánh Quan Vũ. Tháo sai Từ Hoảng đem quân đến chi viện cho Phàn Thành để dụ Quan Vũ đem quân ở Kinh Châu ra đánh. Do Tôn Quyền trước đó đã giả vờ cách chức Lã Mông để cho Lục Tốn, lúc đó còn là một vị tướng trẻ ít danh tiếng, lên làm đô đốc nước Ngô; Quan Vũ chủ quan khinh địch, liền dồn hết binh lực ở Kinh Châu tới đánh Từ Hoảng, khiến thành Kinh Châu gần như bỏ không. Tôn Quyền thừa cơ sai Lã Mông đem quân đánh úp Kinh Châu. Quan Vũ nghe tin đó thì hoảng hốt, đem quân từ Phàn Thành về định chiếm lại Kinh Châu thì thất bại và bị quân Ngô vây chặt ở Mạch Thành. Quan Vũ cùng đường phải sai sứ sang Thượng Dung yêu cầu hai bộ tướng khác của Lưu Bị là Mạnh Đạt và Lưu Phong đem quân tới cứu viện nhưng họ không đồng ý. Nỗ lực phá vây của Quan Vũ cũng không thành, ông cuối cùng đã bị Tôn Quyền bắt giết.
Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết vào năm 220, có lẽ do bị u não. Năm đó, con trưởng của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô Thục). Trước khi lên ngôi, Lưu Bị cũng tập trung diệt trừ Lưu Phong và Mạnh Đạt vì trước đó họ đã không cứu Quan Vũ. Lưu Phong bị giết nhưng Mạnh Đạt thì chạy thoát và đầu hàng Tào Phi.
Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông chịu để Tào Phi phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Thục do Lưu Bị đã quyết tâm đông tiến đánh Ngô. Vì báo thù cho Quan Vũ, Tiên chủ Lưu Bị khởi binh phạt Ngô, cất 75 vạn đại quân tiến về phía đông đến Di Lăng. Ban đầu, quân Thục thắng liên tiếp nhiều trận, quân Ngô bại liên tục. Trong quá trình giao tranh, do thời tiết oi bức, Lưu Bị cho toàn quân hạ trại trong rừng để tránh nắng. Đô đốc Lục Tốn (陆逊) phía Ngô đã thừa cơ đó, ngay trong đêm dùng hỏa công thiêu cháy khu rừng nơi quân Thục hạ trại, khiến Lưu Bị đại bại trong trận Di Lăng, tướng sĩ chết vô số kể. Lục Tốn ban đầu định thừa thắng tấn công về phía nước Thục, nhưng sau khi phát hiện kế dụ địch của Gia Cát Lượng đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào quyết tâm đánh Thục của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng quân Ngô vẫn còn ở ngoài địa phận. Cuộc tấn công này đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát bên phía quân Ngụy. Những chiến thắng liên tiếp trước Thục và Ngụy đã giúp thanh thế của Đông Ngô ngày càng lớn mạnh, tạo điều kiện để Tôn Quyền quyết định xưng đế.
Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị sau khi thua trận Di Lăng đã quá u uất mà qua đời, để lại con trai Lưu Thiện còn nhỏ dại. Trương Phi đã chết trước đó nên Lưu Bị đành phó thác Lưu Thiện cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết phục được Tôn Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số.
Một trong những mưu lược tài ba của Gia Cát Lượng trong thời gian này là tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch trong các cuộc trấn áp bộ tộc này, nhưng lần nào cũng cho thả ông ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên sau đó đã thề mãi mãi gắn bó với nhà Thục.
Trong lúc này, Tào Phi cũng bất ngờ lâm bệnh mà chết, các vua Ngụy về sau dần mất thực quyền vào tay họ Tư Mã. Gia Cát Lượng do đó liền nhìn về phía bắc. Tuy nhiên, bản thân ông cũng không còn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông trong chiến dịch chống lại quân Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, có tài năng quân sự. Sau sáu lần xuất quân ra Kỳ Sơn, Gia Cát Lượng dù đánh thắng nhiều trận nhưng với quá nhiều khó khăn về tiếp tế lương thảo và tướng Ngụy là Tư Mã Ý chủ trương cố thủ không giao chiến, ông không thể đạt mục tiêu là đánh chiếm Trường An.
Đến khi Gia Cát Lượng mất, vua Thục Lưu Thiện lúc ấy làm theo lời dặn dò của ông, lần lượt cho Tưởng Uyển và Phí Y nhiếp chính. Sau khi cả hai người này qua đời, Khương Duy trở thành đại tướng quân thống lĩnh binh mã, tiếp tục các cuộc Bắc phạt với nước Ngụy, nhưng không giành được kết quả nào đáng kể.
Ở nước Ngô, sau khi Tôn Quyền qua đời, các vua còn lại của Đông Ngô là Tôn Lượng, Tôn Hưu và Tôn Hạo đều chỉ là những kẻ bất tài khiến triều chính rối ren. Nước Ngô suy yếu từ đó.
Khi cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục đang diễn ra thì phía triều đình nhà Ngụy liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Họ Tư Mã ở nước Ngụy liên tục lớn mạnh. Sau khi Tư Mã Ý mất, các con của ông là Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu lần lượt thay nhau nắm quyền chính. Nhận thấy nước Thục suy yếu, Tư Mã Chiêu đem quân diệt Thục, bắt được Lưu Thiện. Tuy nhiên, Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại Tào Ngụy, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy là Chung Hội và Đặng Ngải. Kế sách này đã tiến rất sát đến thành công, cho đến khi một tướng Ngụy trung thành là Hồ Liệt phao tin ra ngoài. Thật không may, bệnh tim của Khương Duy bộc phát ngay giữa trận đánh cuối cùng. Ông liền dùng kiếm tự vẫn, đánh dấu sự kháng cự cuối cùng của nhà Thục Hán.
Sau khi Tư Mã Chiêu qua đời, con trai ông và là cháu của đại thần Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm kế nghiệp. Cuối cùng, vào thời Tào Hoán, Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép phế Hán Hiến Đế, trở thành vua Tấn Vũ Đế, sáng lập ra nhà Tấn.
Vua cuối cùng của Đông Ngô là Tôn Hạo (孙皓) đến năm 280 cũng bị quân đội của Tấn Vũ Đế đánh bại. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán, Lưu Thiện và Tôn Hạo đều được triều đình nhà Tấn cho sống cho đến tận cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng đã chấm dứt sau gần một thế kỷ đầy xung đột.
Và người đời sau có một bài ca tóm tắt câu chuyện trong Tam Quốc diễn nghĩa:
Gươm Cao Tổ Hàm Dương thưở nọ,
Vầng bình minh soi đỏ góc trời.
Chân nhân Bạch Thuỷ nối ngôi,
Quạ vàng bay bổng tuyệt vời mây xanh.
Vận suy yếu khi đời vua Hiến,
Mảnh kim ô đã xế non đoài.
Tiếc thay Hà Tiến vô tài,
Gian thần Đổng Trác giữ ngôi triều đường.
Vương tư đồ mưu toan vận đổi,
Đảng Dĩ-Thôi lại nổi bên song.
Tứ phương trộm giặc như ong,
Ầm ầm sáu cõi anh hùng kéo ra:
Viên minh chúa đánh nơi Thanh Hải;
Mã Phục ba chiếm dải Hà Dương;
Ba Tây có gã Lưu Chương;
Cảnh Thăng cát cứ Kinh Tương xưng hùng;
Ông Trương Lỗ đóng vùng Nam Trịnh;
Lão Hàn Toại giữ tỉnh Lương Châu;
Nọ thành Trương Tú; kìa lầu Trọng Gia;…
Tào Tháo mới gian hùng quỷ quyệt,
Nắm lệnh vua sai khiến chư hầu.
Đường đường trướng phủ ngôi cao,
Quyền uy hiển hách, ai nào dám đương?!
Huyền Đức gặp Quan, Trương kết nghĩa,
Thề cùng nhau đem lại sơn hà.
Chỉ thương bốn bể không nhà,
Nay đông, mai bắc, lân la cõi trần.
Cầu Gia Cát ân cần quyến cố,
Giãi tấm lòng gắn bó nhỏ to.
Rồng bay, hổ nhảy, tranh đua,
Tây Xuyên gây dựng cơ đồ một nơi.
Thành Bạch Đế mấy lời thấm thót,
Tình thác cô chua xót nhường bao.
Kỳ Sơn trỏ ngọn cờ đào,
Một tay mong chống trời cao nghìn trùng.
Thế nhưng vận đã cùng khôn gượng,
Nửa đêm gò Ngũ Trượng sao sa.
Khương Duy cậy sức làm già,
Chín phen đánh Nguỵ kể đà uổng công.
Đường vào Thục, Đặng, Chung kéo đến,
Vận Viêm Lưu phút biến thành Tào.
Tào kia cũng chẳng được bao,
Lại đem cơ nghiệp mà trao tay người.
Họ Tư Mã nối ngôi thiên mệnh,
Đánh Kiến Xương hiệu lệnh non sông.
Thành Ngụy, núi Thục, sông Ngô,
Bốn phương tám hướng cùng nhau quy về.
Đài Thụ Thiện ngất trời mây phủ,
Sông Tam Giang sóng gió êm dòng.
Hàng vương xiết nỗi thẹn thùng,
Công hầu may cũng thong dong trọn đời.
Ngẫm thế sự bời bời ngán nỗi,
Cuộc ganh đua biến đổi khôn lường.
Tam phân một giấc mơ màng,
Tiếng đời gọi có mấy hàng nôm na.
Các sĩ phu thời phong kiến tuy khen ngợi giá trị nghệ thuật của tác phẩm nhưng cũng có người chỉ trích vấn đề bảy thực ba hư của Tam quốc diễn nghĩa, nói là có nhiều chỗ vô căn cứ, hoang đường, vì vậy làm cho độc giả hiểu sai nhiều diễn biến trong chính sử. Trương Học Thành đời nhà Thanh và một số người khác nêu ra một số tình tiết như: kết nghĩa vườn đào, Quan Vũ hiển thánh ở Ngọc Toàn, Quan Vũ đốt đuốc ngồi suốt đêm trước cửa buồng hai Cam, My phu nhân, đường Hoa Dung Quan Vũ chặn Tào Tháo, Bàng Sĩ Nguyên chết ở gò Lạc Phượng, Chu Du uất hận nói "Đã sinh ra Du sao còn sinh Lượng", Gia Cát Lượng tế ở sông Lô, nặn bột làm đầu người...[4] là vô căn cứ vì không thấy có ghi trong chính sử. Gần đây, các học giả Trung Quốc đã đề cập nhiều tình tiết không có thực trong lịch sử mà nhà văn La Quán Trung (hay nói chính xác hơn là những câu chuyện dân gian mà ông tập hợp để viết nên tác phẩm) đã hư cấu. Một số tài liệu khác cũng đề cập tới sự so sánh giữa sự thực lịch sử và những tình tiết hư cấu của tiểu thuyết. Một số tình tiết tiêu biểu là:
Ngay từ khi mới vào Việt Nam, Tam quốc diễn nghĩa còn kéo theo nó hàng loạt ấn phẩm khác về các nhân vật, sự kiện liên quan đến thời Tam quốc, hoặc những cuốn khảo cứu về bản thân tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa. Tất cả những ấn phẩm đó được các tác giả người Việt sáng tác, hoặc được dịch sang tiếng Việt để giúp cho những người yêu thích Tam quốc diễn nghĩa có thêm được những góc nhìn khác nhau về tác phẩm văn chương bất hủ này của thế giới.
Có thể kể ra những tác phẩm liên quan đến sự kiện, nhân vật Tam quốc như:
Còn sách viết riêng về Khổng Minh Gia cát Lượng cũng có hàng loạt tác phẩm như:
Loại sách khảo cứu như:
Giữa tác phẩm văn học và ghi chép lịch sử, giữa tiểu thuyết và sử, đặc biệt là giữa loại tiểu thuyết lịch sử có tính chất sáng tác tập thể của nhân dân quần chúng như Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa với loại sách gọi là "chính sử" do các sĩ phu phong kiến biên soạn, giữa hai thứ đó bản chất khác hẳn nhau. Quên mất điểm khác nhau đó sẽ dẫn tới cái nhìn sai lầm lệch lạc. Hiểu rõ và đánh giá một tác phẩm văn học nổi tiếng như Tam quốc là việc không đơn giản. Cách kể chuyện thời Tam quốc của La Quán Trung cũng cho chúng ta thấy sự phản ánh tình hình chính trị thời tác giả sống. Hoàng đế nhà Minh Vạn Lịch đã chính thức nâng Quan Vũ thành thánh để nhấn mạnh đức tính quả cảm và tuyệt đối trung thành của ông (những tính cách mà rõ ràng hoàng đế muốn đề cao để các bề tôi, thần dân noi theo). Tuy nhiên La Quán Trung lại xây dựng cho chúng ta một nhân vật Quan Vũ tinh tế hơn ở chỗ Quan Vũ chết như một thần tượng tan vỡ, đáng thương vì tính cả tin của mình. Các lời bình cổ đã không chú ý đến chi tiết này nhưng khám phá gần đây cho thấy nhân vật Quan Vũ của La Quán Trung là một sự phản ánh hấp dẫn của văn hoá Trung Quốc dưới luật thời nhà Minh, tác giả vừa theo chương trình tuyên truyền của triều đình phong kiến thời đấy mà vẫn phá luật một cách khá tinh tế.
Lịch sử Trung Quốc đã từng xuất hiện rất nhiều thời loạn thế, chẳng hạn như Xuân Thu Chiến Quốc, Hán Sở tranh hùng, Tam Quốc, Ngũ Hồ Thập lục quốc, Nam Bắc triều hay Ngũ Đại Thập Quốc; nhưng nếu nói về độ nổi tiếng và phổ biến nhất, các nhân vật được biết tới nhiều nhất thì không có thời đại nào có thể vượt qua Tam Quốc. Sở dĩ có điều đó là do thành công và ấn tượng mà cuốn tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" đem lại cho hậu thế. Tiểu thuyết này là ví dụ tuyệt vời cho mối tương tác hết sức phức tạp giữa chính sử, dã sử, văn học viết hư cấu, văn chương dân gian và sinh hoạt văn hoá bình dân diễn ra trong một truyền thống văn hoá lớn - truyền thống Trung Hoa kéo dài qua bao thời đại. Người Trung Hoa ví các tác phẩm văn chương bất hủ như "mặt trăng mặt trời trường tồn cùng sông núi", Tam Quốc Diễn Nghĩa có thể nói chính là "Nhật nguyệt treo cao" trong kho tàng văn học Trung Quốc.
Tam quốc diễn nghĩa được xếp là 1 trong "Tứ đại danh tác" của Trung Hoa. Tác giả La Quán Trung đã nói rõ chủ đề ngay từ tên tác phẩm: ông dùng lịch sử của ba quốc gia thời Tam quốc để diễn giải về "nghĩa" (tư tưởng chính nghĩa) của con người, lấy đó làm chủ đề chính. Tam quốc diễn nghĩa bao hàm ý nghĩa cao siêu của tiêu chuẩn đạo đức, luân lý truyền thống Trung Hoa, ngoài ra còn có đạo lý "Nhân quả báo ứng", "Thuận theo tự nhiên", "Người tính không bằng trời tính". Tác phẩm không chỉ là tiểu thuyết đơn thuần, mà còn ẩn chứa những bài học răn dạy về đạo đức, những tấm gương được mọi người tôn kính thông qua những câu chuyện lịch sử. Bởi vì nắm chắc được điểm này cho nên Tam quốc diễn nghĩa mới có thể "trường thịnh không suy", đi sâu vào lòng người đọc suốt nhiều thời đại như vậy, không chỉ ở Trung Quốc mà cả ở những nước đồng văn như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,...
Tam quốc diễn nghĩa là câu chuyện gần một trăm năm, sự việc nhiều nhưng không rối, đó là do ngòi bút có khuynh hướng rõ ràng của La Quán Trung. Tác giả đứng về phía Thục Hán, lên án Tào Ngụy, còn Tôn Ngô chỉ là lực lượng trung gian. Những nhân vật của Thục Hán như hoàng đế Lưu Bị với tư tưởng "trọng nhân hòa, lấy dân làm gốc", gia đình thừa tướng Gia Cát Lượng suốt 3 đời phò tá triều đình với tấm lòng "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi", các đại tướng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Khương Duy võ nghệ xuất chúng lại tận trung vì nước, bao phen xả thân để bảo vệ cơ nghiệp nhà Hán; Cam phu nhân chỉ là nữ nhi mà thấu hiểu đạo nghĩa, My phu nhân sẵn lòng hy sinh tính mạng để cứu dòng dõi Lưu Bị,... Mỗi nhân vật chính của nhà Thục Hán đều được khắc họa với chính khí lẫm liệt, là những tấm gương về trung thần nghĩa sĩ, con hiếu thảo, vợ tiết trinh. Nhà Thục Hán là sự kết tinh nguyện vọng của quần chúng nhân dân về một vị vua xuất thân hàn vi, biết thấu hiểu nỗi khổ và yêu thương quý trọng nhân dân, một triều đình thực hiện "nhân chính", một xã hội giàu đạo đức với những tấm gương tôi trung vợ tiết, một đất nước thống nhất và hoà bình.
Đặc biệt trong bối cảnh tác phẩm ra đời, khi nhà Nguyên của ngoại tộc Mông Cổ đang thống trị Trung Hoa, tư tưởng "ủng Lưu phản Tào" còn thể hiện khát vọng của nhân dân Trung Hoa để có một vị vua kế thừa dòng máu người Hán (Lưu Bị là dòng dõi hoàng thất nhà Hán), đánh đuổi triều đình ngoại tộc để giành lại giang sơn cho dân tộc Hoa Hạ (một kiệt tác sân khấu ra đời trong cùng thời kỳ cũng mang tư tưởng này, đó là Con côi nhà họ Triệu).
Tuy Tam quốc diễn nghĩa có một số tình tiết hư cấu về lịch sử, nhưng về nét chính, các bộ chính sử Trung Quốc cũng công nhận triều đình Thục Hán có rất nhiều nhân vật đáng khen ngợi: vua nhà Thục Hán là Lưu Bị vốn có xuất thân hàn vi, thuở nhỏ phải đan dép cỏ kiếm sống nên rất thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, ông từ hai tay trắng gây dựng cơ đồ nhờ sự trợ giúp trung thành của các tướng sĩ, khi lên ngôi lại thi hành chính sách khoan hòa với nhân dân. Gia đình của thừa tướng Thục Hán là Gia Cát Lượng thì suốt ba đời đều hết lòng tận tụy vì nước và rất liêm khiết, "trong nhà chẳng để thừa gấm vóc, bên ngoài không có điền sản dư dôi". Đại tướng Khương Duy là tổng chỉ huy quân đội cũng sống rất giản dị, "ăn uống rất mực tiết kiệm, trong nhà không có thiếp hầu, sau sân chẳng nghe thấy tiếng đàn hát". Danh tướng Triệu Vân không quản hiểm nguy một mình cứu ấu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản. Các cặp cha con Triệu Vân - Triệu Quảng, Gia Cát Chiêm - Gia Cát Thượng, Phó Đồng - Phó Thiêm thì "thụ mệnh lúc lâm nguy, cha con nối đời trung nghĩa", vì bảo vệ giang sơn xã tắc mà tráng liệt hy sinh. Những yếu tố đó rất gần gũi với hình mẫu một vị vua lý tưởng, một triều đình chân chính đối với nhân dân Trung Quốc thời phong kiến, nước Thục Hán mất rồi mà người dân địa phương đến cả nghìn năm sau vẫn còn hoài niệm và lập đền thờ. Do vậy, các câu chuyện dân gian về thời Tam Quốc có xu hướng ca ngợi Lưu Bị và nhà Thục Hán, căm ghét kẻ thù của ông là điều tất yếu, và xu hướng "ủng Lưu phản Tào" đã là tư tưởng chung của đại đa số nhân dân Trung Quốc từ trước cả khi tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa ra đời.
Trong sách sử đời Bắc Tống (khoảng 300 năm trước khi cuốn tiểu thuyết ra đời) đã có ghi lại một đoạn bút ký nói rằng: "Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại trận thì khoái chí reo mừng". Bút ký ấy cho thấy: từ rất lâu trước khi Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, nhân dân Trung Quốc đã có xu hướng "ủng Lưu phản Tào", họ yêu mến Lưu Bị và căm ghét Tào Tháo. Chính sự kế thừa nguyên vẹn tư tưởng đó đã giúp tác phẩm được đông đảo nhân dân Trung Hoa đón nhận, họ như thấy được thái độ yêu - ghét của chính bản thân ở ngay trong tác phẩm.
Tác phẩm là sự kết hợp giữa sáng tác tập thể của các nghệ sỹ dân gian với sáng tác riêng của nhà văn, mà phần cốt lõi là sáng tác truyền miệng được tích lũy qua nhiều thế hệ. Những tác phẩm truyền miệng là kết tinh của trí tuệ tập thể, thể hiện một cách rõ nét ý thức chính trị xã hội, ý thức đạo đức luân lý và ý thức thẩm mỹ của đa số quần chúng nhân dân, trải qua nhiều năm được La Quán Trung gọt giũa, đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật cũng như triết lý nhân sinh. Những phẩm chất tốt đẹp mà nhân dân ca ngợi như: Trung hậu nhân từ; Hào phóng chính trực; Anh dũng ngoan cường; Đoàn kết tương trợ; Thông minh mưu trí; Quên mình vì nghĩa,... được các nghệ sỹ dân gian tập trung vào nhân vật Lưu Bị và các mưu sĩ, tướng lĩnh nhà Thục Hán. Mặt khác, các nghệ sỹ dân gian cũng đem những thói hư tật xấu mà nhân dân căm ghét như: Hung ác tàn bạo; Nham hiểm gian trá; Tự tư giả dối, Bất nhân bất nghĩa, Hống hách ngang ngược; Hoang dâm vô độ,... để gán cho các nhân vật Tào Tháo, Đổng Trác, Viên Thiệu, Lã Bố,... Có thể nói một cách không khoa trương rằng "Tam quốc diễn nghĩa" là một kho báu về thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm giá trị và quan niệm thẩm mỹ của quần chúng nhân dân thời cổ Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân cơ bản, khiến "Tam quốc diễn nghĩa" được đông đảo quần chúng nhân dân ưa thích qua nhiều thế kỷ.
Là một tiểu thuyết lịch sử nên Tam quốc diễn nghĩa chứa đựng rất nhiều quan điểm nhân sinh và tư duy chính trị sâu sắc. Nhiều đoạn tác giả đã mượn lời dẫn truyện hoặc lời các nhân vật để lồng ghép những suy ngẫm về quá trình thịnh suy của đất nước, về vòng tuần hoàn triều đại.
Có một câu nói nổi tiếng của người Trung Quốc được nhắc tới ngay ở đầu cuốn tiểu thuyết: "Thiên hạ đại sự, chia lâu rồi tất hợp, hợp lâu rồi tất chia" (分久必合,合久必分). Hàm ý là: Chiến tranh loạn lạc không thể kéo dài mãi vì sớm muộn sẽ có người đủ tài năng để thống nhất thiên hạ, nhưng triều đại mới sẽ lại tan vỡ nếu người kế thừa cai trị kém cỏi, quan lại tham nhũng, nhân tâm chia lìa. Điều này thể hiện rõ ngay trong tác phẩm: Nhà Hán hùng mạnh trải suốt 400 năm cuối cùng đã sụp đổ vì những vị vua bất tài, tham nhũng tràn lan khiến dân chúng nổi dậy chống lại; trong cảnh loạn lạc quân phiệt cát cứ, ba nhà Thục Hán, Tào Ngụy, Tôn Ngô nổi lên bởi những người tài trí như Lưu Bị, Tào Tháo, Tôn Quyền, nhưng cả 3 đều chỉ tồn tại được mấy chục năm rồi lần lượt sụp đổ bởi những người kế vị bất tài, để rồi thế lực mới là nhà Tấn lại nổi lên thống nhất thiên hạ.
Qua lịch sử thời Tam quốc, tác giả La Quán Trung đã gửi gắm lời nhắc nhở: giành được thiên hạ đã khó, giữ thiên hạ cũng khó không kém. Một triều đại dù quá khứ hùng mạnh, đất rộng dân đông mà người cai trị kém cỏi, lối sống hoang dâm xa xỉ, nhân tâm chia rẽ thì cũng phải sớm sụp đổ. Muốn triều đại được vững bền, muốn chiến tranh loạn lạc không tái diễn thì nhà cai trị luôn phải biết "lấy dân làm gốc" mà tận tâm lo nghĩ, mỗi người dân cũng phải biết sống có đạo đức, tuân theo lẽ phải, không tham dâm xa xỉ. Đây là bài học lịch sử mà con người ở bất kỳ thời đại nào cũng cần ghi nhớ.
Tam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết sử thi nên giọng điệu chủ yếu là ca ngợi hay châm biếm hài hước để phê phán. Tác phẩm khoa trương những chiến tích để ca ngợi các anh hùng hảo hán, cường điệu những khó khăn hiểm trở để thử thách tài năng võ nghệ của các anh hùng. Các nhân vật luôn có vóc dáng khác người, những hành động phi thường và tâm hồn họ cũng cao thượng hơn hẳn so với người thường. Có lẽ vì thế, dù thời Tam Quốc có nhiều trận đánh ác liệt, thương vong rất nhiều nhưng tác phẩm vẫn không gây không khí bi thảm. Truyện giống như một bản anh hùng ca về sự dũng cảm, mưu lược, tấm lòng nhân ái trung nghĩa của các vị anh hùng nhà Thục Hán, mà hậu thế khi đọc vẫn phải thấy cảm kích và thu nhận những bài học quý giá cho chính mình.
Ngôn ngữ của Tam quốc diễn nghĩa là sự kết hợp giữa văn ngôn và bạch thoại, sử dụng được ngôn từ thông dụng trong nhân dân. Ngôn ngữ kể chuyện lấn át ngôn ngữ miêu tả, và trong ngôn ngữ miêu tả rất ít sử dụng định ngữ và tính từ. Người Trung Quốc gọi loại miêu tả ngắn gọn như vậy là lối bạch miêu, nhưng nhờ lối kể chuyện khéo léo, đối thoại sinh động và sử dụng rộng rãi khẩu ngữ, các truyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, chuyện lịch sử,... nên đã tạo cho tác phẩm một vẻ đẹp hấp dẫn vừa bác học và dân dã.
Trong dân gian có rất nhiều tác phẩm thơ văn bắt nguồn từ những tích truyện nổi tiếng trong Tam quốc diễn nghĩa.
Thừa tướng Thục Hán là Gia Cát Lượng được người dân Trung Quốc ca ngợi là "vạn đại quân sư" vì tài năng và lòng trung thành tuyệt vời, đền thờ ông tại thành Bạch Đế nổi tiếng nhất vẫn là tác phẩm của nhà thơ Đỗ Phủ thời Đường đề tặng:
Tại những thờ Quan Vũ (tướng nhà Thục Hán) có rất nhiều câu đối ca ngợi sự nghiệp và đức độ của ông. Những câu đối nổi tiếng nhất về Quan Vũ được ghi nhận là:[17]
Tướng Thục Hán là Triệu Vân với chiến tích một mình cứu ấu chúa Lưu Thiện trong trận Đương Dương - Trường Bản thì được dân gian ca ngợi bằng bài thơ:
Ngay cả ở Việt Nam, dân gian đã có những câu thơ thể hiện tinh thần ca ngợi nhà Thục Hán trong truyện Tam quốc như sau[21]:
Nhà thơ Tản Đà của Việt Nam có bài thơ ca ngợi lòng tận trung báo quốc của thừa tướng Gia Cát Lượng của nhà Thục Hán:
Do nội dung hết sức hấp dẫn nên sách Tam quốc rất được người đọc Việt Nam đón nhận. Ngay từ đầu thế kỷ 20 khi chữ quốc ngữ mới manh nha hình thành và phát triển ở Việt Nam thì Tam quốc diễn nghĩa đã ngay lập tức được các nhà Nho dịch sang chữ Quốc ngữ để người đọc Việt Nam làm quen với một kiệt tác của văn học cổ Trung Quốc. Vì vậy quá trình xuất bản và giới thiệu Tam quốc diễn nghĩa ở Việt Nam dường như cũng song hành với sự phát triển chữ quốc ngữ ở Việt Nam.
Năm 1960, Nhà xuất bản Á Châu cho ra bản dịch đáng chú ý khác của Tử Vi Lang Tam quốc chí diễn nghĩa được chia thành 8 tập, cũng có lời bình và phần ngoại thư ở cuối sách của Mao Tôn Cương và phần đầu có Bài ca mở đầu. Ngoài ra, bản dịch này cũng có hình minh họa cùng dòng chú thích. Ấn bản lần 2 năm 1961–1962 và được tái bản năm 1969 và năm 1972.
Năm 1967–1968, Nhà xuất bản Hương Hoa cho ra bản dịch của Mộng Bình Sơn, in thành một tập duy nhất dày gần 1700 trang, tiếc rằng bản dịch này đã bỏ bớt một số đoạn thơ trong nguyên tác, nhưng ở phần cuối sách lại có thêm phần "Ngoại thư" dài khoảng 60 trang, chưa kể những "lời nhận xét của người thời nay" cùng với lời bàn của Mao Tôn Cương trích trong Thánh thán ngoại thư ở cuối mỗi hồi. (Bản dịch này được tái bản nhiều lần)
Năm 1972, Nhà sách Khai Trí ở 62 Lê Lợi, Sài Gòn cũng xuất bản Tam quốc diễn nghĩa theo bản dịch của Phan Kế Bính in năm 1909
Sau đó mãi đến cuối năm 1959 và đầu năm 1960, Nhà xuất bản Phổ Thông mới lại cho in Tam quốc diễn nghĩa (chia thành 13 tập), vẫn dựa trên bản dịch năm 1909 của Phan Kế Bính, nhưng do Bùi Kỷ hiệu đính khá nhiều bằng cách đem đối chiếu với nguyên bản tiếng Trung Quốc mới nhất vào thời điểm ấy do Nhân dân Văn học xã Bắc Kinh xuất bản năm 1958. Trong số tất cả các bản dịch trước đó thì đây là bản dịch được hiệu đính kỹ lưỡng nên rất trau chuốt, toát lên được cái thần của Tam quốc nhất. Đặc biệt tập 1 có đăng lời nói đầu của bộ biên tập Nhà xuất bản Nhân dân Văn Học Trung Quốc dài tới 35 trang, phân tích khá kỹ nội dung truyện và lần đầu tiên có in bài từ mở đầu truyện do cụ Bùi Kỷ dịch với những dòng hào sảng, cùng với những tranh minh hoạ do hai họa sĩ Trung Quốc Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt thể hiện thật sống động như trong một cuốn phim.
Xin nói thêm về bộ Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa: Thực tế, bộ truyện tranh Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa do gần 30 họa sĩ kỳ công vẽ nên, mỗi tập có từ một đến năm họa sĩ tham gia. Hai họa sĩ Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt chỉ là người vẽ tập đầu tiên "Kết nghĩa vườn đào". Họa sĩ vẽ nhiều tập nhất là Uông Ngọc Sơn, tham gia vẽ 9 tập. Bản đầy đủ nhất của bộ truyện Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa được in thành 65 tập, gồm 7456 tranh (nhiều hơn khoảng 300 tranh so với bộ truyện do Nhà xuất bản Mũi Cà Mau đã in). Tuy vậy, những minh họa trong bộ "Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa" kể ở trên vẫn chưa thể hiện đầy đủ nội dung truyện Tam quốc diễn nghĩa. Vì vậy đến năm 2007, các họa sĩ Trung Quốc đã vẽ tiếp các phần còn thiếu và gộp thành 30 tập bổ sung nữa. Có thể kể tên một số tập mới trong bộ Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa bổ sung gồm 30 tập (20 tập dài và 10 tập ngắn), được xuất bản lần đầu năm 2007 như: Bắc Hải cứu Khổng Dung, Chém Vu Cát, Đài Đồng Tước, Tào Tháo bình Hán Trung, Loạn Hứa Đô, Núi Ngọc Toàn, Võ hầu bình nam...
Như vậy cho chúng ta thấy, hiếm có một tác phẩm văn học nào lại được đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam yêu thích như Tam quốc diễn nghĩa.
Tam quốc diễn nghĩa ghi lại câu chuyện về một nhà sư tên (Phổ Tĩnh), là bạn và cũng là đồng hương của Quan Vũ, đã bí mật báo cho Quan Vũ biết trước về cuộc mưu sát ông của một tướng giữ ải, trong hành trình chém sáu tướng phá năm ải của mình. Sau đó chính vị sư này đã giúp Quan Công đầu thai trở lại sau khi ông mất. Vì tiểu thuyết được viết vào thời nhà Minh, cách thời điểm của câu chuyện hơn 1000 năm nên những chi tiết này phản ánh việc đạo Phật đã từng là một nhân tố quan trọng của dòng chảy văn hoá chính và có thể không chính xác về mặt lịch sử. La Quán Trung vẫn giữ những chi tiết này từ các phiên bản trước để nhấn mạnh hình tượng Quan Vũ là một nhân vật trung thành nhưng đôi khi cũng là một người tiết tháo đầy kiêu ngạo. Kể từ đó trở đi, Quan Vũ còn được gọi là Quan Công.
Bên cạnh các câu thề nổi tiếng trong truyện, nhiều thành ngữ Trung Quốc đang dùng ngày nay đều xuất phát từ tiểu thuyết này:
Ngoài ra cũng có một số thành ngữ tiếng Việt như: