Gia Cát Lượng
| |
---|---|
Tên thật | Gia Cát Lượng (諸葛亮) |
Tự | Khổng Minh (孔明) |
Hiệu | Ngọa Long tiên sinh (臥龍先生) |
Tên khác | Gia Cát Võ Hầu (諸葛武侯) |
Thông tin chung
| |
Thế lực | (Thục Hán) |
Chức vụ | Quân sư Chính trị gia Thừa Tướng |
Sinh | 181 Dương Đô, Lang Gia (nay là Nghi Nam, Sơn Đông) |
Mất | 234
(54 Tuổi) |
Thụy hiệu | Trung Vũ Hầu (忠武侯) Vũ Quang vương (武兴王)(Đông Tấn truy phong) An Quốc vương (安国王) (Tiền Thục truy phong) |
Thân phụ | Gia Cát Khuê |
Hôn phối | Hoàng Thị |
Con cái | Gia Cát Kiều (con nuôi) Gia Cát Chiêm |
Gia Cát Lượng (chữ Hán: 諸葛亮/ 诸葛亮; bính âm: Zhūgě Liàng;[1] 181 – 234), biểu tự Khổng Minh (孔明),[2] hiệu Ngọa Long (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo dục, và cũng là một nhà phát minh kỹ thuật nổi tiếng của nhà Quý Hán (Thục Hán) thời Tam Quốc.
Gia Cát Lượng đã phò tá Lưu Bị gây dựng nên nhà Thục Hán, hình thành thế chân vạc Tam quốc, liên minh Thục-Ngô chống Ngụy. Ông được cho là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của ông, và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử.[3] Tuy nhiên, năm chiến dịch đánh Tào Ngụy do ông phát động đều không thành công, cuối cùng ông bị bệnh mất trong doanh trại.
Không chỉ có tài năng hơn người, ông còn nổi tiếng với tấm lòng tận trung báo quốc, "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi". Con trai và cháu nội của Gia Cát Lượng cũng kế thừa chí nguyện bảo vệ nhà Hán của ông và đã anh dũng tử trận khi nhà Thục Hán sắp sụp đổ, tạo nên tấm gương "Trung nghĩa truyền gia thế vô song, Ba đời trung liệt chiếu sử xanh" nổi tiếng lịch sử của nhà Gia Cát. Gia Cát Lượng cũng là vị quan văn duy nhất thời Tam quốc được thờ tại Đế vương miếu (được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ phụng 40 vị quan văn được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại). Ông khi còn sống có tước hiệu Vũ hương hầu (武乡侯), sau khi mất có thụy hiệu là Trung Vũ hầu, do đó hậu thế thường hay gọi ông là Vũ hầu (武侯) hay Gia Cát Vũ hầu (诸葛武侯) để tỏ lòng tôn kính.
Hình tượng của ông được dân gian ca tụng qua những câu chuyện lưu truyền suốt cả nghìn năm, về sau được La Quán Trung tiểu thuyết hóa và càng trở nên nổi tiếng qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, một trong Tứ đại kỳ thư của văn học Trung Hoa. Trong tác phẩm này, Gia Cát Lượng được mô tả là một vị thừa tướng tài đức song toàn với tài năng "xuất quỷ nhập thần", đoán mưu lập kế như thần, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, là biểu tượng của lòng trung nghĩa và trí tuệ anh minh (Tuyệt nhân là Lưu Bị, tuyệt gian là Tào Tháo, tuyệt trí là Khổng Minh).
Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Đông Hán. Ông sinh vào mùa thu năm Tân Dậu (181) thời Hán Linh Đế. Dòng họ Gia Cát (諸葛) của ông là một họ kép ít gặp. Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu và một số từ điển khác thì chữ 诸 (bính âm là zhū) có thể phiên là chư lẫn gia, đồng thời ở mục họ 诸葛 (Zhūgé) thì chỉ phiên là Gia Cát. Hai sách Nam Đường thư và Chính tự âm có chú tên đất và tên người đọc gần giống chữ Tra (查), tức đọc là Gia. Theo sách Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia".[4]
Gia Cát Lượng là dòng dõi sĩ tộc, hậu duệ của quan Tư lệ Hiệu úy là Gia Cát Phong đời nhà Hán, cha là Gia Cát Khuê, thời Hán mạt làm chức Quận thừa ở Thái Sơn, nhưng chết khi Gia Cát Lượng còn nhỏ. Gia Cát Khuê sinh được ba người con trai là Gia Cát Cẩn, Gia Cát Lượng và Gia Cát Quân.[4][5] Do cha mất sớm, Gia Cát Lượng theo chú là Gia Cát Huyền làm Dự Chương thái thú cho Viên Thuật. Gia Cát Huyền dẫn Lượng cùng em trai ông là Gia Cát Quân đến nhậm chức. Gặp lúc Hán triều cử người khác đến thay Huyền, nên ông qua Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu, vốn là chỗ quen biết cũ. Anh trai của ông là Gia Cát Cẩn tránh loạn đến Giang Đông, gặp lúc Tôn Sách chết, phục vụ cho Tôn Quyền ở Giang Đông.[5][6] Gia Cát Lượng xuất thân trong một gia đình tương đối có tiếng tăm, thời trẻ cũng có nhiều mối quan hệ, giao du với quan lại nhân sĩ địa phương, không hoàn toàn mai danh ẩn tích một cách thần bí ở rừng núi như truyện dân gian hay mô tả.
Dâng biểu "Gia Cát Lượng tập" của Trần Thọ mô tả Gia Cát Lượng:
Khi chú mất, Gia Cát Lượng đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, thích làm ca từ theo khúc Lương Phủ ngâm . Anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân làm quan đại thần cho nước Thục Hán cùng với ông, em họ Gia Cát Đản làm quan cho Tào Ngụy. Gia Cát Lượng tự mình cày ruộng, vốn cao tám thước, ông tự ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị. Người đương thời chẳng mấy ai tin, nhưng vài người như Thôi Châu Bình và Từ Thứ có giao du với ông thì tin ông có tài như vậy.[7]
Gia Cát Lượng khi đọc sách chủ yếu xem xét đại lược, khác với nhiều bạn học đọc sách tỉ mỉ, chăm chú đến tinh thục. Dịch Trung Thiên nói như vậy mới là biết đọc sách, Gia Cát Lượng giỏi nắm bắt cái tinh tuý cốt yếu trong sách, chứ không tầm chương trích cú, câu nệ từng chữ. Gia Cát Lượng cũng nói các bạn của mình như Thạch Quảng Nguyên, Từ Thứ, Mạnh Công Uy sau này có thể làm đến quan cai trị một châu hay một quận, còn về bản thân mình thì "Lượng chỉ cười không đáp". Thật ra câu trả lời đã rất rõ ràng: Gia Cát Lượng không muốn làm đế vương mà cũng chẳng muốn làm quan địa phương, mà muốn làm đại hiền thần phò tá một minh chủ lập nên nghiệp lớn, giống như Quản Trọng hay Nhạc Nghị xưa vậy.[8][9]
Theo Bàng Thống truyện chép trong Tam quốc chí, Gia Cát Lượng là học trò của Bàng Đức Công, người Tương Dương. Gia Cát Lượng thường hay tới nhà, một mình lạy ở dưới giường, ban đầu Bàng Đức Công chẳng chỉ bảo gì sau mới dạy. Chính họ Bàng đặt các biệt danh Ngọa Long cho Gia Cát Lượng, Phượng Sồ cho Bàng Thống và Thủy Kính cho Tư Mã Huy. Bàng Đức Công có cháu là Bàng Thống, người sau này được Gia Cát Lượng tiến cử cho Lưu Bị.[10]
Trong gia tộc Gia Cát, Gia Cát Lượng là người tài giỏi nhất nên người đời sau có câu: "Thục được rồng[11], Ngô được hổ, Ngụy được chó", ví trong 4 anh em thì ông tài giỏi nhất, Lưu Bị thu nạp được rồng và cả Gia Cát Quân em ông trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).
Vào khoảng năm 200, hai thế lực lớn là Tào Tháo và Viên Thiệu giao chiến ở trận Quan Độ, ban đầu Lưu Bị phục vụ cho Viên Thiệu, nhưng sau lại ngầm tìm cách bỏ đi về phía Nam. Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu, xua quân truy kích Lưu Bị, lực lượng mà Tào Tháo tỏ ra lo ngại. Lưu Bị chạy đến nương nhờ Lưu Biểu, người đang cai quản Kinh Châu. Lưu Biểu tiếp đãi Lưu Bị trọng hậu, cho thêm quân, sai đóng quân ở huyện Tân Dã, hào kiệt Kinh châu theo về rất đông.
Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến nhà Tư Mã Huy bàn việc thiên hạ. Huy đáp: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt hai người, đó là Ngọa Long và Phượng Sồ. Ngọa Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sĩ Nguyên. Có được một trong 2 người đó thì có thể định được thiên hạ". Lưu Bị nói rằng hãy đưa người đó đến gặp, Tư Mã Huy khuyên Lưu Bị nên tới nhà Gia Cát Lượng để gặp.[12] Một nhân vật khác nhận được sự kính trọng từ Lưu Bị là Từ Thứ đã tiến cử Gia Cát Lượng cho Lưu Bị, gọi Gia Cát Lượng là con rồng nằm. Lưu Bị đã 3 lần đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp. Gia Cát Lượng đã trình bày Long Trung đối sách, được Lưu Bị khen hay. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.[12]
Sách "Ngụy Lược" thì viết rằng Gia Cát Lượng tự đến làm khách ở chỗ Lưu Bị, nhưng chỉ được xem như một thư sinh bình thường. Một hôm, Lượng cố ý ở lại cuối cùng sau khi gia khách đã về hết, nhưng vẫn không được Bị để ý gì đến. Sau khi Lượng chủ động thưa chuyện với Lưu Bị thì Bị mới nhận ra tài năng, và trọng dụng Lượng.[12] Các sử gia xem xét sự trái ngược của hai cách nói trong 2 bộ sử và kết luận rằng: cả hai sự kiện đều có thể là đúng, với trình tự là Gia Cát sớm đến chỗ Lưu Bị trước, nhưng chưa thực sự được Lưu Bị coi trọng nên ông trở về. Sau đó Lưu Bị nhận ra tài năng thực thụ của Khổng Minh, bèn hạ mình 3 lần tới lều tranh tìm gặp.[13]
Lưu Bị từ đó càng đối đãi thân tình với Gia Cát Lượng, điều đó khiến Quan Vũ, Trương Phi không hài lòng. Lưu Bị mới giải thích: "Có được Khổng Minh, như cá gặp nước vậy. Các em chớ nên nhiều lời." Quan Vũ, Trương Phi đành phải chịu.[12][14]
Người đời sau có thơ khen việc Lưu Bị 3 lần hạ mình tới cầu kiến người hiền tài để dựng nên cơ nghiệp 50 năm của nhà Thục Hán:
“ | Giặc Hán rành chia bận cõi lòng Đường đường Hoàng thúc tới lều tranh Ai hay một chốc lời tâm sự Được giang sơn chẵn năm chục tròn |
” |
Tháng 8 năm 208, quân Tào áp sát Kinh châu. Lưu Biểu ốm chết, trước lúc chết phó thác việc nước cho Lưu Bị, Bị từ chối. Con út Lưu Biểu là Lưu Tông được lập lên kế vị, quyết định đầu hàng Tào Tháo. Lúc ấy Lưu Bị đóng quân ở Phàn Thành, lúc nghe quân Tào đến Uyển Thành, bèn dẫn quân rời đi. Qua Tương Dương, Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị đánh Lưu Tông để thu Kinh Châu, nhưng Lưu Bị đã khước từ lời đề nghị ấy, nói rằng: Ta chẳng nhẫn tâm làm vậy.[15]
Lúc quân Lưu Bị rời đi, nhiều thuộc hạ của Lưu Biểu đi theo Lưu Bị, khi đến Tương Dương, dân chúng kéo theo hơn chục vạn người. Biết mình quân ít không thể chống nổi đại quân Tào, Lưu Bị chia làm 2 đường: Quan Vũ dẫn thủy quân chạy về Giang Hạ để hợp binh với Lưu Kỳ, Bị đi cùng Gia Cát Lượng, Từ Thứ, Triệu Vân, Trương Phi dẫn theo cả gia quyến theo đường bộ chạy đến Giang Lăng.
Dân lánh nạn đi theo có đến hơn mười vạn người, xe chở hành lý lớn nhỏ chen cả lối đi, mỗi ngày hành quân không được 10 dặm đường. Tào Tháo sai Tào Thuần dẫn quân khinh kỵ đuổi gấp, bắt kịp Lưu Bị ở Đương Dương - Trường Bản. Lưu Bị bỏ lại vợ con cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi và Triệu Vân phải chạy cùng vài chục quân kỵ. Hai con gái của Lưu Bị và mẹ già của Từ Thứ bị quân Tào bắt.[16]
Lưu Bị chạy rẽ sang Hán Tân, vừa hay gặp được thuyền của Quan Vũ, qua sông Miện, hội với con trưởng của Lưu Biểu là Kì rồi cùng đến Hạ Khẩu.[17]
Lưu Bị rút về phương Nam, đóng ở Hạ Khẩu, Lỗ Túc bên Đông Ngô tới gặp, khuyên liên minh với Tôn Quyền. Gia Cát Lượng nói với Lưu Bị: "Việc rất đã gấp, xin được phụng mệnh nhờ Tôn tướng quân cứu giúp". Bị đồng ý để Lượng theo Túc đi Giang Đông. Trong Xuất sư biểu có nhắc đến việc này: "Sau này ngẫm lại, nhận việc trước lúc bại quân, phụng mệnh giữa lúc nguy nan".
Tôn Quyền mặc áo vải thô, tiếp sứ giả ở doanh trại dựng tạm.[19] Gia Cát Lượng giỏi xét người, mới đến cửa đã đoán được cá tính của Quyền, nên ông dùng kế khích tướng, cường điệu uy thế của Tào Tháo và khuyên Tôn Quyền quy phục.[20] Quyền hỏi: "Nếu như lời ông, sao Lưu Dự Châu không hàng Tào đi?" Lượng đáp: "Điền Hoành chỉ là 1 tráng sĩ nước Tề còn không chịu nhục, huống chi Lưu Dự Châu vốn là dòng vương thất, anh tài cái thế. Nếu việc chẳng xong là bởi ý trời, sao có thể hàng Tào!"[21]
Tôn Quyền nói rõ quyết tâm chống Tào, nhưng vẫn nghi ngại không đánh nổi, hỏi rằng: "Dự Châu (Lưu Bị) cũng mới thua trận, sao có thể chống nổi nạn này?"
Gia Cát Lượng bèn đưa ra phân tích tình thế và thực lực của Tháo và Bị:
Lượng nói tiếp rằng nếu phá được Tào Tháo sẽ lập thành được thế chân vạc, "cơ hội thành bại, là việc ở hôm nay vậy". Quyền hài lòng, đồng ý liên minh.[26]
Tuy nhiên, Bùi Tùng Chi chú giải Tam quốc chí cho rằng người đầu tiên khuyên Tôn Quyền đánh Tào là Lỗ Túc, sau đó Chu Du đã thuyết phục được Quyền hạ quyết tâm từ trước khi Gia Cát Lượng tới[27] Có lẽ Tôn Quyền chỉ muốn thử nghe phân tích của Lượng để quyết định có nên liên minh với Lưu Bị hay không, còn chuyện chống Tào thì đã quyết từ trước.
Tam quốc chí chép:[28] Tào Tháo gửi thư chiêu hàng Tôn Quyền, Quyền gọi quần thần dưới trướng đến hỏi kế sách. Đa phần đều cho rằng nên hàng, bởi Tháo mang danh Thiên Tử nay lại được thủy quân Kinh Châu, lợi thế của Trường Giang đã không còn. Chu Du không đồng ý, cho rằng Tào Tháo "giả danh tướng nhà Hán, kỳ thực là giặc nhà Hán", còn Tôn Quyền "thừa kế cơ nghiệp cha anh, binh hùng tướng mạnh, phải vì nhà Hán diệt trừ kẻ bạo tàn", đồng thời phân tích ra 4 điều kỵ trong binh pháp mà Tào Tháo đang phạm phải:[28]
Chu Du tiếp tục: "Du này xin được cấp ba vạn tinh binh, tiến đến đóng giữ Hạ Khẩu, bảo đảm sẽ vì Tướng quân mà phá tan quân giặc."[28]
Tôn Quyền nghe Chu Du phân tích xong, nói "Ngươi nói rất hợp ý cô, thực là trời đem ngươi đến cho ta vậy!",[28] rồi chụp lấy thanh đao chém đứt góc bàn, nói: "Ai còn dám nói đến chuyện đón rước Tháo, sẽ như cái bàn này."[29]
Kết thúc buổi chầu, Chu Du lại vào thưa về thực lực đôi bên để Tôn Quyền khỏi lo lắng:[30]
Tôn Quyền vỗ vai Chu Du nói "Khanh nói rất hợp lòng Cô". Trước mắt không tập hợp nổi 50.000 người, Chu Du lĩnh 30.000 binh cùng Trình Phổ đi đối địch Tào Tháo ở Xích Bích.[30]
Theo Trần Văn Đức, tác giả sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện (thuộc thể loại Tam Quốc ngoại truyện), thì những trao đổi trên giữa Chu Du và Tôn Quyền cho thấy do Chu Du có thiên tài vạch sách lược chiến đấu, lại liên tục ở chiến trường nên thông tin tình báo của ông rất phong phú và chính xác, các quan viên tướng lĩnh của Đông Ngô ở Sài Tang đều không bằng, Gia Cát Lượng dẫu chú trọng việc tình báo cũng không thể nắm rõ tình hình bằng Chu Du.[31]
Đại thần của Ngô là Trương Chiêu thấy Gia Cát Lượng trẻ tuổi và có tài, có ý muốn lôi kéo, bèn đề nghị Tôn Quyền lệnh cho Gia Cát Cẩn đến thuyết phục Gia Cát Lượng. Tôn Quyền bèn cho gọi Gia Cát Cẩn bảo rằng: "Gia Cát Khổng Minh là em của tiên sinh, là người có tài, em nghe theo anh là lẽ đương nhiên nếu ông ta muốn ở lại cùng lo đại sự, ta sẽ tự tay viết thư nói rõ với Lưu Dự Châu".
Gia Cát Cẩn đến gặp Gia Cát Lượng, không ngờ Gia Cát Lượng lại nói trước, khuyên Gia Cát Cẩn theo về với Lưu Bị sẽ càng phát huy được khả năng. Gia Cát Cẩn không nài ép được, đành trở về báo cáo với Tôn Quyền: "Em tôi phụ tá Lưu Dự Châu, vì nghĩa chẳng thể hai lòng, Lượng không chịu ở Đông Ngô, cũng như Cẩn không thể rời Giang Đông vậy".
Trong trận Xích Bích, Chu Du thống lĩnh quân liên minh, dùng kế hỏa công của Hoàng Cái đánh bại quân Tào. Và trong trận Giang Lăng (208-209) tiếp sau đó, liên quân Tôn - Lưu do Chu Du và Lưu Bị dẫn đầu tiếp tục khiến Tào Nhân phải tháo chạy khỏi Nam Quận sau hơn một năm trời vây hãm. Trong hai trận chiến này, Gia Cát Lượng không được ghi chép về thành tích cầm quân nào, vai trò của ông chỉ là về ngoại giao và nội chính.
Tác giả Trần Văn Đức trong sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện cho rằng Chu Du là người khiêm tốn, bao dung[32] và Gia Cát Lượng có lẽ đã học được nhiều kinh nghiệm ở Chu Du và Lỗ Túc[32], bởi khi trận Xích Bích diễn ra thì Chu Du 34 tuổi, Lỗ Túc 37 tuổi, họ đã có 15 năm kinh nghiệm chính trị và thực tế chiến trường, trong khi Gia Cát Lượng khi đó mới 27 tuổi và mới chỉ tham gia chính sự được 1 năm.[33]
Sau khi trở về với Lưu Bị, Gia Cát Lượng sau khi quan sát tình thế toàn cục, đã đề nghị Lưu Bị ngầm bố trí lực lượng khác với sắp xếp của Chu Du. Ông cho rằng Chu Du chỉ giao cho Lưu Bị nhiệm vụ thứ yếu (chặn đánh tàn quân Tào Tháo), sau này nếu có thắng lợi cũng không thu được gì nhiều. Ông cho rằng không cần phải cố sức đánh quân Tào Tháo rút chạy để không tổn hại binh sĩ của mình, cần giữ gìn thực lực để làm những công việc cần thiết sau đó. Tuy nhiên, theo các ghi chép trong chính sử thì lực lượng của Lưu Bị cũng bị tổn hại nhiều trong trận Giang Lăng: Quan Vũ được Lưu Bị biệt phái mang quân lên phía Bắc nhằm chia cắt liên lạc giữa Thượng Giang và Giang Lăng, chặn đường rút lui của Tào Nhân, nhưng liên tiếp bị Thái thú Nhữ Nam là Lý Thông, tướng giữ Tương Dương là Nhạc Tiến đánh bại, còn bị Văn Sính dùng thủy binh đuổi đánh, bị đốt sạch thuyền và quân nhu, mất hết thủy quân Giang Hạ.[34]
Gia Cát Lượng cho rằng Giang Lăng là mục tiêu rất quan trọng song cũng là điều mấu chốt mà Tào Tháo và Chu Du cùng quan tâm, bởi thế nên khích lệ Chu Du đem toàn lực đoạt lại Giang Lăng để đôi bên cùng hao tổn binh lực, còn mục tiêu thực của Lưu Bị là chớp thời cơ bình định các quận phía nam Kinh Châu giáp Trường Giang, để tự mình có một địa bàn đứng chân và khôi phục được Kinh Châu sau này. Lưu Bị chấp thuận làm theo.
Trong thời gian Lưu Bị và Trương Phi cùng hiệp trợ tác chiến với Đông Ngô ở phía bắc trong hội chiến Giang Lăng, Gia Cát Lượng dẫn quân sĩ cùng Quan Vũ và Triệu Vân, phối hợp với quân Giang Hạ của Lưu Kỳ, lấy các quận phía nam làm đại bản doanh, bình định bốn quận là: Vũ Lăng, Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng.
Sau cuộc chiến Xích Bích và Giang Lăng, Đông Ngô giành được đại thắng, chiếm được Giang Lăng, Nam Quận - vị trí chiến lược quan trọng nhất của Kinh Châu. Còn Lưu Bị nhân cơ hội thâu tóm bốn quận ở phía nam, chẳng những hồi sinh sự nghiệp mà còn có được cơ sở rất quan trọng để sau này tranh thiên hạ. Gia Cát Lượng có thành công lớn nhất là tham mưu sách lược chiếm lấy bốn quận nam Kinh Châu, có thể nói là táo bạo và rất thành công.
Tuy nhiên, bốn quận này chỉ có thể giải quyết vấn đề nhân lực và kinh tế cho Lưu Bị, chứ không có vai trò chiến lược trong việc thi hành Long Trung sách. Vì vậy, Lưu Bị và Gia Cát Lượng phải sử dụng nhiều nỗ lực ngoại giao để mượn huyện Giang Lăng của Tôn Quyền. Nhưng phải đợi đến sau khi Chu Du mất (210), Lỗ Túc - người rất coi trọng liên minh Tôn - Lưu lên thay, Tôn Quyền mới nghe theo lời Lỗ Túc (khiến Tào Tháo thêm kẻ thù, mượn sức Lưu Bị đỡ gánh nặng phía tây của Giang Đông), đồng ý cho Lưu Bị mượn Giang Lăng, hay còn gọi là "mượn Kinh Châu" [35].
Tuy nhiên, việc Lưu Bị công ít, lợi nhiều và Quan Vũ ỷ được giao giữ Kinh châu mà hay hống hách với Đông Ngô dẫn đến rạn nứt quan hệ liên minh với nước này. 12 năm sau, khi Lỗ Túc mất, không còn ai chủ hòa, Tôn Quyền sai Lã Mông đánh úp lấy Kinh Châu, giết chết Quan Vũ.
Gia Cát Lượng được phong Trung lang tướng, giao cai quản Linh Lăng, Quế Dương và Trường Sa, thu thuế và lương thực để chu cấp cho quân đội. Theo sách lược của Gia Cát Lượng, các quận huyện và tướng lĩnh phía nam Kinh Châu, cùng tuyên thệ ủng hộ Lưu Bị kế nhiệm chức Kinh Châu mục. Vai trò của Gia Cát Lượng lúc này giống như thừa tướng Tiêu Hà giúp Lưu Bang lo liệu tích trữ lương thảo, đáp ứng nhu cầu của quân đội.
Gia Cát Lượng nhìn thấy phái phản Tào ở Kinh Châu như rắn không đầu, bèn có ý nhắc Lưu Bị đối đãi thật tốt với Lưu Kỳ, để Lưu Kỳ làm vây cánh cho mình. Để làm cho thực lực của Lưu Bị mạnh lên, Gia Cát Lượng đã vận dụng sách lược tích lũy, ông sớm đề nghị với Lưu Bị sắp xếp lại dân di cư, xây dựng lực lượng cơ bản. Với tình thế Kinh Châu lúc ấy đã làm tăng thêm danh tiếng của Lưu Bị ở Kinh Châu. Ở giai đoạn này, biểu hiện "lấy nhu khắc cương, lấy nhược khắc cường" của Lưu Bị chính là công lao của quân sư Gia Cát Lượng.
Năm 211, Lưu Chương mời Lưu Bị vào Tây Xuyên giúp chống Trương Lỗ, Gia Cát Lượng được giao ở lại Kinh Châu cùng Quan Vũ và Trương Phi.
Năm 212, Lưu Bị đánh úp Lưu Chương, chiếm đánh thành trì ở Thục. Trương Phi, Triệu Vân và Gia Cát Lượng được lệnh dẫn quân vào Xuyên tiếp ứng. Tuy nhiên quân sư Bàng Thống bị trúng tên lạc mà chết.
Năm 214, Mã Siêu bỏ rơi vợ con, từ chỗ Trương Lỗ chạy đến theo Lưu Bị. Bị phái Siêu đến tham gia vây Thành Đô. Quân dân trong thành rúng động, Lưu Chương xin hàng.
Cánh quân của Gia Cát Lượng không giao chiến trận nào lớn trong chiến dịch này.
Trần Thọ trong Tam Quốc Chí viết rằng:
Theo Dịch Trung Thiên, chức vụ Gia Cát Lượng lúc này là "Tổng lý đại thần" hay "Đại quản gia" trong phủ Tả tướng quân của Lưu Bị, không phải là "Tổng tư lệnh ba quân" hay "Tổng tham mưu trưởng". Nhiệm vụ chủ yếu của ông là là hành chính, dân chính, không phụ trách kế hoạch quân sự, khi Lưu Bị xuất chinh thì ông được giao trấn thủ Thành Đô, lo việc cai trị dân chúng. Trần Thọ nhận xét lúc này với Lưu Bị thì "Gia Cát Lượng là thân thích, Pháp Chính là mưu chủ, Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu là nang vuốt"[37]
Trong cương vị thừa tướng, Gia Cát Lượng đã dốc tâm điều hành công việc quản lý. Gia Cát Lượng khi thấy Tưởng Uyển làm việc sơ ý, có nói với Lưu Bị: "Việc chính sự lấy yên dân làm gốc, không lấy trang sức làm đầu".
Đối với việc cầm quyền, ông hiểu rõ chỗ nào thì cần khoan dung, chỗ nào thì cần dùng luật nghiêm khắc. Sách Tư trị thông giám có ghi rằng: "Gia Cát Lượng phụ tá Lưu Bị cai quản đất Thục pháp lệnh rất nghiêm, tầng lớp thế gia quan liêu đặc quyền ở Ích Châu chịu không nổi thường vẫn oán thán". Khi Pháp Chính khuyên ông nên học theo Hán Cao tổ (giảm bớt hình phạt cho giới quyền quý), ông trả lời:[36]
Bùi Tùng Chi không cho lời nói này là có tồn tại, vì lúc đó Lưu Bị còn sống, Gia Cát Lượng dù là người thân tín cũng không qua mặt Lưu Bị tự ý định ra pháp luật thưởng phạt. Đồng thời người dẫn ra đoạn đối thoại vừa trên là Quách Xung lại còn chê Lượng "khắc nghiệt", "bóc lột", đấy là nhận xét rất phi lý vì Gia Cát Lượng là người chấp pháp nghiêm minh, dùng hình luật khéo léo.[38] Tuy nhiên Dịch Trung Thiên cho rằng có người phàn nàn Gia Cát Lượng quá nghiêm là đúng sự thật, họ chỉ chê Gia Cát Lượng quá nghiêm chứ không hề chê Gia Cát Lượng chấp pháp không công bằng.
Gia Cát Lượng quan tâm đến đời sống nhân dân ở đất Thục, nên sau 3 năm, Ích Châu đã đủ lương, đủ lính, có thể cung ứng đầy đủ cho nhu cầu tiền tuyến của Lưu Bị. Để ổn định tài chính, Gia Cát Lượng cho đúc tiền mới, bình ổn vật giá, lập ra quan chợ chuyên quản lý thị trường. Trước kia, Tào Tháo đúc tiền lớn "Ngũ thù" vẫn chẳng thể cứu vãn được tình hình tiên tệ rối loạn từ cuối thời Đông Hán. Ở Đông Ngô, Tôn Quyền vào khoảng năm 236 đến năm 238 đã hai lần thay đổi đồng tiền, cho thấy tiền tệ cũng rất không ổn định. Lưu Bị sau khi chiếm được Ích Châu, cho đúc tiền 100 đồng, cũng chưa có biến đổi gì xáo trộn, cho thấy cách xử lý của Gia Cát Lượng về vấn đề này thành công hơn 2 nước kia. Tiền tệ của nước Thục, chẳng những được lưu thông trong nước mà ở vùng Kinh Châu lúc đó cũng lưu hành tiền tệ của Thục Hán. Được Gia Cát Lượng cố gắng điều hành, sự phát triển kinh tế của Thục Hán lúc đó được xem là khá thành công. Viên Chuẩn đời Tấn đối với việc này có khen rằng "Việc điều hành của Gia Cát Lượng ở Thục đã đem lại ruộng đất mở mang, kho lương sung túc, khí giới sắc bén, sản vật dồi dào... từ chỗ suy yếu mà sửa sang được mọi việc, khuyên khích dân cố gắng"[39].
Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyên bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến thua trận Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.
Lưu Bị thua trận, hổ thẹn với nhân dân mà mắc bệnh nặng. Trước khi chết, ông đã ủy thác việc nước cho Gia Cát Lượng. Di chiếu của Lưu Bị nhắc nhở Thái tử Lưu Thiện rằng[40]:
Lúc lâm chung, Lưu Bị cho gọi Lỗ vương (một người con thứ) đến dặn nhỏ rằng: "Sau khi ta mất, anh em chúng mày phải coi Thừa tướng như cha, lệnh cho ngươi làm cộng sự giúp cho Thừa tướng mà thôi."[40] Ông dặn Gia Cát Lượng rằng:[41] "Tài thừa tướng gấp mười Tào Phi, tất yên định được nhà nước, làm nên việc lớn. Đối với con trẫm (Lưu Thiện), nếu có thể giúp được thì giúp, nếu nó bất tài, hãy tự thay đi!" Gia Cát Lượng nghe vậy khóc mà quỳ xuống tâu rằng: "Thần xin dốc sức làm tay chân, theo đúng lẽ trung trinh, nguyện chết không đổi vậy".
Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi, Gia Cát Lượng nắm quyền lực thừa tướng, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Lưu Thiện nói với ông: Chính là họ Gia Cát đã cứu quả nhân.[40]
Ngay sau đó, Gia Cát Lượng nỗ lực xây dựng liên minh Đông Ngô - Thục Hán. Không ít đại thần Thục Hán phản đối vì Lưu Bị bệnh mất là do bại trận trước Đông Ngô. Song Gia Cát Lượng biết rằng đại cục khôi phục lại nhà Hán là quan trọng nhất. Nếu như muốn có lực lượng đầy đủ đối chọi được Tào Ngụy ở phương Bắc thì phải xây dựng sự ổn định và trạng thái hoà bình ở phía Đông, việc liên minh với Ngô là điều tuyệt đối cần thiết. Vì vậy Gia Cát Lượng đã cho Đặng Chi và sau đó là Phí Y sang hòa hiếu với Tôn Quyền, các nhiệm vụ ngoại giao đều rất thành công, liên minh Thục - Ngô được khôi phục và củng cố.
Năm 229, Tôn Quyền xưng đế. Nhiều đại thần Thục Hán giận dữ muốn cắt quan hệ với Đông Ngô. Tuy nhiên Gia Cát Lượng đã giải thích là liên minh Thục - Ngô rất cần thiết để cùng chống Tào Ngụy, đồng thời bản thân Tôn Quyền không có khả năng một mình vượt ra khỏi phạm vi chiếm đóng của mình mà chỉ xưng đế cai quản một góc thiên hạ. Do vậy, hành động "tiếm nghịch" của Tôn Quyền tạm thời có thể bỏ qua được. Sau đó Thục Hán đã cử sứ giả sang Ngô để chúc mừng Tôn Quyền.
Về đối nội, Gia Cát Lượng xác định kế sách, chú trọng khuyến nông, giảm thuế cho dân và phát triển sản xuất:
Trong khi Lưu Bị chinh chiến, Gia Cát Lượng chủ yếu là một chính khách, đại sứ, và lo chuyện kinh tế, pháp luật và hậu cần, ít khi ra trận tác chiến. Trong suốt chiến dịch Hán Trung, Lưu Bị thống lĩnh đại quân cùng các tướng lĩnh giao chiến với quân Tào, còn Gia Cát Lượng ở lại Thành Đô lo chuyện nội chính và hậu cần. Tuy nhiên, sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng bắt đầu phải lo cả chuyện quân sự.
Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước thì vùng Nam Trung phía tây nam nước Thục Hán nổi loạn. Tuy dân ở đây đa phần là những tộc người thiểu số, những kẻ cầm đầu lại chủ yếu là người Hán.
Thời Lưu Bị mới chiếm được Ích Châu đã bổ nhiệm Đặng Phương (người Nam Quận) làm Thái thú ở Chu Đề. Phương ốm chết, Bị bổ nhiệm Lý Khôi làm Thứ sử Giao Châu. Lưu Bị đông chinh đánh Ngô, "tẩu soái" là Cao Định ở Việt Huề làm phản, lẩn tránh quân của Lý Nghiêm.[42]
Khi Lưu Bị chết, Cao Định lại lộng hành, đánh phá thành trì, xưng vương ở Việt Huề. Cường hào ở Ích Châu là Ung Khải (hậu duệ Hợp hương hầu Ung Xỉ) cũng dấy binh nổi dậy ở Kiến Ninh, giết chết thái thú. Gia Cát Lượng phái Trương Duệ thay chức thái thú, nhưng cũng bị Ung Khải bắt được, đem nộp sang Đông Ngô. Tôn Quyền sai Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp phong Khải làm Thái thú Vĩnh Xương.[42]
Gia Cát Lượng sai Đặng Chi đi sứ Đông Ngô, cắt đứt ngoại viện của Ung Khải, lại sai Thường Phòng đi khôi phục quyền cai trị Nam Trung. Phòng tra khảo rồi giết quan chủ bạ quận Tang Ca, nói Thái thú Tang Ca là Chu Bao có ý hưởng ứng Ung Khải. Chu Bao giết Thường Phòng, vu cáo Phòng mưu phản. Gia Cát Lượng "thí tốt" cho giết gia quyến của Thường Phòng, lưu đày 4 người anh em của Phòng đến Việt Huề.[42]
Ung Khải liên minh với Cao Định, tấn công Vĩnh Xương. Lã Khải[43] đóng cửa thành chống cự. Ung Khải không đánh được, thấy thế yếu dần, liên hệ với Đầu mục ở quận Ích Châu là Mạnh Hoạch. Hoạch kích động người Di, khiến họ đi theo Ung Khải, nổi dậy khắp vùng Nam Trung.[42]
Gia Cát Lượng phải đem quân xuống phía nam để thu phục. Mã Trung theo đường mòn Tứ Xuyên dẫn quân đánh Chu Bao ở Tang Ca. Lý Khôi đánh Ung Khải và Mạnh Hoạch. Gia Cát Lượng tự đi sau, hợp quân ở Điền Trì. Tuy nhiên, tướng lĩnh và binh lực huy động không lớn. Thực tế, việc đánh bại quân phản loạn thiếu tổ chức chẳng khó gì.[42] Quân Thục với số đông và quân đội chính quy nhanh chóng áp đảo, và không lâu sau đã đánh bại Chu Bao. Ung Khải bị thuộc hạ Cao Định giết, còn Cao Định sau đó tử trận. Mạnh Hoạch dẫn tàn dư của Ung Khải chạy về Ích Châu, kết hợp với các bộ lạc phía Nam vốn thù hận người Hán.[42]
Nhận thấy uy tín và ảnh hưởng sâu rộng của Mạnh Hoạch ở vùng Nam Trung và vì muốn giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa các dân tộc thiểu số vùng này với triều đình Thục Hán nên Gia Cát Lượng quyết định đánh vào lòng người, coi đó là chiến thuật chủ đạo. Gia Cát Lượng không thực hiện sự nghiêm khắc như trước, trái lại vận dụng một chính sách khoan dung "vô tiền khoáng hậu" trong lịch sử Trung Quốc.
Theo lời Mã Tốc, ông hạ lệnh khi đánh nhau với Mạnh Hoạch, quân Thục chỉ được phép bắt sống, không được giết chết hoặc làm Mạnh Hoạch bị thương.[44] Mạnh Hoạch bị bắt rồi Gia Cát Lượng lại thả ra, cứ như vậy lặp đi lặp lại đến 7 lần. Nghệ thuật tác chiến chính trị, tâm lý của Gia Cát Lượng thể hiện rõ rệt trong chiến dịch này. Cuối cùng Mạnh Hoạch tâm phục khẩu phục, hoàn toàn chịu thần phục triều Thục Hán. Đến lần thứ 7, khi Gia Cát Lượng định thả Mạnh Hoạch thì Mạnh Hoạch không chịu về vì ông ta nhận thấy Gia Cát Lượng quả thật là con người phi thường và trong thâm tâm không có ý thù địch với mình. Mạnh Hoạch thành tâm nói với Gia Cát Lượng rằng: "Thừa tướng có uy như trời vậy, người Nam không phản lại nữa".
Sau khi Mạnh Hoạch chịu thần phục thì các thế lực phản loạn ở miền Nam cũng nhanh chóng lần lượt quy hàng. Mùa thu năm 225, ba cánh quân Đông, Tây và Trung hội quân ở Điền Trì (Vân Nam) ăn mừng thắng lợi của cuộc Nam tiến và giai thoại bảy lần bắt bảy lần thả được truyền trụng.[44]
Sau một thời gian chuẩn bị, căn cứ vào tình hình hiện tại, năm 227, Gia Cát Lượng quyết định tấn công Tào Ngụy, tiêu diệt họ Tào, giành lại giang sơn cho nhà Hán. Ông tấu lên Hán Hậu chủ Lưu Thiện bản Xuất sư biểu nổi tiếng, trong đó nói rằng:
Hậu chủ Lưu Thiện chấp thuận, giáng chiếu: "Gia Cát thừa tướng cương nghị trung trinh, dốc lòng vì nước, (vì thế) Tiên đế trao việc thiên hạ, phù trợ quả nhân. Nay ban cho mao việt, cùng với phó thác trọng quyền, thống lĩnh bộ kỵ hai mươi vạn binh, nắm giữ nguyên nhung, thay trời tru phạt, trừ hoạn dẹp loạn, chiếm lại kinh đô, chính là dịp này"[47]
Lúc này, trong số các danh tướng của Thục Hán thì Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung đều đã chết, còn Triệu Vân thì đã già. Vì binh lực Thục Hán có hạn, vì vậy Gia Cát Lượng chọn sách lược tấn công thận trọng. Tướng Ngụy Diên hiến kế: cho ông ta dẫn 5000 tinh binh và 5000 lính vận lương, từ Hán Trung vòng sang hang Tý Ngọ để lẻn đến tập kích Trường An. Tam Quốc Chí (Ngụy Diên truyện) viết: mỗi lần Diên theo Lượng ra quân đều xin riêng một vạn tinh binh, men theo đường hẻm để hội quân với Lượng ở Đồng Quan, như việc năm xưa của Hàn Tín. Lượng nhất định không cho, Diên vẫn thường nói Lượng nhút nhát, than thở rằng tài năng của mình không được dùng hết.
Lịch sử sau này cho thấy một số đội quân khác cũng dùng kế xuất quân từ Tí Ngọ giống như Ngụy Diên, và tất cả đều thất bại. Năm 230, Tào Chân cũng theo đường Tí Ngọ để tấn công Thục Hán, nhưng mất một tháng cũng chưa đi được nửa quãng đường, cho thấy việc Ngụy Diên dự tính "chỉ khoảng 10 ngày là tới được Trường An" là hoàn toàn sai. Năm 354, Hoàn Ôn sai thứ sử Lương Châu là Tư Mã Huân từ Hán Trung theo đường Tí Ngọ để đánh quân Tiền Tần từ phía sau, nhưng chưa ra khỏi Tí Ngọ thì đã bị 7.000 kỵ binh quân Tần đột kích đánh bại. Năm 1636, Sấm vương Cao Nghênh Tường cũng theo đường này để tiến đánh Tây An, nhưng nhanh chóng bị tướng nhà Minh là Tôn Truyền Đình phát hiện và phục kích đánh bại. Các ví dụ này cho thấy việc Gia Cát Lượng từ chối kế của Ngụy Diên là hoàn toàn đúng đắn, bởi kế sách này không chỉ rủi ro cực cao mà còn là bất khả thi trong thực tế[48]
Khi xưa, Mạnh Đạt sợ Lưu Bị bắt tội, chạy sang đầu hàng Ngụy vào năm 220, và được giao cai quản Tân Thành. Năm 227, Mạnh Đạt bất hòa với một số quan binh nhà Ngụy, bị nghi ngờ, lại muốn phản Ngụy về Thục.
Gia Cát Lượng sắp đem quân ra Kỳ Sơn, trao đổi thư từ với Mạnh Đạt, hối thúc Đạt làm phản chiếm lấy Thượng Dung. Tư Mã Ý đóng ở Uyển Thành gần đó viết thư lừa Mạnh Đạt, rồi hành quân gấp rút tới Tân Thành. Mạnh Đạt còn chưa kịp chuẩn bị, nhanh chóng bị bắt giết.
Dù âm mưu dùng Mạnh Đạt đã bị phá vỡ, mùa xuân năm 228, Gia Cát Lượng vẫn xuất quân. Lão tướng Triệu Vân cùng Đặng Chi được giao đi theo đường Tà Cốc ra My Thành làm nghi binh, trong khi đó Gia Cát Lượng tự mình dẫn quân chủ lực tiến ra Kỳ Sơn.
Trước tin đại quân Thục Hán tiến đánh, ba quận thuộc đất Lũng Hữu là Thiên Thủy, Nam An, An Định liền phản Ngụy theo Hán. Gia Cát Lượng được Khương Duy, một viên tướng trẻ của Ngụy.
Tào Duệ thân chinh từ Lạc Dương ra Trường An, sai đại tướng Trương Hợp đi Kỳ Sơn chống Gia Cát Lượng, và Tào Chân chi viện My Thành chống Triệu Vân.
Gia Cát Lượng sai Mã Tốc làm tiên phong, dẫn quân chặn Trương Hợp ở Nhai Đình. Mã Tốc vốn là thân tín của Lượng, cũng đọc nhiều binh thư nhưng thiếu kinh nghiệm trận mạc, trong khi Trương Hợp là danh tướng lâu năm của nhà Ngụy. Đến Nhai Đình, Mã Tốc làm ngược lại với phương án chỉ huy của Gia Cát Lượng. Mã Tốc không đóng quân ở nơi đường cái, gần sông là chỗ có nước cho quân dùng, mà lại mang quân trấn giữ trên núi với phương án "Trên núi đánh xuống, thế như chẻ tre". Vương Bình nhiều lần phản đối, nhưng Mã Tốc không nghe[49]. Quả nhiên khi bị quân Ngụy chặn đường lấy nước, quân Thục đại bại nhanh chóng. Trương Hợp nhân đà tiến quân tái chiếm cả ba quận thuộc đất Lũng Hữu. Triệu Vân và Đặng Chi chỉ có ít quân già yếu làm nghi binh nên cũng phải rút khi bị Tào Chân tấn công.
Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng bị mất bàn đạp tấn công, lỡ mất cơ hội đánh chiếm Lũng Hữu, đại quân Thục không thể tiến nữa buộc phải lui về Hán Trung. Chiến dịch của Thục Hán đến đây coi như kết thúc. Quân Thục Hán thu phục Khương Duy và giành được dân của 3 quận, nhưng không đạt mục tiêu chính. Gia Cát Lượng ra lệnh rút quân và xử tội Mã Tốc, đồng thời xin tự giáng chức xuống 3 bậc thành Hữu tướng quân, đứng dưới cả Lý Nghiêm (đã lên Tiền tướng quân vào năm 226).
Về nguyên nhân thất bại, có người an ủi cho rằng nguyên do xuất quân lần này gặp bất lợi là do binh lực quá ít. Gia Cát Lượng đã nghiêm túc trả lời rằng: Không đúng như vậy, vì trong hai trận đánh ở Kỳ Sơn và Tà Cốc, quân Thục nhiều hơn quân Ngụy, nguyên nhân thất bại chính là do bản thân ông dùng người không đúng. Gia Cát Lượng nói rằng từ sau này sẽ thưởng phạt nghiêm minh, khắc phục thiếu sót, và bất kỳ ai trung thành với đất nước đều có quyền vạch khuyết điểm của ông, có như vậy mới tiêu diệt được kẻ thù thống nhất được thiên hạ.
Tháng 12 năm 228, nhân cơ hội Lục Tốn của Đông Ngô đánh bại quân của Tào Hưu ở Thạch Bình, Gia Cát Lượng liền tổ chức cuộc Bắc phạt lần thứ hai. Trước khi xuất chinh, ông dâng lên bản Hậu xuất sư biểu, thể hiện quyết tâm hết lòng hết sức của Gia Cát Lượng vì nhà Thục Hán mặc dù việc thành bại của Bắc phạt bản thân ông không thể định đoạt. Bài biểu có hai câu nói nổi tiếng sau này đã trở thành biểu tượng cho tấm lòng trung thành của Gia Cát Lượng với nhà Thục Hán nói riêng và của các bậc trung thần với triều đình phong kiến nói chung:
“ | Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi.[50] | ” |
Gia Cát Lượng quyết định tiến quân theo đường Trần Thương. Tuy nhiên, đại tướng Ngụy là Tào Chân đã đoán trước được Gia Cát Lượng lần sau đến đánh sẽ đi đường này, và giao cho Hác Chiêu tăng cường phòng thủ ải Trần Thương. Gia Cát Lượng bị bất ngờ trước sự phòng thủ kiên cố của quân Ngụy.
Dụ hàng Hác Chiêu không được, Gia Cát quyết tâm đánh thành. Thế nhưng cửa ải rất vững chắc, trong suốt 20 ngày, quân Thục với quân số lên đến 40.000 - 50.000 vẫn không thể công phá được. Hác Chiêu chỉ với 1000 quân đã giữ vững được đến khi viện binh của nhà Ngụy tới cứu.
Trương Hợp dự đoán rằng chỉ cần nghe tin mình đến, Gia Cát Lượng sẽ rút quân, và quả thực quân Thục rút lui trước khi viện binh của Trương Hợp đến Trần Thương. Tiểu tướng trong ải Trần Thương là Vương Song mở cửa đuổi theo quân Thục, bị phục binh bắn chết.
Mùa xuân năm 229, Gia Cát Lượng phái Trần Thức đi đánh các vùng xa xôi ở Tây Bắc của nhà Ngụy. Tướng Ngụy Quách Hoài dẫn binh đối địch, nghe tin đại quân của Thục sắp đến thì rút lui. Trần Thức đánh lấy được hai quận là Vũ Đô và Dương Bình.
Gia Cát Lượng chiếm được hai quận liền thu quân, báo tin thắng trận, được Hậu chủ phục chức Thừa Tướng.
Năm 230, nhà Ngụy muốn thay đổi tình thế từ bị động sang chủ động tấn công. Đại tướng Tào Chân cùng Tư Mã Ý dẫn 2 cánh quân tấn công Hán Trung. Số người ở đạo quân Tào Chân vượt quá 5 vạn, Tư Mã Ý cũng có 3-4 vạn, quân Quách Hoài do các đạo quân nhỏ của các tướng lĩnh hợp thành số người cũng có 1-2 vạn người.
Chiến dịch của quân Tào thất bại do trời mưa liên miên suốt hơn 30 ngày, đường núi bị đứt đoạn. Tào Duệ hạ lệnh thu quân, Gia Cát Lượng cũng không đuổi theo, hai bên không giao tranh gì. Tào Chân trên đường về bị mưa, ốm chết.
Cuối năm 230, quân Thục do Ngụy Diên dẫn đầu giao tranh với quân Ngụy do Phí Diệu và Quách Hoài chỉ huy. Quân Thục thắng trận.
Năm 231, Gia Cát Lượng thống lĩnh đại binh ra Kỳ Sơn lần thứ 2, tiến hành cuộc Bắc phạt lần thứ tư.
Quân Thục lần này dùng xe trâu (trâu gỗ, ngựa máy) vận chuyển quân lương. Về phía nhà Ngụy, Tào Chân đã bị bệnh chết nên Tư Mã Ý làm thống soái, các tướng lĩnh Phí Diệu, Đới Lăng, Quách Hoài làm tiên phong. Đây là lần đầu tiên Gia Cát và Tư Mã đối đầu nhau, cũng là lần đầu Tư Mã Ý cầm đại quân tham gia chiến tranh.
Gia Cát Lượng chia quân ở lại Kỳ Sơn, còn mình đến Thiên Thủy lén gặt lúa. Tư Mã Ý cũng dẫn quân đến Thiên Thủy, Gia Cát Lượng không chủ quan khinh địch, ra lệnh cho quân lính chiếm cứ vùng rừng núi hiểm trở, bố trí trận địa sẵn sàng. Đại quân hai bên đối mặt nhau nhưng vẫn chưa xảy ra giao tranh.
Gia Cát Lượng rút lui về phía Kỳ Sơn nhằm lôi kéo quân Ngụy ra đánh. Tư Mã Ý cho quân đuổi theo nhưng vẫn đề phòng cẩn thận, khi quân Thục dừng lại thì họ cũng dừng lại. Lúc này nhiều tướng Ngụy cho rằng Tư Mã Ý nhát gan. Bị các tướng thúc ép, Ý phải tung quân giao chiến. Tư Mã Ý đích thân dẫn quân đi, một cánh khác do Trương Hợp thống lĩnh đánh vào phía Nam của quân Thục ở Kỳ Sơn. Gia Cát Lượng sai Ngụy Diên, Ngô Ban, Cao Tường ra nghênh địch. Quân Ngụy bị thua to, quân Thục khi thu dọn chiến trường đã đếm được hơn 3000 thủ cấp, 500 bộ giáp và cung nỏ. Ý rút quân về Thiên Thủy, cố thủ không ra đánh.
Tháng 6 năm 231, mưa to khiến việc vận tải lương thực rất khó khăn. Quân Thục phải rút lui vì hết lương ăn. Trương Cáp dẫn quân đuổi theo đến Mộc Môn thì bị phục kích bắn chết.
Bốn lần Bắc phạt phải rút giữa chừng vì khó khăn trong cung ứng lương thực. Song Gia Cát Lượng liên tục đối trận với những danh tướng bậc nhất Tào Ngụy như Tào Chân, Trương Cáp và Tư Mã Ý, đặc biệt là sau khi đánh bại Tư Mã Ý và giết chết Trương Cáp, Gia Cát Lượng càng tin vào khả năng đánh bại Tào Ngụy.
Để cải thiện vấn đề tải lương, ông đã cải tiến thêm một bước trâu gỗ ngựa máy, đồng thời cho khai khẩn với quy mô lớn ở Hoàng Sa (tỉnh Thiểm Tây), thao luyện việc vận tải bằng trâu gỗ ngựa máy ở Bạch Mã Sơn vùng Cảnh Cốc (tỉnh Tứ Xuyên), lại cho xây dựng ở Tà Cốc kho lương lớn chưa từng thấy, để hoàn chỉnh chuẩn bị bắc phạt. Liền hai năm, đại bộ phận thời gian của Gia Cát Lượng vẫn ở Hán Trung để luyện binh giảng võ, khuyên quân cầy cấy.
Năm 234, sau mấy năm chuẩn bị, Gia Cát Lượng tiếp tục mang 10 vạn quân đánh Ngụy lần thứ năm. Lần này quân Thục đi theo đường Tà Cốc đến huyện My, cắm trại tại đồng bằng Ngũ Trượng phía nam sông Vị Thủy. Ngũ Trượng ngày nay thuộc huyện Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây, là một vùng gò đồi thấp, chất đất phì nhiêu thích hợp trồng trọt lương thực. Gia Cát Lượng lựa chọn vùng đất này là nhằm có thể trồng cấy lương thực tại chỗ, dự liệu cho việc tác chiến trường kỳ. Ông cũng giữ nghiêm quân kỷ, tuyệt đối cấm việc chiếm đoạt của cải và thóc lúa của dân chúng. Vì vậy quân Thục và dân cày trong vùng tương đối hòa thuận, không xảy ra xung đột gì.
Tuy quân Tào Ngụy chiếm ưu thế về quân số, song sau mấy lần bị quân Thục Hán đánh bại ở chiến trường, tướng Trương Cáp tử trận, nên Tư Mã Ý cho rằng tiến hành giao chiến lớn thì sẽ bất lợi. Tư Mã Ý biết quân Thục gặp khó khăn về tiếp tế lương thảo, nên vẫn sử dụng chiến thuật cố thủ không ra đánh. Gia Cát Lượng sai quân sĩ đến dưới chân thành mắng nhiếc nhằm chọc tức Tư Mã Ý, nhưng ông ta tiếp tục án binh bất động dù nhiều lần bị khiêu chiến.
Gia Cát Lượng gửi vào trong thành một bộ áo quần phụ nữ kèm theo một bức thư với nội dung: "Trọng Đạt chui rúc trong thành không giám ra nghênh chiến, thì có khác chi đàn bà, nếu muốn xưng danh là người quân tử và còn biết liêm sỉ, thì hãy ra ngoài thành đọ tài cao thấp, nếu không thì hãy mặc bộ quần áo này vào". Các tướng Ngụy tức điên. Để làm dịu các tướng lĩnh, Tư Mã Ý vờ xin Tào Duệ cho phép tấn công quân Thục. Tào Duệ biết ý, phái người tới chỗ Tư Mã Ý thuyết phục tướng sĩ bình tĩnh.
Gia Cát Lượng cho lính làm ruộng để có lương thực đánh trường kỳ, một mặt vẫn liên tục khiêu khích quân Ngụy, nhưng Tư Mã Ý tiếp tục án binh bất động. Quân Ngụy kiên quyết cố thủ không đánh đã đưa Gia Cát Lượng vào thế giằng co không thể tiến triển được.
Gia Cát Lượng lo lắng vì quân Ngụy không chịu xuất trận, lại làm việc rất vất vả, dậy sớm thức khuya, việc xử án phạt 20 gậy trở lên đều tự mình xét hỏi cẩn thận nên sức khỏe mỗi ngày mỗi sút kém.
Tháng 8 năm 234, Gia Cát Lượng sinh bệnh nặng. Vua Thục Hán là Lưu Thiện phái Thượng thư Lý Phúc, ngày đêm phóng đến tiền tuyến gò Ngũ Trượng thăm hỏi bệnh tình của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng nằm trên giường bệnh dặn dò Lý Phúc: trước mắt sự nghiệp bắc phạt chưa thành công, hy vọng đại thần triều đình vẫn một lòng như cũ, tận tâm phò tá Lưu Thiện, kế tục hoàn thành sự nghiệp phục hưng nhà Hán mà mình chưa hoàn thành được. Lại yêu cầu Lý Phúc chuyển lời cho nhà vua rằng: sau khi ông ta mất không cần đưa về Thành Đô chôn cất, cứ an táng ở núi Định Quân tại tiền tuyến là được, để tượng trưng chí hướng "da ngựa bọc thây chết ở sa trường". Lý Phúc thảy đều ghi nhớ lời di chúc của Gia Cát Lượng, liền mau chóng trở về Thành Đô báo cáo lại với Lưu Thiện.
Cuối tháng 8 năm Kiến Hưng thứ 12 (tức năm 234), Gia Cát Lượng bệnh mất ngay trong chiến dịch Bắc Phạt lần thứ 6, thọ 54 tuổi; kể từ khi ông ra khỏi lều cỏ Long Trung đã trải qua 27 năm, ở chức vụ Thừa tướng Thục Hán được 14 năm. Cuốn "Tấn Dương thu" của Tôn Thịnh đời Đông Tấn có chép: "Truyền thuyết kể rằng vào hôm Gia Cát Khổng Minh từ trần, ở trên khoảng trời phía bắc, có một ngôi sao đỏ rất lớn, từ phía đông bắc theo hướng tây nam chợt loé sáng rồi tắt đi..."[51]
Trước khi qua bệnh qua đời, Gia Cát Lượng dặn dò Khương Duy đoạn hậu Ngụy Diên. Khi đại tướng Ngụy là Tư Mã Ý được tin Gia Cát Lượng đã chết, liền hạ lệnh cho quân Ngụy tấn công. Tuy nhiên Dương Nghi đã làm theo mưu kế của Gia Cát Lượng là quay cờ về phía sau, dóng chuông đánh trống đàng hoàng tiến quân, làm cho Tư Mã Ý với bản tính đa nghi tưởng rằng Gia Cát Lượng vấn chưa chết. Tư Mã Ý sợ rằng Gia Cát Lượng chỉ giả chết để lừa mình, ngay lập tức vội vàng cho quân quay về doanh trại cố thủ. Việc Tư Mã Ý phải bỏ chạy trước một Gia Cát Lượng đã chết khiến người dân truyền tụng câu truyện cười: "Gia Cát chết vẫn dọa được Trọng Đạt sống" (死諸葛嚇走活仲達). Khi Tư Mã Ý biết việc này, ông cười và nói: "Ta có thể chiến đấu với người sống, chứ không phải người chết."[52] Nhờ kế này của Gia Cát Lượng, quân Thục mới an toàn rút về Hán Trung.
5 lần Gia Cát Lượng bắc phạt, tuy đánh thắng một số trận, giành thêm được dân tại 4 quận phía Tây, nhưng nhìn chung là không đạt mục tiêu đề ra.[53] Theo Dịch Trung Thiên, có 3 nguyên nhân dẫn đến việc Bắc phạt thất bại của Thục Hán và Gia Cát Lượng:[54]
Dịch Trung Thiên cho rằng bản thân Gia Cát Lượng có lẽ cũng nhận ra các vấn đề này, nhưng ông vẫn quyết tâm Bắc phạt để "lấy công để thủ", "quấy bên ngoài để giữ yên bên trong", bởi Thục Hán đất hẹp ít dân hơn Tào Ngụy, nếu ngồi yên thì chẳng khác nào đợi diệt vong, còn nếu tấn công thì ít ra vẫn có cơ hội thắng. Trong Xuất sư biểu, Gia Cát Lượng cũng đã chỉ rõ rằng trong Tam quốc thì nước Thục Hán có tiềm lực lãnh thổ, dân số ít nhất, do đó không thể thỏa mãn với cục diện yên ổn tạm thời mà phải cố tiến công giành thêm lãnh thổ. Vương Phu Chi cho rằng quyết tâm Bắc phạt chính là sự nhìn xa trông rộng của Gia Cát Lượng.
Hậu chủ Lưu Thiện nghe tin Gia Cát Lượng đã mất, đau đớn khóc lóc không thôi, lại xuống chiếu truy tặng ấn thụ Vũ Hương hầu, cùng dựa vào phẩm đức và công tích của Gia Cát Lượng lúc sống, đặt tên Thụy là Trung Vũ hầu (忠武侯).
Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung theo đúng di nguyện. Mộ phần tựa vào núi, chỉ đủ chứa quan tài, liệm bằng quần áo bình thường, không chôn theo tài sản gì. Chiếu thư do vua Thục Hán ban tặng viết rằng:
Ngay sau khi Gia Cát Lượng chết, mâu thuẫn tranh chấp binh quyền xảy ra giữa đại tướng Ngụy Diên và thân tín của Lượng là Dương Nghi. Tam quốc chí có chép: "Gia Cát Lượng rất tiếc tài cán của Dương Nghi, cũng rất xem trọng sự dũng mãnh của Ngụy Diên, thường hận hai người bất bình với nhau, không nỡ bỏ một người". Trước lúc lâm chung, Gia Cát Lượng yêu cầu Khương Duy, Phí Vỹ giúp đỡ Dương Nghi chỉ huy việc rút quân. Ngụy Diên muốn tiếp tục ở lại chiến đấu nên không tuân lệnh Dương Nghi, hạ lệnh cho quân đoàn của mình sớm rút về phía nam Tà Cốc, không muốn làm việc chặn hậu cho toàn quân. Dương Nghi cáo buộc Ngụy Diên âm mưu tạo phản. Các quan văn như Tưởng Uyển, Phí Y, đều ủng hộ Dương Nghi.
Ngụy Diên muốn giết Dương Nghi nên dàn quân ngăn cản đường về của đoàn quân Thục Hán. Dương Nghi hạ lệnh cho Vương Bình đang chỉ huy hậu quân đến đánh Ngụy Diên. Vương Bình chọn sách lược "tiên lễ hậu binh", phân người ước hẹn với Ngụy Diên đối trận ở cửa Nam Cốc, đầu tiên chỉ tiến hành đàm phán. Ông ta nói với Ngụy Diên và quân lính rằng: "Thừa tướng vừa mới mất, thi thể còn chưa lạnh, các ông cuối cùng không nghĩ đến ân nghĩa lại muốn tạo phản ư?". Các tướng lĩnh quân Ngụy Diên nghe Vương Bình diễn thuyết, tinh thần lập tức tan rã, đại đa số quân sĩ không đánh mà rút khỏi cửa Nam Cốc. Ngụy Diên sau khi đại bại dẫn vợ con và một số người thân tín chạy trốn vào vùng núi Hán Trung để lánh nạn, Dương Nghi hạ lệnh cho Mã Đại dẫn quân tìm bắt, không lâu đã bắt được Ngụy Diên cùng gia nhân, Dương Nghi hạ lệnh cùng đem đi xử trảm. Nhà Thục mất đi danh tướng cuối cùng ở thời Lưu Bị.
Tưởng Uyển là người được chọn để kế nhiệm Gia Cát, Dương Nghi bất mãn phỉ báng triều đình, bị bãi chức rồi tự sát trong ngục. Tưởng Uyển nắm quyền, duy trì các chính sách đối nội của Gia Cát Lượng, nhưng bãi bỏ chính sách phát động chiến tranh chống lại nhà Tào Ngụy, và rút hầu như toàn độ quân đội đồn trú ở thành trì trọng điểm giáp biên giới với Ngụy là Hán Trung về Phù huyện. Từ thời điểm đó, Thục nhìn chung là ở thế phòng ngự và không còn đe dọa đến Ngụy nữa.
Tưởng Uyển ốm, giao việc cho Phí Y và Đổng Doãn. Sau khi Tưởng Uyển mất, Phí Y kế nhiệm, bắt đầu sai Khương Duy quấy rối biên giới với Tào Ngụy bằng những vụ đột kích mang tính chu kỳ, nhưng chưa bao giờ cho phép Duy thực hiện những cuộc tấn công lớn. Năm 244, khi nhiếp chính của nước Tào Ngụy là Tào Sảng (con Tào Chân) tấn công Hán Trung. Phí Y chỉ huy quân đội chống lại Tào Sảng và đại thắng, quân số Tào Ngụy thiệt hại gần một nửa, dẫn đến sự diệt vong sau này của Tào Sảng.
Phí Y có năng lực, chỉ buổi sáng đã làm hết việc, chiều thường mở tiệc chiêu đãi các quan lại trong triều tại tư gia. Trong một bữa tiệc như vậy, Quách Tuần (郭循), một hàng tướng của Tào Ngụy do Khương Duy đem về, đâm chết Phí Y. Từ đó binh quyền rơi vào tay Khương Duy còn triều chính rơi vào tay hoạn quan Hoàng Hạo.
Không còn bị Phí Y kềm chế, Khương Duy khôi phục chính sách Bắc phạt của Gia Cát Lượng. Tổng cộng Duy tiến hành 9 chiến dịch tấn công Tào Ngụy, đa phần thất bại nặng nề. Các tướng Ngụy như Quách Hoài, Đặng Ngải, Trần Thái thành công trong việc ngăn chặn các cuộc tấn công của quân Thục. Nước Thục Hán vốn nhỏ hơn Ngụy, vì Khương Duy tấn công không thành nên hao tổn nhân lực và tài nguyên nghiêm trọng, triều chính thì bị hoạn quan thao túng, tham nhũng tràn lan, nhà Thục Hán bắt đầu suy tàn.
Một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất của Khương Duy là việc phá bỏ hệ thống trại phòng thủ ở Hán Trung do Gia Cát Lượng theo Kinh Dịch lập nên. Ba mươi năm sau khi Gia Cát Lượng mất, năm 264 SCN, quân Ngụy do Đặng Ngải và Chung Hội thống lĩnh tấn công nước Thục Hán, Hán Trung nhanh chóng thất thủ. Trong khi Khương Duy chặn được Chung Hội ở Kiếm Các, Đăng Ngải lẻn qua Âm Bình sơn - một vùng núi non hiểm trở mà quân Thục không phòng bị. Con và cháu nội của Gia Cát Lượng là Gia Cát Chiêm và Gia Cát Thượng đều tử trận khi chiến đấu bảo vệ thành Miên Trúc. Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy. Khương Duy bày kế kích động tướng Ngụy là Chung Hội làm phản để tái lập Thục Hán nhưng thất bại, Khương Duy bị giết và nước Thục diệt vong.
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, mối quan hệ giữa nhân vật Gia Cát Lượng và nhân vật Lưu Bị được ví như "cá với nước", Lượng nói gì Bị nghe nấy. Còn đối với Lưu Thiện thì nhân vật Gia Cát Lượng "hết lòng phò tá", được xem như cha nuôi... Trên thực tế thì Lưu Bị với Gia Cát Lượng đúng là "kính trọng như khách", Lưu Thiện thì ca ngợi "họ Gia Cát đã cứu quả nhân", nhưng mối quan hệ quân thần giữa họ cũng có những vấn đề phức tạp.
Theo Dịch Trung Thiên, sau giai đoạn gắn bó ban đầu, giữa Gia Cát Lượng và Lưu Bị sau trận Xích Bích lại trở nên ít gắn bó hơn:
Sau này, Gia Cát Lượng không dùng một số người mà Lưu Bị tin cậy; lại sử dụng người Lưu Bị từng cảnh báo là không nên dùng:
Sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng mới được "khai phủ" thừa tướng, ngoài ra còn kiêm luôn Ích Châu mục. Nước Thục Hán và Ích Châu gần như là một (Thục Hán chỉ có vỏn vẹn châu Ích và Hán Trung), việc Gia Cát Lượng vừa là Thừa tướng Thục Hán (trực tiếp quản lý quan lại) vừa là Ích Châu mục (trực tiếp quản lý dân chúng) cho thấy ông nắm trọn quyền hành (vừa trực tiếp quản "quan" lẫn "dân"). Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện ghi: "chính sự dù to nhỏ, do Lượng giải quyết tất", Hậu chủ truyện ghi Lưu Thiện nói: "chính, do họ Cát; tế, do quả nhân" (nghĩa là mọi việc quan trọng do gia Cát Lượng xử lý, còn Lưu Thiện chỉ là vua trên danh nghĩa).[63]
Lưu Bị vốn "gửi con" để Gia Cát Lượng phò tá, giúp đỡ Lưu Thiện. Gia Cát Lượng hết lòng tận tụy vì việc nước, tự mình xử lý mọi việc, chưa bao giờ trao lại quyền điều hành cho Lưu Thiện. Thục Hán không đặt chức quan ghi sử, khiến người sau không biết chuyện gì xảy ra trong triều.[63] Gia Cát Lượng kèm cặp, dạy bảo Lưu Thiện rất nghiêm, lên ngôi năm 17 tuổi đến khi 29 tuổi Lưu Thiện mới ra khỏi cung lần đầu. Tam quốc chí - Hậu chủ truyện ghi: năm 236 Hậu chủ mới đi xem đập Đô Giang; Tư trị thông giám có ghi chú: không còn Gia Cát Lượng nên Lưu Thiện mới ra ngoài du ngoạn. Trong Xuất sư biểu, Gia Cát Lượng cũng dùng lời lẽ dạy bảo Lưu Thiện, mong ông noi gương tiên đế, hành xử đúng đạo lý[63] Bùi Tùng Chi cho rằng Gia Cát Lượng không trao quyền điều hành cho Lưu Thiện vì biết Lưu Thiện chưa quen chấp chính, còn Dịch Trung Thiên thì cho rằng có 3 nguyên nhân:
Sau khi Gia Cát Lượng chết, Lưu Thiện bãi bỏ chức vụ Thừa tướng, lấy lại thực quyền cho mình. Theo ghi chú của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện (dẫn Tương Dương ký), khắp nơi người người ở Thục đều yêu cầu lập miếu thờ thừa tướng, nhưng không được Lưu Thiện phê chuẩn, người dân phải "tự cúng tế riêng" khắp mọi nơi. Có người nói để "cúng ngoài đường", "tế ngoài đồng" không hợp lẽ, có thể lập miếu ở Thành Đô, nhưng "Hậu chủ vẫn không theo" vì như vậy là "bức tông miếu, khiến bụng thánh sinh nghi". Dư luận xôn xao, bất bình. Cuối cùng có quan dâng sớ đưa ra phương án "có thể chấp nhận được" với Lưu Thiện: cho lập miếu gần mộ (ở núi Định Quân), ra quy định chỉ được lập miếu cúng tế trước mộ (trên núi xa xôi ít người tới). Dịch Trung Thiên cho rằng điều này chứng tỏ Lưu Thiện không ưa Gia Cát Lượng, nguyên nhân là do Lưu Thiện luôn bị Gia Cát Lượng dạy bảo, kèm cặp quá sát sao nên cảm thấy không vui trong lòng[63]
Gia Cát Lượng là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Ông có tài năng trên rất nhiều lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, ngoại giao, pháp luật cho tới giáo dục, phong thủy, văn chương, phát minh kỹ thuật. Trong lịch sử thế giới, rất hiếm người có tài năng toàn diện trên khắp các lĩnh vực như ông.
Thời kì Tam Quốc có nhiều quân sư giỏi khác như Tuân Úc, Giả Hủ, Quách Gia, Pháp Chính, Lỗ Túc... nhưng tài năng của họ cũng chỉ giới hạn ở một vài phương diện chứ không ai đa tài được như Gia Cát Lượng. Thậm chí cả về ngoại hình, Gia Cát Lượng cũng phi phàm hơn người, sử quan Trần Thọ mô tả Gia Cát Lượng "có khí anh bá, thân cao tám thước, dung mạo khôi vĩ khác hẳn người thường".
Tư Mã Huy nhận xét về Gia Cát Lượng như sau: "Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phượng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể bình định được thiên hạ". Người đời sau có câu: "Tam phân thiên hạ Gia Cát Lượng, Nhất thống sơn hà Lưu Bá Ôn", đế nói lên tài năng của ông.
Sau khi Thục Hán mất, Tấn vương Tư Mã Chiêu đã ra lệnh cho Trần Hiệp phải tìm kiếm tư liệu để học tập binh pháp của Gia Cát Lượng. Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm còn đích thân thỉnh giáo Phàn Kiến (một cựu đại thần của Thục Hán) về cách trị quốc của Gia Cát Lượng, ông còn cảm thán: "Nếu ta được Gia Cát Lượng phò tá, thì đâu có nhọc mệt như hôm nay". Như vậy, cả ba thế hệ họ Tư Mã kiến lập nhà Tấn, dù là đối thủ của Gia Cát Lượng song đều tán thưởng tài năng của ông, khuyến khích hậu thế noi gương. Nhà Tấn sau này còn truy phong miếu hiệu cho Gia Cát Lượng là "Võ Hưng Vương". Việc truy phong tước vị cho quan đại thần của triều đình đối thủ quả là điều rất hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc.
Theo Trần Văn Đức "Về quản lý thực tiễn, Gia Cát Lượng cơ hồ là người tài giỏi bậc nhất trong thời Tam quốc. Về nhân cách con người và kỹ xảo phát minh, ông đích xác rất đáng ca ngợi, đáng được xem là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc"[64]. Sở dĩ Gia Cát Lượng không thể đạt được ý nguyện phục hưng nhà Hán, chẳng phải vì ông điều hành nước Thục không hiệu quả, mà vì bản thân nước Thục có diện tích và dân số khá nhỏ so với Ngụy và Ngô, trong khi đó đối thủ (Tào Tháo, Tư Mã Ý, Tôn Quyền...) đều là những người có tài, cùng với đó là thời vận không được thuận lợi, nhiều kế hoạch của Gia Cát Lượng không thành vì những điều không may (Ngô bắt tay với Ngụy để đánh úp và giết Quan Vũ, Trương Phi bị ám sát, Lưu Bị vì quá đau xót đã không nghe lời can ngăn của ông mà đánh Ngô rồi thua to và ốm chết; người kế nhiệm Tưởng Uyển, Phí Y mất quá sớm, Vương Bình, Mã Trung, Đặng Chi đều mất sau Gia Cát Lượng không lâu)[64].
Về sau Nguyên Vi Chi có bài thơ ca ngợi rằng:
Về năng lực trị quốc, Gia Cát Lượng được đánh giá rất cao. Sử gia Trần Thọ trong Tam quốc chí ca ngợi và so sánh ông với Quản Trọng và Tiêu Hà:[65]
Gia Cát Lượng trị quốc theo phép, hành lệnh nghiêm chỉnh, chấp pháp như sơn. Các đại thần, công thần như Lý Nghiêm, Lai Mẫn, Liêu Lập, Hướng Lãng phạm tội đều bị trừng phạt nặng nề. Những đại thần cậy có uy thế mà hành động tranh quyền đoạt lợi, nhất là việc gây rối loạn quan hệ nội bộ, Gia Cát Lượng đặc biệt xử lý nghiêm khắc. Đối với những người có năng lực làm việc nhưng tính cách có tật xấu như Lưu Diễm, Trương Duệ, thì Gia Cát Lượng chọn cách nhắc nhở và cải tạo, cho cơ hội hối cải chuộc tội.[66]
Đối với gia quyến người phạm tội, Gia Cát Lượng không truy bức mà sẵn sàng bổ dụng nếu có tài. Lý Phong con trai Lý Nghiêm, được làm Giang Châu đốc quân, sau thăng làm Thái thú Chu Đề. Lúc Lý Nghiêm bị tội, Lý Phong bị điều về Thành Đô, mọi người đều cho rằng Phong sẽ bị phế truất, nhưng cuối cung Lý Phong vẫn được tập tước, được tham dự chính sự, lại còn được Gia Cát Lượng viết thư động viên, thăm hỏi khiến Phong rất cảm động. Hướng Sủng cháu của Hướng Lãng được Gia Cát Lượng đánh giá cao, bổ nhiệm chức Trung lĩnh quân, chủ trì cấm quân, tuyển chọn, giám sát các tướng lĩnh.[67]
Bởi vì chí công vô tư, cho nên những đại thần như Liêu Lập, Lý Nghiêm bị Gia Cát Lượng cách chức, phế làm dân thường nhưng vẫn không oán hận. Lý Nghiêm ngày thường vẫn hay nói sẽ có ngày được Gia Cát Lượng xá tội và trọng dụng lại, khi nghe tin Gia Cát Lượng chết thì cũng đau buồn sinh bệnh mà qua đời. Còn về Liêu Lập, nghe tin dữ khi đang bị đày ở Vấn Sơn đã nói: "Thừa tướng Gia Cát mất đi, thế là ta chết già ở đây thôi !" Trương Duệ ban đầu rất bất mãn Gia Cát Lượng nắm đại quyền ở Ích Châu, nhưng sau khi chứng kiến cách Gia Cát Lượng làm việc đã hoàn toàn cảm phục tài năng và nhân cách của ông.[68]
Chấp pháp nghiêm minh như vậy là đúng, nhưng không tránh khỏi có một số người bất mãn do bị xử phạt nghiêm. Bùi Tùng Chi ghi chú trong Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện, trích dẫn Thục ký có câu: "(Gia Cát) Lượng hình pháp gay gắt, hà khắc với bách tính, từ quân tử đến tiểu nhân mang bụng oán thán", nhiều người không tán thành ý kiến này, và nó cũng mâu thuẫn với câu "hình phạt tuy nghiêm khắc song dân gian không oán thán" của Trần Thọ. Nhà nghiên cứu Dịch Trung Thiên cho rằng cả hai cách nói thật ra đều đúng: Gia Cát Lượng thực thi pháp luật rất công chính - công khai, tức là công bằng, nên rất được lòng dân; dân chúng ở Thục không oán pháp luật không công bằng mà oán vì pháp luật "quá nghiêm" khiến họ không thể buông tuồng dễ dãi[69]
Tập Tạc Xỉ đời nhà Tấn (tác giả Tương Dương kỳ cựu ký) từng bình luận rằng:
Tuy nhiên Tập Tạc Xỉ cũng phê bình Gia Cát Lượng có những sai sót trong việc đánh giá thuộc cấp để giao việc cho họ theo đúng khả năng, có lúc thiếu khoan dung trước lỗi lầm của họ (cụ thể là việc giao Mã Tốc trấn thủ Nhai Đình nên thất bại, rồi sau đó xử chém Mã Tốc), và kết luận: "Gia Cát Lượng không thể kiêm thượng quốc vậy, há không phải sao?"[70]
Gia Cát Lượng nói rằng: "Đạo nhận biết nhân tài có 7 phương pháp: Thứ nhất, đặt họ trước việc phải trái để xem chí hướng. Thứ hai, dùng ngôn từ truy vấn họ để xem tài ứng biến. Thứ ba, tham vấn họ mưu kế để xem kiến thức. Thứ tư, để họ trước họa hoạn khó khăn để xem lòng dũng cảm. Thứ năm, chuốc rượu say để xem bản tính. Thứ sáu, cho họ cơ hội kiếm lợi ích tiền tài để xem sự liêm khiết. Thứ bảy, giao nhiệm vụ cho họ để xem chữ tín". Gia Cát Lượng còn sáng lập ra một cơ cấu gọi là "tham thự", ông giải thích rằng: "Tham thự là nơi để tập hợp ý kiến của đông đảo mọi người, mở rộng ích lợi của những lời trung". Tham thự chính là tiền thân của ban cố vấn cho các nguyên thủ quốc gia ngày nay, Gia Cát Lượng muốn thông qua "tham thự" để tiếp nhận ý kiến rộng rãi mọi mặt, sau đó xem xét đánh giá lợi hại, từ đó đặt ra chính sách, phương châm chính xác. Gia Cát Lượng còn nhấn mạnh rằng: "Đạo quản lý chính sự thì cốt yếu ở nghe nhiều mặt, tiếp thu ý kiến của đông đảo mọi người ở dưới, hỏi mưu kế từ quan lại cho đến thứ dân, như thế thì mọi sự việc đều làm sáng tỏ, mọi tiếng nói đều được ghi nhận". Quan niệm về sử dụng nhân tài của Gia Cát Lượng khá khách quan và toàn diện, do đó chính quyền Thục Hán đã tập hợp được khá nhiều nhân tài, trở thành một tập đoàn lãnh đạo mạnh.
Đại học giả Chu Hi thời nhà Tống bình luận:
Triệu Dực trong cuốn "Sử trát ký" có bình luận như sau: "Tào Tháo dùng người lấy quyền lực mà chế ngự, Lưu Bị thì lấy tính tình làm trọng còn Tôn Quyền thì lấy ý khí làm đầu. Lấy quyền thuật chế ngự thì trọng ở cái cốt yếu, lấy tính tình đê mà tụ họp thì trọng ở chữ chân thành, Gia Cát Lượng thì dùng người, trên tinh thần vận dụng sở trường của cả ba nhà đó". Vị hoàng đế nổi tiếng anh minh Đường Thái Tông nhận xét: nước Thục Hán thời Tam Quốc "10 năm không có đại xá mà dân Thục được cảm hóa sâu xa, là do hiền tướng Gia Cát Lượng rất chí công trong việc cai trị". Đường Thái Tông rất tôn sùng Gia Cát Lượng, trước quần thần ông tán thưởng Gia Cát Lượng là "đệ nhất thừa tướng", "là bậc đại công vô tư".[65]
Mạnh Hoạch, tướng người man bị Gia Cát Lượng bày kế bắt sống tới 7 lần, đã công nhận Gia Cát Lượng có khả năng cầm quân phi thường và nói rằng:
Long Trung đối sách do Gia Cát Lượng soạn thảo là chiến lược quân sự nổi tiếng nhất thời Tam Quốc. Gia Cát Lượng đã nhìn nhận chính xác rằng địa bàn Lưu Bị có thể giành được chỉ còn Kinh Châu và Ích Châu, vì khu vực phía Bắc và phía Đông đã bị Tào Tháo và Tôn Quyền chiếm cứ. Gia Cát Lượng cũng đưa ra các phân tích cùng với phương pháp để Lưu Bị đoạt được Kinh Châu và Ích Châu, phát triển thế lực. Theo Kimberly Ann Besio, chiến lược này cho thấy Gia Cát Lượng không chỉ tinh thông sách vở mà còn nắm rất rõ thời cuộc, nhận xét đúng đắn điểm mạnh, điểm yếu của từng lực lượng chính[72] Cơ đồ của nhà Thục Hán sau này, về cơ bản là được xây dựng đúng theo đường lối mà Gia Cát Lượng hoạch định trong Long Trung đối sách.
Việc đóng quân của Gia Cát Lượng rất bài bản, có doanh lũy, bếp giếng, nhà xí, rào tre, chòi canh gắn liền với nhau, chẳng những động viên được lực lượng cơ động rất thuận lợi mà khả năng phòng ngự cũng rất mạnh. Ở gò Ngũ Trượng, Tư Mã Ý đã nhìn thấy doanh lũy và công sự của quân Thục Hán còn lưu lại, phải thốt lên rằng: "Thật là thiên hạ kỳ tài vậy". Nhưng trong thư gửi em trai là Tư Mã Phu thì Tư Mã Ý bình luận (ghi trong "Tấn thư - Tuyên Đế kỷ"): "Lượng chí hướng lớn lao nhưng không nắm được thời cơ, mưu trí rất nhiều nhưng thiếu quyết đoán, thích dùng binh nhưng không biết quyền biến", tức là Gia Cát Lượng quá thận trọng, không thích mạo hiểm nên có những lúc bỏ lỡ thời cơ[54] Hai bình luận tưởng như mâu thuẫn nhưng thực ra không phải vậy. Trong thư gửi em trai, Tư Mã Ý phải chê bai Lượng là để trấn an gia đình cũng như giữ thể diện bản thân trước triều đình. Còn lời khen trên chiến trường cho thấy ông ta thực sự rất e sợ Gia Cát Lượng (sau này Tư Mã Ý khi lập mưu đảo chính nhà Tào Ngụy đã coi việc này dễ dàng hơn nhiều so với cầm quân chống Gia Cát Lượng, và "Tào Sảng so với Gia Cát Lượng chỉ như con dế dũi").
Sau chiến dịch Nam Trung năm 225, Gia Cát Lượng vừa để tận dụng sức chiến đấu của các dân tộc thiểu số miền Nam, vừa để làm giảm mâu thuẫn sắc tộc, đã tuyển lựa người Di để xây dựng đội quân tinh nhuệ mang tên Vô Đương phi quân. Đội quân này cùng với đội cấm vệ quân Bạch Nhĩ binh của Lưu Bị và quân đoàn kị binh Tây Lương của Mã Siêu trở thành 3 lực lượng tinh nhuệ của nhà Thục Hán. Sử sách Trung Quốc ghi lại chiến binh Vô Đương phi quân "thân mặc giáp sắt, có thể dời non vượt núi, giỏi dùng cung nỏ, tên độc, đặc biệt tinh nhuệ trong tác chiến phòng ngự". Đội quân này dùng nỏ liên châu do Gia Cát Lượng cải tiến, kết hợp với kĩ năng bắn nỏ thuần thục có thể đánh bại lực lượng địch đông gấp nhiều lần. Trong lần Bắc phạt thứ 4, Vô đương phi quân do Vương Bình chỉ huy đã lập chiến tích lớn, đánh bại đội quân Ngụy đông gấp 20 lần do tướng giỏi là Trương Cáp chỉ huy.
Trong tác chiến, Gia Cát Lượng đã sáng tạo ra Bát trận đồ dựa trên nguyên lý Bát quái với 8 cửa. Bát trận đồ có thể biến hóa khôn lường, làm quân địch rối loạn đội hình và mất phương hướng. Ngoài ra, bên trong Bát trận đồ còn có thể bố trí các loại vật liệu đặc biệt như gỗ, đá, hầm hào, hàng rào để tạo chướng ngại vật, ngăn cản kỵ binh địch tấn công, trong khi các đội bộ binh khi tản khi hợp rất linh hoạt để bao vây, tấn công địch. Trận đồ này chuyên dùng để khắc chế kỵ binh của địch, nhờ vậy quân Thục Hán chủ yếu là bộ binh mà vẫn có thể khắc chế ưu thế của kị binh Tào Nguỵ, đánh bại đối phương trong nhiều trận. Sau khi nhà Tấn nhất thống thiên hạ, chính Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm đã hạ lệnh truy tìm và thu thập "Bát trận chiến pháp" của Gia Cát Lượng về làm giáo trình huấn luyện quân đội, cho thấy năng lực quân sự của Lượng là rất cao.
Tới nhà Đường, Gia Cát Lượng đã được xem như "Quân thần", được rước vào Võ miếu - nơi thờ phụng những bậc đại kỳ tài quân sự như Khương Tử Nha, Tôn Tử, Trương Lương...
Sử gia Trần Thọ trong Tam quốc chí đánh giá rằng Gia Cát Lượng là người rất thận trọng, "Trị quân là sở trường, kỳ mưu là sở đoản; lo liệu việc dân hơn là lo liệu việc tướng", nghĩa là giỏi trị quân hơn là dùng quân, giỏi cai trị hơn là đánh trận[54][54][54] Tuy nhiên, nhiều học giả khác đã chỉ ra rằng: cha Trần Thọ từng bị Gia Cát Lượng xử tội, mặt khác Trần Thọ là quan nhà Tấn, mà người kiến lập nhà Tấn là Tư Mã Ý từng mấy lần thất bại trước Gia Cát Lượng, nên Trần Thọ đã cố ý đánh giá thấp tài quân sự của Gia Cát Lượng. Như Tấn thư của Phòng Huyền Linh ghi rằng: "Cha Thọ làm tham quân cho Mã Tốc, Tốc bị Gia Cát Lượng giết, cha Thọ cũng bị xử tội cắt tóc, Gia Cát Chiêm lại khinh Thọ. Thọ viết truyện về Lượng, bảo Lượng mưu lược không cao, không có tài ứng địch, bàn luận thì chỉ dựa vào sách vở, tiếng tăm vượt quá sự thực. Người bàn lấy đó để chê"[73]. Hoặc Lưu Tri Kỷ trong Sử thông, thiên Trực thư phê bình việc Trần Thọ không đề cập đến việc Tư Mã Ý bại trận khi tác chiến với Gia Cát Lượng, để giấu đi việc Gia Cát Lượng cầm quân trên tài Tư Mã Ý:
“ | Lúc Tuyên, Cảnh mới khai sáng cơ nghiệp, khi (họ) Tào và (họ) Tư Mã tranh giành, hoặc dựng doanh trại ở sông Vị, bị thua Vũ hầu (Gia Cát Lượng)... Trần Thọ, Vương Ẩn đều ngậm miệng không nói đến[74]. | ” |
Trong "Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc", nhà sử học Nga B. L. Riftin cũng cho rằng bộ sử của Trần Thọ có ý thiên vị cá nhân lộ liễu: Gia Cát Chiêm, con trai Gia Cát Lượng, từng nhận xét coi thường Trần Thọ, và Trần Thọ đã trả thù khi viết trong sử sách là: "Lượng chỉ biết đọc sách, tiếng tăm vượt quá thực tế". "Trị quân là sở trường, kỳ mưu là sở đoản; lo liệu việc dân hơn là lo liệu việc tướng", tính chất thiên vị và có ý hạ thấp Gia Cát Lượng trong lời đánh giá như vậy đã bị các tác giả Tấn thư (một bộ chính sử khác) chỉ trích[75]
Trong giai đoạn đầu nhà Thục Hán, Gia Cát Lượng chủ yếu là một chính khách, đại sứ, Lưu Bị giao cho ông quản lý kinh tế, pháp luật và hậu cần, ít khi ra trận tác chiến. Trong suốt chiến dịch Hán Trung, Lưu Bị đi cùng Pháp Chính các tướng lĩnh giao chiến với quân Tào, còn Gia Cát Lượng ở lại Thành Đô lo chuyện nội chính. Một số ý kiến cho rằng như vậy chứng tỏ Gia Cát Lượng thiếu khả năng quân sự. Nhưng thực ra không phải như vậy. Thứ nhất, Gia Cát Lượng là quân sư chiến lược, vai trò của ông là hoạch định chiến lược quân sự tại hậu phương (tiêu biểu là Long Trung đối sách) chứ không cần phải mạo hiểm tự xuất chinh như võ tướng (chỉ sau khi Lưu Bị và nhiều võ tướng qua đời, nhà Thục Hán thiếu nhân sự thì Lượng mới bắt buộc phải ra trận). Thứ hai, Gia Cát Lượng là người giỏi nội trị nhất của Thục Hán nên đương nhiên Lưu Bị phải bố trí ông ở hậu phương: việc đánh trận thì Lưu Bị có thể dùng Bàng Thống, Pháp Chính để thay thế, chứ việc nội trị thì không ai thay được Gia Cát Lượng (cũng như Tào Tháo khi đi đánh trận luôn để Tuân Úc ở lại hậu phương, dù Tuân Úc hoàn toàn có thể cầm quân đánh trận). Vì 2 lý do trên mà Lưu Bị khi còn sống ít khi bố trí Gia Cát Lượng xuất trận, đó là vì vai trò quá quan trọng của Lượng chứ không phải vì ông thiếu khả năng quân sự.
Một phân tích khác thì cho thấy tài binh lược của Gia Cát Khổng Minh vẫn cao hơn Tư Mã Ý. Trong cuộc Bắc phạt vào tháng 5/231, dù điều kiện bất lợi hơn (viễn chinh đường xa, quân ít hơn, lương thiếu), nhưng Gia Cát Lượng đã thắng Tư Mã Ý trong tất cả các ý đồ tác chiến: từ vây thành diệt viện cho đến dụ địch lùi sâu để mai phục, từ công tác tiếp vận đến duy trì sĩ khí, từ phản mai phục cho đến phản tập kích. Từ Thượng Khuê đến Kỳ Sơn; quân Thục đều đánh cho quân Ngụy bại trận. Quân Ngụy quân bại trận triệt để, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục "đóng cửa thủ vững". Thế cục này được duy trì đến khi Lý Nghiêm không hoàn thành nhiệm vụ vận tải, khiến Thục quân cạn lương buộc phải rút về. Và lần này, Khổng Minh rút lui vẫn đặt phục binh giết được tướng tài của Ngụy là Trương Cáp, khiến cho tổn thất của quân Ngụy lại càng nặng hơn. Sau này, Tư Mã Ý bị thuộc tướng chê bai là "sợ Thục như sợ cọp", bị Gia Cát Lượng sỉ nhục bằng việc gửi tặng quần áo đàn bà mà vẫn không chịu ra đánh, chính là vì ông ta biết mình không đọ nổi Gia Cát Lượng trên chiến trường.
Một số quan điểm dựa vào việc Gia Cát Lượng bắc phạt 5 lần vẫn không thành công để che bai, cho rằng tài năng quân sự của Lượng là không cao. Những quan điểm như vậy là không xác đáng, vì không xét đến hàng loạt những bất lợi rất lớn mà Gia Cát Lượng phải đối mặt: quân số của Tào Ngụy đông hơn gấp 3 lần, có lợi thế về kị binh, lại thủ sẵn trong thành lũy vững chắc[56], quân Thục Hán phải hành quân đường xa hiểm trở, thường bị thiếu lương do việc vận chuyển khó khăn[54] Với những khó khăn như vậy, những gì Gia Cát Lượng làm được (chiếm 5 quận, đánh thiệt hại nặng quân Ngụy) đã là rất thành công. Những quân sư, tướng lĩnh nổi tiếng khác thời Tam Quốc khi gặp những khó khăn như vậy đều chẳng thể làm được như Gia Cát Lượng, ví dụ như:
Trong cuốn sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện (thuộc thể loại Tam Quốc Ngoại Truyện), tác giả là Trần Văn Đức nhận xét rằng Gia Cát Lượng tuy không tới mức "xuất quỷ nhập thần" như truyền thuyết dân gian mô tả, song cũng có được nhiều chiến tích nổi trội, xứng đáng là nhà cầm quân bậc nhất thời Tam Quốc, ví dụ như: bình định Mạnh Hoạch chỉ trong thời gian ngắn, lập kế giết được tướng giỏi của Ngụy (Trương Cáp), mấy lần đánh bại Tư Mã Ý, khiến quân Ngụy hoang mang tới mức chỉ chọn sách lược cố thủ trong thành lũy chứ không dám kéo ra giao chiến với quân Thục Hán (dù quân Ngụy đông hơn), khiến nhiều tướng Ngụy phải cười mỉa rằng: "Tướng quân Tư Mã sợ quân Thục như sợ cọp, chẳng nhẽ không sợ thiên hạ cười chê hay sao?"[76]. Đến cả khi chết rồi, ông vẫn bày kế dọa được Tư Mã Ý phải bỏ chạy, cho thấy Tư Mã Ý dù đầy mưu mẹo nhưng vẫn rất kiêng dè khả năng bày mưu tính kế của Gia Cát Lượng.
Theo nhiều tác giả, trong cuộc chiến diệt Tào Ngụy, Gia Cát Lượng không đeo đuổi danh lợi, chỉ một ý chí đánh giặc diệt Ngụy, phục hưng nhà Hán, đặt sự hưng vong của quốc gia lên trên danh lợi và vinh nhục của cá nhân với tấm lòng tha thiết. Ông từng tuyên bố rằng: "Nếu như diệt được nước Ngụy, chém đầu Tào Duệ, đưa hoàng thượng về cố đô Lạc Dương thì đến lúc đó tôi cùng chư vị đồng liêu được thăng quan tấn tước, cho dù được thưởng mười loại báu vật tôi cũng xin nhận huống chi là cửu tích".[77]
Lúc sắp mất, Lưu Bị dặn Gia Cát Lượng rằng: "... nếu nó (Lưu Thiện) bất tài, hãy tự thay đi!", nghĩa là cho phép Lượng toàn quyền phế Lưu Thiện lập bản thân hoặc một người con khác của Lưu Bị. Ông đã từ chối ngay, muốn trọn đời là trung thần nhà Hán.
Khi Lưu Bị từ trần, Tào Phi hạ lệnh cho mấy danh sĩ của nước Ngụy trao đổi ý kiến chính trị với Gia Cát Lượng, bao gồm Tư đồ Hoa Hâm, Tư không Vương Lãng, Thượng thư Trần Quần, Thái sử Hứa Chi, Phó tạ Gia Cát Chương, muốn Gia Cát Lượng quy hàng nước Ngụy. Gia Cát Lượng chẳng hề dao động, viết một bức thư công khai trả lời, bày tỏ lập trường tận trung với nhà Hán của mình[78]:
Trong bài Tam Quốc diễn ca cuối tác phẩm, La Quán Trung có mấy câu tả về quyết tâm bắc phạt nhưng không thành của Gia Cát Lượng:
Nhà thơ Đỗ Phủ có bài thơ ca ngợi lòng trung thành của Gia Cát Lượng khi đến thăm đền thờ ông:
Hán Việt |
Dịch thơ |
Bạch Lạc Thiên cũng có thơ rằng
Hán Việt |
Dịch thơ |
Dù không thành công trong mục tiêu cuối cùng là thống nhất Trung Nguyên, khôi phục nhà Hán, nhưng sau hai nghìn năm, người dân Tứ Xuyên vẫn còn nhắc đến những thành tích trị quốc ở đất Thục của ông. Những danh nhân như Đỗ Phủ, Lý Bạch, Lý Thương Ẩn đều sùng bái ông, viên danh tướng là Nhạc Phi đã lừng danh "tận trung báo quốc", đều đã đọc kỹ bản viết Xuất sư biểu nổi tiếng của Gia Cát Lượng và cùng bày tỏ sự tôn sùng vô hạn đối với tài năng và lòng trung thành của ông.[79]
Gia Cát Lượng đã viết ra Xuất sư biểu gồm hai bài biểu, Tiền xuất sư biểu (前出師表) và Hậu xuất sư biểu (後出師表) để dâng lên Thục Hán Hậu chủ Lưu Thiện trước khi ông thân chinh dẫn quân đi Bắc phạt lần thứ nhất và lần thứ hai vào các năm 225 và 226. Trong hai bài biểu này, Gia Cát Lượng đã dùng những lời lẽ thống thiết từ tận đáy lòng để bày tỏ sự tận trung của mình với nhà Thục Hán và những lo lắng của ông cho sự an nguy của đất nước, với hai câu nói nổi tiếng thể hiện tâm nguyện của ông: "Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi"[50] Xuất sư biểu sau đó đã trở nên nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc như là đại diện xuất sắc của thể loại biểu và là biểu tượng cho tấm lòng của các bậc trung thần. Nhận xét về bài Hậu xuất sư biểu của Gia Cát Lượng, Tạ Phương Đắc thời Nam Tống trong tác phẩm Văn chương quỹ phạm đã viết: "Đọc Xuất sư biểu, ai không khóc là bất trung, đọc Trần tình biểu ai không khóc là bất hiếu, đọc Tế thập nhị lang văn ai không khóc là bất từ".[80]
Vị vua nổi tiếng nhất đời Thanh là hoàng đế Khang Hy đã nói rằng[81]:
Năm 2007, tạp chí Shukan Bunshun của Nhật có bài nghiên cứu về quan điểm của người dân Nhật Bản đối với 100 danh nhân nổi tiếng nhất thế giới. Kết quả, Gia Cát Lượng là vị danh nhân được người dân Nhật tôn sùng nhất. Người Nhật tôn sùng Gia Cát Lượng, không chỉ bởi ông có tài năng kiệt xuất, mà còn vì Gia Cát Lượng chính là một tấm gương về lòng trung thành, rất phù hợp với tinh thần võ sĩ đạo, truyền thống "tận trung vì Thiên Hoàng" của người Nhật Bản.
Con trai ông là Gia Cát Chiêm và cháu nội là Gia Cát Thượng kế thừa ý chí phục hưng Hán triều của ông, đã chiến đấu tới cùng và tử trận khi nhà Thục Hán sắp sụp đổ bởi kẻ thù. Bởi vậy, người đời sau có câu khen rằng "Gia Cát Vũ hầu, ba đời trung liệt". La Quán Trung có thơ khen rằng:
“ | Có phải trung thần kém mẹo đâu? Lòng trời không tựa vận Viêm Lưu! Mới hay con cháu nhà dòng dõi, Tiết nghĩa còn lưu tiếng Vũ hầu. |
” |
Người đời sau có thơ khen gia đình Gia Cát Lượng như sau:
“ | Gia Cát danh cao toàn vũ trụ, Trung nghĩa truyền gia thế vô song. Con cháu ba đời đều tuẫn tiết, Đất trời nhỏ lệ áng mây sầu. Cúc cung tận tụy cao khí tiết, |
” |
Tầng lớp quan liêu thế gia ở đất Thục thời Lưu Chương thích hưởng thụ lối sống xa hoa, khiến xã hội băng hoại đến cực điểm. Gia Cát Lượng quyết tâm ngăn chặn, ông lấy mình làm gương đặt ra điều luật. Trong "Giới tử thư", ông nhắc nhở con cái trong nhà:
Sau khi bình định được phương Nam, danh tiếng của Gia Cát Lượng đạt đến đỉnh cao. Lý Nghiêm bèn viết thư khuyến khích ông thu vén lợi ích riêng: "Nên nhận lễ phong cửu Tích đổi tước hiệu và xưng vương". Gia Cát Lượng chẳng những không nghe theo mà trả lời rất thẳng thắn rằng:
Gia Cát Lượng tự viết biểu tâu lên Hậu chủ Lưu Thiện rằng: "Nhà của thần ở Thành Đô có tám trăm gốc dâu, ruộng xấu mười lăm khoảng, việc ăn mặc của con cháu xem ra đầy đủ. Đến như thần gánh vác việc ở bên ngoài, cũng chẳng có gì khác người, cái ăn cái mặc đều trông vào cửa quan, chẳng chút tơ hào cho riêng mình, ấy là để lâu dài thước tấc vậy. Đến ngày thần mất, trong nhà chẳng có gấm vóc dư thừa, bên ngoài không có điền sản dôi dư, chính là để khỏi phụ lòng tin tưởng của Bệ hạ vậy". Sau này Gia Cát Lượng qua đời, quả đúng như lời đã nói.
Gia Cát Lượng di chúc rằng cứ an táng cho mình ở núi Định Quân tại tiền tuyến, không cần đưa về Thành Đô cử hành quốc táng để tránh lãng phí phô trương. Ông cũng di chúc rằng nghi thức tang lễ phải thật đơn giản, lấy núi làm mộ, có thể dùng quan tài loại thường cũng được, khi liệm chỉ cần dùng quần áo bình thường, không chôn theo vật quý.
Sự liêm khiết của Gia Cát Lượng tạo gương cho các quan lại nước Thục. Tể tướng Tưởng Uyển nhắc với con cái: "Thường nhắc nhở trong nhà nên ăn chay, mặc áo vải thô, ra ngoài không dùng xe ngựa". Tể tướng Phí Vĩ sau này, nhã nhặn khiêm nhường, nhà không tích chứa của cải, con cái mặc áo vải thô ăn cơm chay, không thích ngựa xe, chẳng khác dân thường. Đại tướng Khương Duy là tổng chỉ huy quân đội, nhà cửa cũng rất giản đơn, "trong nhà không có thiếp hầu, sau sân chẳng hề nghe thấy tiếng đàn hát". Còn Đặng Chi là nhà ngoại giao xuất sắc cũng chịu ảnh hưởng phong cách của Gia Cát Lượng, ông làm quan hơn 20 năm thưởng phạt nghiêm minh, chu cấp cho binh sĩ có khó khăn, sinh hoạt thường cần kiệm, khi ông ta mất gia cảnh rất thanh bần. Thanh liêm như vậy nên không khó hiểu tại sao nước Thục Hán mất mà người dân địa phương đến cả nghìn năm sau vẫn còn hoài niệm về Gia Cát thừa tướng.
Gia Cát Lượng là vị quan duy nhất thời Tam quốc được thờ tại Đế vương miếu (được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó có thờ 41 vị công thần được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại).
Sau khi Gia Cát Lượng mất, toàn dân Thục Hán rất đỗi thương tiếc, trăm họ tế cúng trong ngõ, người Nhung, Di tế cúng ngoài đồng nội. Tình hình này kéo dài suốt mấy chục năm không thôi. Trong bài biểu dâng lên vua Tấn vào năm Thái Thủy thứ 10 (272), Trần Thọ có nói: "Lê dân nghĩ nhớ, truyền tụng sự tích. Đến nay dân của hai châu Lương, Ích vẫn còn truyền kể chuyện về Lượng, lời như còn vẳng bên tai"[82] Tôn Tiền đời nhà Đường ghi rằng:
Trên đất Trung Hoa, nhân dân rất nhiều nơi đã lập đền thờ để tưởng nhớ Gia Cát Lượng, trong đó nổi tiếng nhất là đền thờ ở huyện Miễn, dưới chân núi Định Quân (nơi an táng Gia Cát Lượng), sau đó đến miếu Vũ Hầu ở Thành Đô, miếu Vũ Hầu ở thành Bạch Đế, huyện Phụng Tiết, Trùng Khánh... Chỉ riêng vùng đất Thục xưa đã có đến 40 đền thờ Khổng Minh, tuy nhiên trong số đó đền Vũ Hầu ở Thành Đô vẫn là nổi tiếng hơn cả.
Năm 304, Lý Hùng xây dựng được chính quyền Thành Hán ở Thành Đô, ở Thiếu Thành của Thành Đô đã cho xây dựng "miếu Khổng Minh". Năm 347, Đông Tấn đại tướng quân Hoàn Ôn khi diệt được Thành Hán đã cho thiêu hủy Thiếu Thành, song miếu Khổng Minh lại được giữ lại, cho thấy người đời sau dù thuộc triều đình nào cũng rất kính trọng Gia Cát Lượng. Ngôi mộ của Gia Cát Lượng cho tới nay vẫn không bị xâm phạm bởi hậu thế đều kính nể và ngưỡng mộ đức hạnh cả đời cúc cung tận tụy và tài năng của ông. Ngay tới ngôi miếu thờ Khổng Minh từ trước tới nay cũng chưa từng bị trộm cướp. Năm 1979, các chuyên gia từ Học viện nông lâm Bắc Kinh đã xác định rằng 22 cây tùng quanh khu mộ Gia Cát đã được trồng từ thời Tam Quốc, chứng minh rằng suốt 1700 năm, trải qua nhiều cuộc biến động nhưng khu mộ vẫn không hề bị xâm phạm. Bởi vậy, có rất nhiều đền thờ, di tích liên quan tới Gia Cát Lượng được lưu truyền suốt 1.800 năm qua mà không bị hậu thế phá hủy.
Sau thời Tam quốc ít lâu, ở phía nam Thành Đô, trong hậu đường Hán Chiêu Liệt miếu (đền thờ Lưu Bị) có xây dựng một điện thờ Gia Cát Lượng. Đến đời nhà Đường, danh tiếng của Gia Cát Lượng vượt quá Lưu Bị, đền thờ ấy được gọi là đền thờ Vũ Hầu, vẫn được lưu truyền đến nay, trở thành một nơi danh thắng quan trọng ở Thành Đô. Ngôi đền bị cháy trong thời kỳ chiến tranh cuối thời nhà Minh, khi quân của Trương Hiến Trung tiến vào Thành Đô năm 1644. Sau đó đền được trùng tu trong những năm 1671 - 1672 dưới thời hoàng đế Khang Hy nhà Thanh. Năm 1961, đền được công nhận là di tích trọng điểm cấp Quốc gia của Trung Quốc. Các thi nhân nổi tiếng như Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn, Lục Du đã từng đến đó chiêm ngưỡng, lại còn viết không ít thơ ca tưởng nhớ Gia Cát Lượng. Trong đền có tấm bia Gia Cát Vũ Hầu rất có giá trị, do nhà chính trị nổi tiếng đời Đường là Bùi Độ viết ra, nhà thư pháp nổi tiếng Liễu Công Xước (anh của Liễu Công Quyền) trực tiếp viết chữ. Tấm bia đó đã khen Gia Cát Lượng có tài khai quốc trị dân, sánh được với những danh thần trong lịch sử như Khương Tử Nha, Y Doãn, Quản Trọng, Tiêu Hà.
Đền Vũ Hầu có diện tích hơn 15.000 m2, gồm 3 gian: gian ngoài thờ Lưu Bị, gian giữa thờ Khổng Minh và gian cuối thờ 3 anh em Lưu Bị - Quan Vũ - Trương Phi. Bước vào trong, du khách sẽ bắt gặp ngay hai bức thư pháp được khắc trên 37 phiến đá, mỗi phiến cao 63 cm, rộng 58 cm, là Tiền xuất sư biểu và Hậu xuất sư biểu của Gia Cát Lượng. Bước qua cổng thứ nhất có tấm bảng "Minh lương thiên cổ" (nghĩa là "Vua sáng tôi hiền còn lưu danh thiên cổ").
Đền thờ Vũ Hầu ở thành Bạch Đế cũng như các đền thờ ở Nam Dương và Tương Dương cũng đều rất nổi tiếng. Ở đền thờ Vũ Hầu tại thành Bạch Đế, nổi tiếng nhất vẫn là tác phẩm của Đỗ Phủ đề tặng:
Hán Việt |
Dịch thơ |
Thôn Gia Cát hay thôn Bát Quái ở thị trấn Lan Khê, tỉnh Triết Giang còn được gọi là "Trung Quốc đệ nhất thôn", tập trung gần 6.000 người đều là hậu duệ của Gia Cát Lượng. Thôn Gia Cát do Gia Cát Đại Sư, hậu duệ đời thứ 27 của Gia Cát Lượng, lập vào cuối đời Tống, đầu nhà Nguyên (khoảng năm 1300). Gia Cát Đại Sư đã vận dụng học thuyết Kham dư (phong thủy) vào bát quái trận đồ của ông tổ mình, thiết lập thôn trang án theo cửu cung bát quái, trước khi qua đời ông còn di huấn con cháu không được thay đổi nguyên dạng, dù có bị tai ương. Trải qua hơn 800 năm thăng trầm, tổng thể kiến trúc cửu cung bát quái không hề thay đổi. Trong thôn có đền thờ thừa tướng Gia Cát Lượng, hoa viên, 3 nhà bia, 18 sảnh đường, 18 giếng, 18 ao, hơn 200 phòng ốc..., đều là kiến trúc cổ đời Minh - Thanh rất độc đáo. Con cháu Gia Cát trong thôn đời đời đều theo lời giáo huấn của tổ phụ "Không làm lương tướng, tất làm lương y" nên nhiều đời theo nghề thuốc.
Không chỉ tài ba mưu lược, Gia Cát Lượng còn là danh sư bậc thầy. Cuốn sách "Giới Tử Thư" (Thư dạy con) mà Gia Cát Lượng để lại trước khi lâm chung cho con trai mình đến nay vẫn được lưu truyền rộng rãi, trở thành một tài liệu kinh điển chứa đựng những triết lý sống, những đạo lý nhân sinh cuộc đời vô giá. Giới Tử Thư gồm 2 bức thư, mỗi bức chưa quá 90 chữ nhưng lại bao hàm những lời răn dạy sâu sắc. Trong đó, có tám chữ cực kỳ tâm đắc được ông đặc biệt nhấn mạnh với Gia Cát Chiêm, khi đó mới 8 tuổi: "Đạm bạc minh chí, ninh tĩnh chí viễn (Sống đạm bạc để sáng tỏ chí lớn, yên tĩnh để chí hướng cao xa)". Tức là phẩm hạnh của người đức tài toàn vẹn là dựa vào nội tâm an tĩnh, tinh lực tập trung để tu dưỡng thân và tâm; là dựa vào tác phong giản dị để bồi dưỡng đạo đức.
Bên cạnh đó, Gia Cát Lượng cũng viết rằng: "Học tập cần phải chuyên tâm ý chí, để phát triển tài năng thì cần phải học tập khắc khổ. Không nỗ lực học tập, thì không thể phát triển tài trí; không xác định rõ chí hướng thì không thể thành công trong học tập". Trong quá trình học tập, ý chí quyết tâm, sự kiên trì, nỗ lực là những yếu tố rất quan trọng để đạt được sự học, vậy nên cha mẹ cần tạo cho trẻ em sự hứng thú với học tập, tìm tòi và rèn luyện tính kiên trì ngay từ những ngày đầu tới trường.
Tuổi trẻ sẽ trôi đi rất nhanh, sức lực và tinh thần của con người cũng suy yếu dần theo tuổi tác, nhân lúc còn trẻ phải tự mình theo đuổi thành công, nắm bắt cơ hội. Gia Cát lượng căn dặn con mình: "Tuổi tác trôi qua, ý chí hao mòn theo năm tháng, thì cuối cùng sẽ như cây khô lá úa mà thôi, không có ích gì cho xã hội. Đến lúc đó ngồi trong góc nhà đau buồn than thở có ích gì đâu?"
"Giới tử thư" Gia Cát Lượng gửi con trai Gia Cát Chiêm:
“ | Phẩm hạnh của người tài đức song toàn là dựa vào nội tâm an tĩnh, tinh lực tập trung để tu dưỡng thân tâm, dựa vào tác phong cần kiệm chất phác để bồi dưỡng đức hạnh. Không coi nhẹ danh lợi thế tục thì không thể sáng tỏ chí hướng của mình.
Thân tâm không yên tĩnh thì không thể thực hiện được lý tưởng lớn lao cao xa. Học tập cần phải chuyên tâm dốc chí. Để tăng trưởng tài năng thì cần phải khắc khổ học tập. Không nỗ lực học tập thì chẳng thể tăng trưởng tài trí, không sáng tỏ chí hướng thì chẳng thể thành tựu học vấn. Truy cầu hưởng lạc quá độ và lười nhác phóng túng thì không thể phấn chấn tinh thần. Buông tuồng hấp tấp thì không thể tu dưỡng được tính tình. Tuổi hoa trôi đi theo thời gian, ý chí tiêu tan cùng năm tháng, cuối cùng giống như cây khô tàn lá héo, trở thành người vô tích sự, không có bất kỳ tác dụng gì đối với xã hội. Đến lúc đó ru rú trong xó nhà nhỏ bé của mình, đau buồn than thở thì còn có ích gì nữa đây? |
” |
Bức thư "Giới ngoại sanh thư" gửi cháu trai:
“ | Làm người phải có chí hướng cao xa vĩ đại, biết ngưỡng mộ những bậc thánh hiền, giới cấm các ham muốn dục vọng, vứt bỏ các nhân tố ngăn cản mình tiến bước, khiến chí hướng mình hiển lộ và lưu tồn trên thân mình, rung động nơi sâu thẳm nội tâm mình.
Cần biết co biết duỗi, vứt bỏ những thứ nhỏ nhặt, thỉnh giáo, tham vấn rộng rãi khắp mọi người, trừ bỏ nghi kỵ và keo kiệt. Như vậy cho dù gặp phải trắc trở phải dừng bước cũng sẽ không tổn hại đến chí hướng vui thú tốt đẹp của mình, sao phải lo lắng không đạt được mục đích. Nếu chí hướng không kiên nghị vững vàng mạnh mẽ, ý chí không khảng khái hiên ngang, như vậy sẽ tầm thường vô tích sự trôi theo dòng thế tục, lặng lẽ bị tình cảm ham dục trói buộc. Người như thế ắt sẽ mãi mãi trầm luân trong đám phàm phu, thậm chí không tránh khỏi trở thành kẻ phàm phu tục tử! |
” |
Sau này, con cháu của Gia Cát Lượng đều coi nhẹ danh lợi, một lòng tận trung báo quốc, vì quốc gia xã tắc mà cống hiến cuộc đời. Gia đình ông được tôn xưng là "Trung nghĩa truyền gia thế vô song", cũng chính là nhờ sự răn dạy con cháu của Gia Cát Lượng.
Mao Tôn Cương trong Thánh thán ngoại thư có lời khen ngợi:
“ | Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi[50] | ” |
“ | Thần sớm theo tiên đế, một đời chỉ biết theo quan gia, tuyệt không vun vén gì cho bản thân. Nhà của thần ở Thành Đô có tám trăm gốc dâu, ruộng xấu mười lăm khoảng, cái ăn mặc của con cái xem ra đầy đủ. Đến như thần gánh vác việc ở bên ngoài, cũng chẳng có gì khác người, cái ăn cái mặc đều trông vào triều đình, chẳng chút tơ hào cho riêng mình, ấy là để lâu dài thước tấc vậy. Đến ngày thần mất, trong nhà chẳng để thừa gấm vóc, bên ngoài không có điền sản dư dôi, chính là để khỏi phụ lòng tin tưởng của Bệ hạ vậy[83] | ” |
“ | Ta (nên) làm theo đạo của người quân tử, tu thân thanh tịnh, cần kiệm dưỡng đức, đạm bạc để nuôi chí, tĩnh lặng để nghĩ xa. Ta (nên) học lấy sự thanh tịnh, tài do học mà có, chẳng học chẳng rộng tài, chẳng có chí thì chẳng thành công, buông thả hại cho tinh thần, hấp tấp khó thuần được tính[83] | ” |
Gia Cát Lượng được cho là người phát minh ra màn thầu, khinh khí cầu và một thiết bị giao thông vận tải tự động kỳ bí nhưng hiệu quả được gọi là "trâu gỗ ngựa máy" (Mộc Ngưu Lưu Mã), được cho là một phiên bản của xe cút kít.
Một phiên bản sơ khai của khinh khí cầu được sử dụng để truyền tín hiệu quân sự, được gọi là đèn lồng Khổng Minh, được mang tên ông. Nó được cho là phát minh bởi Gia Cát Lượng khi ông bị bao vây bởi Tư Mã Ý.[84]. Tuy vậy theo nhà sử gia khoa học Joseph Needham, người Trung Quốc đã sử dụng những quả cầu khí cỡ nhỏ để truyền tín hiệu từ thời kỳ Chiến Quốc đầu thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên [85]
Ông được cho là đã phát minh ra loại nỏ có thể bắn liên tục nhiều mũi tên và được gọi là "Nỏ Gia Cát"[86] Thực ra loại nỏ bán tự động đã xuất hiện trong thời kỳ Chiến Quốc (mặc dù có tranh luận rằng nỏ thời Chiến Quốc là bán tự động hay chỉ đơn giản là gắn nhiều chiếc nỏ lên một giá gỗ để bắn cùng một lúc). Tuy nhiên, phiên bản của Gia Cát Lượng đã được ông cải tiến để có thể bắn xa hơn, mạnh hơn và nhanh hơn phiên bản trước đó. Năm 1964, ở vùng công xã Thái Bình thuộc Ti huyện gần Thành Đô đã khai quật được nỏ bằng đồng được chế tạo vào ngày 30 tháng 2 năm Cảnh Diệu thứ tư thời hậu chủ Lưu Thiện, tức là sau 27 năm Gia Cát Lượng từ trần, thuộc loại nỏ liên châu mà Gia Cát Lượng đã cải tiến. Khi kéo dây phải dùng chân đạp vào lẫy, khi kéo thì lẫy nỏ sẽ tự hạ xuống để nạp mũi tên, do có bộ phận lấy chuẩn nên rất trúng đích. Sách "Ngụy thị Xuân Thu" có ghi: "Gia Cát Lượng dùng nỏ liên châu để tập kích giết được danh tướng Trương Cáp, gọi nỏ ấy là "nguyên nhung", lấy sắt làm tên, mỗi mũi tên dài tám tấc, mỗi nỏ bắn ra mười tên, thực là một vũ khí sát thương mãnh liệt".
Ngựa gỗ trâu máy được Gia Cát Lượng nghĩ ra khi Bắc phạt Tào Ngụy. Thời điểm đó là mùa mưa khiến cho việc vận chuyển lương thực khá khó khăn. Do đó, Khổng Minh bèn sáng tạo ra ngựa gỗ trâu máy để giải quyết việc vận chuyển. Tuy nhiên, sử sách không ghi rõ hình dạng, cơ chế vận hành của loại máy này. Các nhà sử học ngày nay suy đoán đây có thể là một loại xe cút kít cải tiến, có phần bánh xe và khung truyền động được thiết kế để dễ di chuyển trên đường gồ ghề (gần giống như xe đạp thồ ngày nay). Sử sách còn mô tả trâu gỗ ngựa máy có thể tự di chuyển một quãng đường, có thể Gia Cát Lượng đã phát minh ra bộ phận lên dây cót để xe tự di chuyển.
Trong bày binh bố trận, Gia Cát Lượng đã sáng tạo ra Bát trận đồ biến hóa khôn lường. Hình thế của trận này dựa trên nguyên lý Bát quái với 8 cửa. Bát trận đồ có thể biến hóa khôn lường, làm quân địch rối loạn đội hình và mất phương hướng. Ngoài ra, ở bên trong Bát trận đồ còn có thể bố trí các loại vật liệu đặc biệt như gỗ, đá, hầm hào, xe lương thực để tạo chướng ngại vật, ngăn cản kỵ binh địch tấn công, trong khi các đội bộ binh khi tản khi hợp rất linh hoạt để bao vây, tấn công địch. Trận đồ này chuyên dùng để khắc chế các đội quân kỵ binh của địch.
Trần Thọ trong Tam quốc chí đánh giá:
Nhân vật Khổng Minh Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết được hư cấu có tài như thần thánh, có thể bấm quẻ đoán trước tương lai, hô mưa gọi gió, dùng lời nói hoặc thư từ để khích chết hàng loạt nhân vật khác như Chu Du, Vương Lãng, Tào Chân...
Theo nhà nghiên cứu người Trung Quốc Dịch Trung Thiên (tác giả sách "Phẩm Tam Quốc"), Gia Cát Lượng trong lịch sử có vai trò giống Tiêu Hà hơn là Trương Lương, Hàn Tín (nghĩa là ông chuyên trị quốc an dân chứ ít khi tự mình ra trận, sau này nhà Thục Hán mất đi nhiều trụ cột thì Gia Cát Lượng mới phải lo cả việc quân), nhưng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa thì nhiệm vụ của nhân vật này bằng cả ba vị Tiêu Hà, Trương Lương, Hàn Tín (Hán sơ Tam Kiệt) gộp lại.
Tuy ca ngợi Gia Cát Lượng, nhưng tác giả La Quán Trung vẫn tuân theo kết cục lịch sử là Gia Cát Lượng đã qua đời khi cầm quân Bắc phạt, không thể giúp nhà Thục Hán thống nhất giang sơn. Các thông tin dưới đây được lấy trong tiểu thuyết của La Quán Trung, một số tình tiết không phải thực tế lịch sử.
Nhân vật Gia Cát Lượng là ẩn sĩ ở Long Trung. Tư Mã Huy và Từ Thứ tiến cử ông với Lưu Bị. Thời đó bậc danh sĩ Kinh Châu lan truyền một câu: "Ngọa Long, Phụng Sồ ai có được một trong hai người ấy sẽ có thiên hạ!". Theo Thủy Kính tiên sinh thì:"Tài của Gia Cát Lượng phải được ví với Lã Vọng làm nên cơ nghiệp 800 năm của nhà Chu và Trương Lương làm nên cơ nghiệp 400 năm của nhà Hán.
Từ Thứ, một nhân vật có mưu lược, trước khi chia tay Lưu Bị vì trúng kế của Tào Tháo đã tiến cử Gia Cát Lượng cho Lưu Bị. Lưu Bị có hỏi tài năng của Khổng Minh so với ngài thì thế nào, Từ Thứ có nói: "Tôi so với Khổng Minh như ngựa so với Kỳ lân, như quạ so với Phượng hoàng, chúa công có Khổng Minh như Văn vương có Lã Vọng, như Hán vương được Trương Lương"
Sau khi Từ Thứ đến với Tào Tháo, Lưu Bị tìm đến Long Trung để thỉnh cầu ông ra giúp nhưng hai lần đầu không gặp mãi đến lần thứ ba mới gặp được nên mới có câu "Lưu Bị tam cố thảo lư câu hiền". Lưu Bị được Lượng nói kế sách định quốc an bang vô cùng kính phục, muốn mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự. Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật lòng cầu xin nên ông chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị. Năm đó Gia Cát Lượng mới có 27 tuổi chính thức bước vào vũ đài chính trị. Sự kiện "ba lần đến mời" có thực sự diễn ra hay chỉ là lời biểu cảm của Gia Cát Lượng còn nhiều tranh cãi. Tam quốc diễn nghĩa có bài thơ nói về sự kiện này:
Tiếng Hán-Việt | Tạm dịch |
---|---|
Hán tặc phân minh trí chẩm biên |
Trên gối, biết ai vua, ai giặc |
Sau khi nhân vật Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị đã góp nhiều công sức xây dựng binh mã tại Tân Dã. Tào Tháo nghe tin, điều tướng đi đánh Tân Dã.
Lưu Bị giao quyền điều binh cho nhân vật Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục chuẩn bị mọi thứ để tiêu diệt quân Tào tại Bác Vọng. Ông cho Triệu Tử Long và Lưu Bị dụ địch. Hạ Hầu Đôn gần tới đồi Bác Vọng thì thấy Lưu Bị ra đánh rồi rút lui vào thung lũng, cho rằng dù có mai phục ít nên thúc quân tiến vào Bác Vọng. Quân Tào tiến vào rừng tên lửa bắn xuống mịt mù, cây cối hai bên đường cháy to, quân Tào hoảng loạn dẫm đạp lên nhau mà chạy, lương thực toàn bộ bị cháy. Toàn bộ Tào quân bị tiêu diệt, tướng Hạ Hầu Đôn chạy thoát. Từ đó uy tín của Khổng Minh lại càng được nể trọng.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:
Sự việc này là hư cấu của nhà văn để ca ngợi nhân vật Gia Cát Lượng, thực tế Lưu Bị tự đánh trận Bác Vọng trước khi có Gia Cát.[87]
Sau trận đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn đại quân đến Kinh Châu. Lưu Tông và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị.
Nhân vật Khổng Minh bèn lập kế mai phục quân Tào: sai nhân vật Quan Vũ dẫn 1000 binh đi mai phục phía bờ sông Bạch Hà, quân lính mỗi người mang sẵn một bao cát đợi khi nghe tiếng ngựa hí thì ngăn nước sông xả nước cho nước cuốn chảy xuống. Ông lại sai Trương Phi mai phục ở Bác Lăng và dặn thấy quân Tào băng qua thì xông ra mà đánh. Cuối cùng ông sai Triệu Vân chia quân ba mặt Đông, Tây, Nam, chừa phía Bắc cho quân Tào chạy, thấy có hiệu lửa thì xông ra mặt Bắc mà đánh đồng thời lệnh cho quân lính mang đồ dẫn lửa để sẵn trong nhà dân sau khi mọi người đã chạy đến Phàn Thành.
Sau đó, quân Tào do các nhân vật Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử kéo đến. Hứa Chử dẫn quân vào rừng gặp Lưu Bị, Khổng Minh, định lên bắt nhưng bị gỗ, đá cản lại. Còn Tào Nhân, Tào Hồng tiến vào thành Tân Dã bỏ trống. Lúc ấy quân Tào tất cả đều mỏi mệt nên nấu cơm ăn để nghỉ ngơi. Đêm đó, quân Lưu Bị tấn công. Tào Nhân thất kinh chạy ra thì thấy cả vùng lửa cháy ngút trời. Tào Nhân, Tào Hồng đang tìm đường thoát thân thì gặp quân của Triệu Vân ùa ra đánh giết. Quân Tào chạy một lúc nữa lại có con sông chặn trước mặt, nhưng nước cạn nên quân Tào không lo nữa, dẫn quân qua sông. Quan Vũ phục ở mé trên, bèn cho quân xả nước xuống, nước chảy xuống như thác vỡ bờ cuốn trôi quân Tào vô số. Tào Nhân, Tào Hồng dẫn tàn binh trốn chạy, bỗng đâu gặp Trương Phi, may nhờ có Hứa Chử đến cứu. Sau đó Lưu Bị, Khổng Minh và các tướng thẳng tới Phàn Thành.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ than rằng:
Sự kiện này là hư cấu của nhà văn. Trận Tân Dã hoàn toàn không có thật.[88]
Nhân vật Khổng Minh chủ trương liên Tôn chống Tào, đã theo Lỗ Túc đi sứ Đông Ngô nhắm xúc tiến việc kết minh. Tuy nhiên nhóm quan văn bên Ngô chủ trương hàng Tào, từng người đều đứng ra đặt câu hỏi nhằm làm khó Khổng Minh. Khổng Minh dựa vào ba tấc lưỡi đánh gãy bọn nho Đông Ngô, sau đó dùng kế khích Tôn Quyền và Chu Du cùng liên minh với Lưu Bị chống lại Tào Tháo. Nhân vật Lỗ Túc được miêu tả là rất ngây ngô.
Việc nhân vật Gia Cát Lượng sử dụng bài phú Đồng Tước đài để kích động Chu Du đánh Tào Tháo trong Tam quốc diễn nghĩa hoàn toàn là hư cấu. Trận Xích Bích diễn ra năm 207, Đồng Tước đài (銅雀臺) được xây dựng vào mùa đông năm 210[89] gần 3 năm sau khi kết thúc Trận Xích Bích. Bài Đồng Tước đài phú của Tào Thực lại được viết vào năm 212, hai năm sau khi công trình hoàn thành. Như vậy Gia Cát Lượng không thể biết được bài phú viết sau đó 5 năm. Bên cạnh đó, bài thơ trong Tam quốc diễn nghĩa có chứa đựng thêm 7 dòng không có trong bản gốc của Tào Thực được ghi lại trong Tam quốc chí.
Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung Trong trận Xích Bích, nhân vật Khổng Minh đến Giang Đông giúp đỡ đại đô đốc của Đông Ngô là Chu Du chống Tào Tháo. Nhân vật Chu Du từ lâu biết Khổng Minh là "thiên hạ kỳ tài", để người như vậy sống về sau sẽ là họa cho Đông Ngô nên muốn tìm cách hại ông. Đầu tiên Chu Du sai Khổng Minh dẫn quân đi cướp trại Tào Tháo nhưng ông đã khéo léo từ chối. Sau đó, Chu Du đề nghị Khổng Minh trong 10 ngày làm 10 vạn mũi tên nhưng cố tình dặn thợ tên làm chậm nhằm kết tội Khổng Minh. Nhưng Khổng Minh hẹn trong 3 ngày sẽ làm xong. Chu Du mừng quá bảo Khổng Minh viết tờ quân lệnh. Khổng Minh bèn đến tìm mưu sĩ Lỗ Túc của Đông Ngô mượn 20 chiếc thuyền, mỗi chiếc có chừng ba mươi quân sĩ, trên thuyền dùng vải xanh làm màn che xung quanh, lại bó cỏ với rơm cho nhiều. Lỗ Túc nhận lời, 2 ngày đầu Khổng Minh không làm gì cả. Đến ngày thứ ba, vào đầu canh tư, Khổng Minh bỗng bí mật cho mời Lỗ Túc lên thuyền uống rượu rồi lại sai người lấy dây chạc dài, buộc hai mươi chiếc thuyền liền lại với nhau, rồi bảo quân nhắm bờ phía Bắc thẳng tới.
Hôm ấy, sương mù rất nhiều. Đến đầu canh năm, Khổng Minh tiến sát đến thủy trại của Tào Tháo, Khổng Minh sai thủy thủ dàn ngang đoàn thuyền ra rồi đánh trống, hò reo ầm ĩ. 2 tướng Sái Mạo và Trương Doãn thấy sương mù dày đặc sợ có phục binh nên hạ lệnh cho quân sĩ bắn tên ra loạn xạ. Đợi đến gần sáng, Khổng Minh dẫn quân trở về, 20 chiếc thuyền cắm đầy tên của quân Tào, tính ra hơn 10 vạn. Chu Du trông thấy vô cùng kinh hãi, tự thấy tài kém Khổng Minh rất nhiều. Lỗ Túc hỏi: "Tiên sinh thực là thần thánh. Làm sao lại biết đêm nay có sương mù lớn thế?" Khổng Minh nói: "Làm tướng mà không biết thiên văn, không tường địa lý, không biết được thuật pháp, không hiểu được âm dương, không tính trận đồ, không giỏi binh thế, đó là tướng xoàng. Từ ba hôm trước, ta đã tính biết hôm nay có sương mù lớn, nên mới dám nhận thời hạn ba hôm. Công Cẩn hạn cho ta mười ngày, mà thuyền thợ, đồ dùng không có gì đủ, chực đem một tội lỗi nhỏ để hại ta; nhưng số mệnh ta đã có trời định, hại làm sao nổi!"
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:
Thuyền cỏ mượn tên trở thành điển tích nổi tiếng. Nhân vật Khổng Minh chỉ một lần dùng mẹo mà khiến hai nhân vật tài trí là Chu Du, Tào Tháo đều mắc lỡm. Ông bỡn cợt trước mưu kế của Chu Du đang tìm cách hãm hại mình, lại chọc ghẹo đại quân Tào Tháo đang lăm le tiến xuống Giang Nam, trước sau đều tỏ rõ phong thái ung dung tự tại vô cùng.
Thực ra, tình tiết này là hoàn toàn hư cấu và không xảy ra ngoài đời thực. Trong Tam quốc chí của Trần Thọ cũng hoàn toàn không đề cập gì tới "Thuyền cỏ mượn tên". Thực tế La Quán Trung chỉ sáng tạo ra nó từ một tình tiết có thật trong trận Như Tu năm 213, khi Tôn Quyền bí mật do thám trại đóng quân của Tào Tháo trên một con thuyền. Tào Tháo ra lệnh cho các cung thủ của mình bắn tên vào thuyền của Tôn Quyền. Những mũi tên đã bị mắc kẹt vào một bên của con thuyền và khiến cho con thuyền có nguy cơ bị lật. Tôn Quyền ra lệnh lái con thuyền theo hướng ngược với bên con thuyền bị bắn. Cuối cùng con thuyền cũng giữ được thăng bằng và Tôn Quyền quay trở lại trại của mình [90]. Chuyện tương tự cũng xảy ra thời Đường khi Trương Tuần dẹp loạn An Lộc Sơn, vào ban đêm bện người cỏ thả xuống tường thành, lấy được 10 vạn mũi tên của Lệnh Hồ Triều.
Nhân vật Chu Du muốn đánh hỏa công nhưng mùa đông chỉ có gió tây bắc thổi ngược về phía quân Ngô mà không có gió đông nam thổi về phía quân Tào nên lo lắng thành bệnh. Nhân vật Khổng Minh và Lỗ Túc đến thăm, nói bệnh của Chu Du là tâm bệnh, lại viết phương thuốc cho Chu Du là một bài thơ:
Nhân vật Chu Du xem xong phục nhân vật Khổng Minh lắm, mới hỏi rằng thế nào mới có gió đông. Khổng Minh xin đi cầu gió đông cho Chu Du nổi lửa đốt trại Tào. Khổng Minh bảo Chu Du hãy truyền xây ngay một đài thất tinh ở chân núi Nam Bình, ông sẽ cầu gió Đông luôn ba ngày ba đêm để giúp Chu Du. Lập tức Chu Du sai cất đài như lời Khổng Minh dặn. Khổng Minh lên đàn thắp nhang, làm phép cầu ba lần, vẫn chưa có gió. Đến canh hai, gió Đông nam thổi tới rất mạnh, quân Ngô nhân cơ hội đó châm lửa phóng hỏa đốt sạch chiến thuyền quân Tào. Khi gió đông tới, Chu Du vừa vui mừng vì sắp đánh thắng quân Tào, vừa kinh sợ vì tài năng "sai khiến cả quỷ thần" của Khổng Minh. Chu Du lập tức ra lệnh cho thuộc cấp tới đài thất tinh để giết Khổng Minh, nhưng khi tới nơi thì ông đã lên thuyền đi mất. Thì ra Khổng Minh đã đoán trước khi gió đông tới, Chu Du sẽ ra lệnh giết mình nên ông đã bí mật gửi thư, dặn dò Lưu Bị cử người tới đón ông vào đúng đêm hôm đó.
Nhờ "gió Đông nam của Khổng Minh" mà quân Ngô đại thắng quân Ngụy, Chu Du không bị nỗi nhục mất nước, mất vợ nên về sau thi sĩ đời Đường Đỗ Mục có một bài thơ rằng:
Việc lập đài cầu gió Đông Nam, Gia Cát Lượng có phép thần thông hô mưa gọi gió đều là hư cấu của nhà văn.
Nhân vật Khổng Minh thừa cơ chiếm cả Giang Lăng, Tương Dương từ tay Tào Nhân, nẫng tay trên của Chu Du khiến Chu Du phát uất thổ máu. Sau 3 lần bị chọc tức, nhân vật Chu Du kêu lên "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng" rồi chết.
Những sự kiện này đều là hư cấu của nhà văn. Chu Du chiếm được Giang Lăng năm 209, còn Tào Nhân vẫn giữ thành Tương Dương (thời Tam Quốc, Ngụy chưa từng mất nơi này). Chu Du bị ốm mà chết, câu nói trên cũng là lời lẽ của nhà văn La Quán Trung.
Sau khi Bàng Thống mất, Lưu Bị gọi Khổng Minh vào Tây Xuyên để đánh chiếm Ích Châu. Khổng Minh giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ rồi cùng Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên. Khổng Minh muốn chiếm Lạc Thành nhưng có Trương Nhiệm là người đã giết Bàng Thống đang trấn giữ. Ông xem xét địa hình rồi sai Ngụy Diên đem quân phục ở phía đông cầu Kim Nhạn, Hoàng Trung dẫn quân phục phía hữu, Trương Phi phục sẵn quân ở núi còn Triệu Vân thì chờ Trương Nhiệm chạy qua cầu Kim Nhạn thì chặt gãy ngay cầu ấy. Phân công xong, Khổng Minh đích thân đi dụ địch. Trương Nhiệm dẫn Trác Ung ra trận, gặp Khổng Minh liền dẫn quân ra đánh, Khổng Minh bỏ xe lên ngựa chạy qua cầu. Trương Nhiệm đuổi theo một quãng thì gặp Huyền Đức và Nghiêm Nhan đổ ra chặn đánh. Nhiệm toan quay về thì cầu đã bị chặt gãy. Nhìn bờ phía Bắc thì Triệu Vân chặn, liền chạy vào đường nhỏ thì gặp quân phục của Ngụy Diên, Hoàng Trung. Trương Nhiệm chỉ còn vài chục kỵ binh theo sau chạy vội vào đường núi thì Trương Phi xông ra bắt sống. Trương Nhiệm không chịu hàng nên Khổng Minh sai đem ra chém.
Đây là hư cấu của nhà văn. Trên thực tế Lưu Bị tự chiếm Lạc Thành bắt Trương Nhiệm, không liên quan gì đến Gia Cát Lượng.
Lưu Bị đem binh phạt Ngô để báo thù cho 2 huynh đệ kết nghĩa Quan Vũ, Trương Phi, kết quả bị Đại đô đốc Lục Tốn dùng hỏa công đánh bại.
Khi nhân vật Lục Tốn ham truy kích thì gặp phải thạch trận do Khổng Minh bày ở bến Ngư Phúc, Tốn cho rằng đây chỉ là trò lừa nên xông vào trận, cuối cùng bị mắc kẹt. Đang lúc kinh hãi, Tốn gặp được bố vợ Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn, và được đưa ra khỏi thạch trận. Lục Tốn hết sức kính phục tài năng của nhân vật Khổng Minh, bèn hạ lệnh rút quân về. Một thời gian sau trận Di Lăng, Khổng Minh nối lại liên minh Thục-Ngô để cùng nhau chống Tào Ngụy.
Đây chỉ là hư cấu của nhà văn vừa để tôn vinh nhân vật Gia Cát Lượng. Thực chất Lục Tốn cũng rút quân ngay khi thấy Lưu Bị đã về đất Thục, để kịp đối phó với Tào Phi đang rình rập ở phía bắc.
Sau thất bại Di Lăng, Lưu Bị lui về thành Bạch Đế, sức khỏe ngày một kém. Bèn gọi Khổng Minh từ Thành Đô tới để dặn dò hậu sự. Lưu Bị nằm trên giường cầm tay Khổng Minh: "Tài thừa tướng gấp 10 Tào Phi tất yên định nhà nước, làm nên nghiệp to. Đối với con trẫm, nếu có thể giúp thì giúp còn không thì ngươi nên làm chủ Thành Đô". Khổng Minh nghe xong giật mình, phục lạy xuống đất mà thề "thần xin dốc hết sức khuyển mã phò tá thái tử, cúc cung tận tụy đến chết mới thôi".
Hậu chủ Lưu Thiện lên kế vị khi mới 15 tuổi, mọi chuyện lớn nhỏ trong triều do Thừa tướng Gia Cát Lượng giải quyết. Ngụy đế Tào Phi thừa cơ nước Thục suy yếu muốn xuất binh chinh phạt, liền theo kế của Tư Mã Ý khởi 50 vạn đại quân, chia làm 5 đạo đánh Thục. Hậu chủ liền triệu tập quần thần thương nghị kế sách, nhưng Khổng Minh cáo bệnh không ra khỏi phủ. Hậu chủ lo lắng ngự giá đến thăm hỏi, thì bắt gặp Khổng Minh đang ngồi xem cá. Hậu chủ trách Khổng Minh không quản việc quân, trốn trong phủ xem cá. Khổng Minh mời Hậu chủ vào trong nhà, mở bản đồ và phân tích phương án đẩy lui 5 đạo binh một cách bình thản: "Mã Siêu vốn gốc tích Tây Lương, trong mắt người Khương thì Mã Siêu là Thần Oai tướng quân, nay phái Siêu ra trấn thủ ải Tây Bình, dùng 4 đạo quân thay phiên chặn đánh quân Khương. Lý Nghiêm và Mạnh Đạt rất thân, từng kết nghĩa sống chết có nhau, để Lý Nghiêm viết thư cho Mạnh Đạt, tất Đạt giả ốm không chiến. Man Vương Mạch Hoạch có khỏe nhưng kém khôn, lệnh cho Ngụy Diên dùng 2 đạo quân làm nghi binh, cắm thật nhiều quân kỳ trong rừng, quân Nam Man thấy nghi binh tất sẽ không dám tiến. Triệu Vân ra trấn thủ ải Dương Bình chống Tào Chân, nơi này hiểm trở dễ thủ khó công, chỉ cần kiên thủ không đánh thì Tào Chân sẽ cạn lương và rút lui. Quan Hưng và Trương Bào mỗi người dẫn 3 vạn binh đóng ở các nơi hiểm yếu, để tiếp ứng cho các mặt. Phía Đông Ngô thì Tôn Quyền còn hận việc Tào Phi xâm phạm trước kia, nên sẽ không nghe lệnh mà ngồi nhìn thắng bại. Nếu 4 đạo quân thằng thì quân Ngô mới tiến, còn 4 đạo quân thất bại thì sẽ không manh động, chỉ cần phái sứ giả đến phân tích lợi hại để giữa chắc mặt này."
Sau khi thu phục Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng chỉnh đốn binh mã, nhân Tào Phi vừa mất đem đại quân bắc phạt, ông có tâu với Hậu chủ Lưu Thiện: "Dù biết đánh Tào là lấy yếu đánh mạnh, nhưng nhất quyết phải phạt Ngụy, ta không phạt người ắt người sẽ phạt ta, nay xin Hoàng thượng cho thần đóng quân ở Hán Trung, từ trên cao nhìn xuống như hổ săn Lạc Dương.".
Sau đó, trong 6 lần Bắc phạt mà sau này các sử gia gọi là Lục xuất Kỳ Sơn, ông đều đem đại quân đánh ra Kỳ Sơn vì cho rằng nơi đây chính là đất dụng võ,ông nói:" Kỳ Sơn là đầu xứ Trường An, kéo quân vào các quân Lũng Tây tất cả phải qua đường ấy, vả lại, mé trước sát sông Vị, mé sau dựa vào hang Tà Cốc, ra bên nọ vào bên kia, có thể dùng được kế mai phục. Đó là đất dụng võ, cho nên trước hết ta muốn dụng được chỗ địa lợi ấy.",có thể công phá Trường An và Lạc Dương, bình định được Trung nguyên, nhưng tiếc là vì nhiều lý do chưa thể thành công.
Việc Gia Cát Lượng "6 lần đem quân ra Kỳ Sơn" chỉ là sự phóng đại của nhà văn La Quán Trung. Thực tế Gia Cát Lượng chỉ có 5 lần đem quân đánh Ngụy, trong đó ông cũng chỉ đem quân ra Kỳ Sơn lần thứ nhất và lần thứ tư [92].
Sau khi Mã Tốc để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng về Tây thành, trong thành khoảng 2000 quan văn, cùng Quan Hưng vào 500 lính kị mã. Tư Mã Ý mang 15 vạn đại quân đuổi đến nơi, ông không những không triển khai quân đối phó mà còn mở cổng thành, có ý mời quan quân Tư Mã Ý vào thành. Còn mình thì ngồi trên thành, gẩy đàn rất bình thản. Tư Mã Ý đến nơi, thấy vậy liền sinh nghi, không dám tiến vào thành vì sợ trong thành có bẫy. Tư Mã Ý nghe tiếng đàn của Gia Cát Lượng, thấy được sự bình thản trong con người ông, càng thêm lo sợ và quyết định rút lui. Sau đó Quan Hưng cùng 500 lính phục kích hò reo làm cho Tư Mã Ý sợ có nghi binh nên bỏ chạy. Sau này khi biết được trong thành chỉ có vài trăm binh sĩ già yếu, mà một mình Gia Cát Lượng có thể đẩy lui được đại quân của mình, Tư Mã Ý rất khâm phục và cho rằng mình còn kém tài ông rất nhiều.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:
Trên thực tế thì giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý không xảy ra vụ việc này mà chỉ là hư cấu của La Quán Trung. "Không thành kế" thực sự trong lịch sử xảy ra tại chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều. Khi quân Ngụy đuổi theo quân Tống đến Lịch Thành, Thái thú Tế Nam của Lưu Tống là Tiêu Thừa Chi chỉ có vài trăm quân, liệu chừng không thể chống lại đại quân Ngụy, bèn áp dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành. Quân Bắc Ngụy sợ có phục binh không dám vào thành.
Theo bộ sử Tam quốc chí, Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước doanh trại quân Ngụy rồi ung dung chơi cờ, xung quanh không có binh sỹ hộ vệ mà chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ, nhưng quân Ngụy sợ phục binh nên không dám ra đánh (không phải là Gia Cát Lượng ngồi trong thành gảy đàn khi quân Ngụy tới tấn công). Như vậy thì đó là "Không trận kế" chứ không phải là "Không thành kế".
Khổng Minh nhiều lần ra Kỳ Sơn, hay bị khốn đốn vì hết lương, ông quyết định chọn hang Hồ Lô ở trước núi, mé tây sông Vị làm nơi bí mật, lại kén nghìn tay thợ giỏi để chế ra trâu gỗ, ngựa máy làm máy tải lương. Trâu gỗ ngựa máy trèo đèo lội suối không khác chi trâu ngựa thật, vận lương từ Kiếm Các ra Kỳ Sơn cho quân ăn. Khổng Minh sau đó cố ý để Tư Mã Ý biết được, lại thả cho Tư Mã Ý bắt được một số trâu gỗ ngựa máy. Trọng Đạt bắt chước chế tạo dựa trên mẫu của Khổng Minh, sau đó cho trâu gỗ ngựa máy mới tạo đi vận lương. Khổng Minh hết lương, bèn tìm kế phục kích đuổi quân tải lương của Ngụy đi, sau đó hạ lệnh cho quân sĩ vặn cái chốt dưới miệng trâu gỗ ngựa máy, làm chúng không đi được nữa, sau đó lui quân. Quân Ngụy đuổi đến nhưng không sao bắt trâu ngựa đi được nữa, Khổng Minh nhân lúc này xua quân ra đánh, quân Ngụy thua chạy. Khổng Minh sai người vặn lại cái chốt, trâu ngựa lại hoạt động trở lại, Khổng Minh đem theo trâu gỗ ngựa máy chở lương của quân Ngụy về trại.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:
Gia Cát Lượng lục xuất Kỳ Sơn, sau nhiều lần đánh nước Ngụy không thành vì có Tư Mã Ý đối trận, biết rằng muốn phạt Ngụy, định Trung Nguyên phải trừ người này, nên quyết tâm giết Tư Mã Ý. Cuối cùng ông dùng kế lừa cho hàng binh nói với Tư Mã Ý rằng toàn bộ lương thực của quân Thục đều cất giữ tại Thượng Phương cốc. Tư Mã Ý cho lính thăm dò thì thấy có vẻ đúng, bèn dẫn hai con mang quân tới. Cha con Tư Mã Ý vừa vào hang thì quân Thục ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu. Gia Cát Lượng liền cho quân phóng hỏa nhằm thiêu chết cha con Tư Mã Ý. Nhưng trong lúc Tư Mã Ý tuyệt vọng chờ chết thì Kỳ Sơn 9 tháng không có mưa bỗng đổ mưa lớn, trận mưa đã cứu cha con Tư Mã Ý và dập tắt hết ngọn lửa, cha con Tư Mã Ý chạy thoát khỏi Thượng Phương cốc. Gia Cát Lượng đau đớn thốt lên "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", từ đó mà câu nói này trở nên nổi tiếng.
Gia Cát Lượng buồn rầu, biết rằng khí số nhà Hán đã tận, trời không giúp ông mà giúp Tư Mã Ý, một mình ông khó mà xoay chuyển càn khôn, nghịch lại ý trời, lại thêm ngày đêm lao lực mà sinh bệnh.
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ than rằng:
Đây là sự kiện hư cấu, hoàn toàn không có thật. Thực tế trong lần Bắc phạt này, Tư Mã Ý luôn án binh bất động, cố thủ không ra đánh, nên Gia Cát Lượng không có cách nào bày trận đánh bại quân Ngụy.
Khi ra Kỳ Sơn lần thứ 6, cho quân đóng ở gò Ngũ Trượng. Quân Ngụy sau nhiều thất bại nên rất sợ Gia Cát Lượng, chỉ đóng cửa cố thủ, tránh giao chiến với quân Thục.
Khổng Minh lâm bệnh nặng, biết thọ mạng của mình sắp hểt. Ông bèn dùng phép dâng sao, trong vòng 7 ngày bày ra 49 cây đèn quay quanh cây đèn chủ mạng nhằm xin trời cao cho kéo dài mạng sống để ông tiếp tục sự nghiệp phục hưng nhà Hán. Nếu sau 7 ngày 7 đêm mà đèn vẫn sáng thì thành công, nếu đèn tắt thì thất bại. Đến ngày thứ 7, Tư Mã Ý nhìn thiên tượng biết Khổng Minh bị bệnh, cho quân đến thăm dò trước trại thách đánh. Ngụy Diên chạy vào trướng báo tin, chẳng ngờ đạp mạnh quá làm tắt ngọn đèn chủ vị, thế là phép dâng sao thất bại. Khương Duy giận lắm, rút gươm muốn giết Ngụy Diên, Khổng Minh cản lại, than rằng: "Số trời đã định, không sao trái được!".
Ông gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra. Sau đó ông dặn dò các tướng phải đề phòng quân Ngụy tới đánh và Ngụy Diên làm phản cùng kế sách đối phó. Sau Thục chủ sai sứ tới hỏi việc hậu sự, Khổng Minh đáp rằng Tưởng Uyển có thể thay ông làm thừa tướng, sau đó là Phí Y, nói tới đó thì mất, hưởng dương 54 tuổi.
Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Tư Mã Ý thấy tướng tinh trên trời rơi xuống, đoán rằng Khổng Minh đã mất nên kéo quân tới đánh. Quân Thục làm theo di kế của Khổng Minh, hành quân về phía quân Ngụy và đẩy xe có tượng gỗ Khổng Minh ra trận. Tư Mã Ý tưởng Khổng Minh giả chết lừa mình nên sợ hãi bỏ chạy, chạy một lúc lâu mới hỏi các tướng rằng "đầu mình có còn không". Thế là quân Thục rút an toàn trở về Thành Đô. Sau này trong dân gian có câu: "Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống" (Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt), để nói lên tài năng siêu phàm của ông. Sau câu chuyện này, người ta có thơ than rằng:
Sau khi Khổng Minh mất, người ta làm theo di chúc là chôn ông ở núi Định Quân (nơi ngày xưa Hạ Hầu Uyên mất), không cần làm ma chay cầu kỳ.
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, Gia Cát Lượng có nhiều câu nói nổi tiếng. 2 câu nổi tiếng là:
Hai câu nói trên thể hiện triết lý "Ý Trời khó cưỡng" của Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa: Bậc kỳ nhân như nhân vật Gia Cát Lượng có tài trí trác tuyệt, mưu kế của người khác không thể thoát khỏi dự tính của ông, nhưng Gia Cát Lượng tài ba đến mấy thì cũng không thể tính trước được những điều mà số Trời đã sắp đặt, không thể "cưỡng lại ý Trời". Chí lớn khôi phục Hán thất của Gia Cát Lượng không thành không phải vì ông không đủ tài trí, mà bởi một loạt những điều rủi ro ngẫu nhiên mà ông không thể dự tính được, ấy là do "số Trời đã định" mà thôi.
Gia Cát Lượng tinh thông thiên văn lý số, ắt cũng thấy được khí số nhà Hán đã sắp tận, ông hẳn sẽ tiếp tục ở ẩn nếu như Lưu Bị không 3 lần tới lều tranh để mời ông giúp đỡ. Sau buổi trò truyện để nhận thức rõ con người và chí hướng của Lưu Bị, ông mới đồng ý hạ sơn, quyết tâm đem tài năng của mình để "cưỡng lại ý Trời". Nhân vật Gia Cát Lượng cũng hiểu rõ sức người thì khó mà chống lại ý Trời, nhưng ông mong rằng sự trung nghĩa của mình cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của Lưu Bị có thể cảm động lòng Trời mà giữ lại thiên mệnh cho nhà Hán. Ngay trước khi Gia Cát Lượng hạ sơn phò tá Lưu Bị, Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy đã hiểu rõ ý định của Gia Cát Lượng là rất gian nan, rất khó thành công và than thở: "Ngọa Long gặp được minh chủ (Lưu Bị) nhưng không gặp thời, tiếc thay!"