Bản ghi chép sớm nhất về tiếng Kurd Kurmanji có từ khoảng thế kỷ 16 và nhiều nhà thơ người Kurd nổi tiếng như Ahmad Khani (1650-1707) cũng đã viết theo phương ngữ này.[8][20] Tiếng Kurd Kurmanji cũng là phương ngữ đại chúng và nghi lễ của người Yazidi.[21] Cuốn sách thiêng liêng của họ Mishefa Reş và tất cả những lời cầu nguyện được viết và nói bằng tiếng Kurmanji.[22]
Các đặc điểm âm vị học trong tiếng Kurmanji bao gồm sự phân biệt giữa các tâm tắc vô thanh bật hơi và phi bật hơi và sự hiện diện của các âm vị tự do.[23][24] Ví dụ, tiếng Kurd Kurmanji phân biệt giữa các âm tắc vô thanh bật hơi và phi bật hơi, âm bật hơi có thể xuất hiện ở bất kỳ vị ví nào trong từ. Do đó /p/ tương phản với /pʰ/, /t/ với /tʰ/, /k/ với /kʰ/, /q/ với /qʰ/, và âm tắc xát /t͡ʃ/ với /t͡ʃʰ/.
Trong số một số cộng đồng Yazidi, tên gọi Ezdîkî được sử dụng cho Kurmanji để thể hiện nỗ lực xóa mối liên kết của họ với người Kurd. Mặc dù Ezdîkî không khác với Kurmanji,[21][27][28][29][30] những nỗ lực này nhằm chứng minh rằng Ezdîkî là một ngôn ngữ độc lập bao gồm tuyên bố rằng nó là ngôn ngữ Semit. Điều này đã bị chỉ trích là không dựa trên bằng chứng khoa học và thiếu sự đồng thuận khoa học.[31]
Vào ngày 25 tháng 1 năm 2002, Armenia đã phê chuẩn Hiến chương châu Âu về ngôn ngữ địa phương hoặc thiểu số và đặt ngôn ngữ Kurd dưới sự bảo vệ của nhà nước.[32] Tuy nhiên, vì cộng đồng Yazidi bị chia rẽ ở Armenia và sau những chỉ trích mạnh mẽ từ các bộ phận cộng đồng, chính quyền đã chọn phê chuẩn điều lệ bằng cách đề cập đến cả "Kurdish" và "Yezidi" là hai ngôn ngữ riêng biệt.[33] Điều này dẫn đến thuật ngữ Êzdîkî được một số nhà nghiên cứu sử dụng khi đi sâu vào câu hỏi về ngôn ngữ thiểu số ở Armenia, vì hầu hết những người nói tiếng Kurd ở Armenia là từ nhóm Yazidi.[34] Do hậu quả của động thái này, các trường đại học Armenia cung cấp các khóa học ngôn ngữ ở cả Kurmanji và Êzdîkî như hai nhóm phương ngữ khác nhau.[35]
^“Social Contract - Sa-Nes”. Self-Administration of North & East Syria Representation in Benelux. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
^Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Northern Kurdish”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
^Ferhenga Kurmancı̂-Inglı̂zı̂ (bằng tiếng Kurdish). Yale University Press. 2003.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
^Captain R. E. Jardine (1922). Bahdinan Kurmanji - A grammar of the Kurmanji of the Kurds of Mosul division and surrounding districts of Kurdistan. Baghdad: Government Press. tr. ii.
^Arakelova, Victoria (2001). “Healing Practices among the Yezidi Sheikhs of Armenia”. Asian Folklore Studies. 60 (2): 319–328. doi:10.2307/1179060. JSTOR1179060. As for their language, the Yezidis themselves, in an attempt to avoid being identified with Kurds, call it Ezdiki.
^“Kurdish linguistics: a brief overview”(PDF). Sprachtypologie und Universalienforschung. Berlin. 55 (1): 5. 2002. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2013.
^Regional variation in Kurmanji: A preliminary classification of dialects, 2014
^Majid Hassan Ali (ngày 15 tháng 2 năm 2019). “The identity controversy of religious minorities in Iraq: the crystallization of the Yazidi identity after 2003”. British Journal of Middle Eastern Studies. Routledge: 8. doi:10.1080/13530194.2019.1577129. ISSN1353-0194.