Tên của nhóm là sự kết hợp giữa 'æ' lấy từ "'Avatar X Experience' & 'Aspect' (khía cạnh)". Ý nghĩa ẩn sau của nó nghĩa là nhiều hoạt động sáng tạo đa dạng theo chủ đề "Trải nghiệm một thế giới mới thông qua cuộc gặp gỡ với 'avatar', con người khác của bạn".
Ningning là thành viên của SM Rookies và được giới thiệu với công chúng vào ngày 19 tháng 9 năm 2016. Là một phần của nhóm trước khi ra mắt, cô đã xuất hiện trong phân đoạn "Rookies Princess: Who's the Best?" của chương trình My SMT vào năm 2016 cũng như đã thu âm một số bài hát cover cho chương trình hoạt hình "Shining Star" vào năm 2017.[2]
Karina xuất hiện trong bài hát "WANT" của tiền bối cùng công ty Taemin vào tháng 2 năm 2019 và biểu diễn cùng anh trên một số chương trình âm nhạc trong những tuần sau đó.[3]
Ngày 25 tháng 10 năm 2020, SM Entertainment công bố sẽ ra mắt nhóm nhạc nữ mới với tên gọi aespa,[4] dự án đầu tiên của Vũ trụ Văn hóa SM (SM Culture Universe), đây là lần đầu tiên 1 nhóm nhạc nữ mới ra đời sau 6 năm kể từ khi Red Velvet ra mắt vào năm 2014 và là nhóm nhạc thần tượng tổng thể đầu tiên kể từ NCT vào năm 2016.[5] Tên nhóm là sự kết hợp của các từ tiếng Anh "avatar" (hóa thân), "experience" (trải nghiệm) và "aspect" (khía cạnh), với ý nghĩa "hóa thân thành một khía cạnh khác để trải nghiệm thế giới mới".[4] Từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 10, các thành viên của nhóm – Winter, Karina, Ningning, Giselle [6] – lần lượt được giới thiệu.[7][8] Ngày 17 tháng 11, aespa ra mắt công chúng vào với đĩa đơn đầu tay "Black Mamba".[9][10] Nhóm biểu diễn bài hát lần đầu tiên trên chương trình âm nhạc hàng tuần Music Bank của đài KBS vào ngày 20 tháng 11.[11] "Black Mamba" đã dẫn đầu bảng xếp hạng video âm nhạc K-pop của dịch vụ phát nhạc trực tuyến hàng đầu Trung Quốc QQ Music trong 3 tuần liền. Sau 2 tháng kể từ khi ra mắt, nhóm đã có chiến thắng đầu tiên trên chương trình âm nhạc hàng tuần Inkigayo của đài SBS với "Black Mamba".[12] Bài hát cũng giúp nhóm đạt 2 giải thưởng: Nghệ sỹ nước ngoài xuất sắc nhất tại Asian Pop Music Awards và Tân binh của năm (nhạc số) tại Gaon Chart Music Awards.
Ngày 5 tháng 2 năm 2021, aespa phát hành đĩa đơn thứ 2 "Forever", một bản làm lại (remake) bài hát cùng tên của Yoo Young-jin được phát hành trong album Winter Vacation in SMTOWN vào năm 2000. "Forever" là một bản ballad có ca từ ấm áp. Sản phẩm hứa hẹn sẽ cho khán giả thấy một khía cạnh hoàn toàn khác của aespa so với ca khúc đầu tay có giai điệu dance mạnh mẽ "Black Mamba".[13]
Ngày 17 tháng 5, aespa phát hành đĩa đơn thứ ba "Next Level". Về phần âm nhạc, "Next Level" là phiên bản làm lại từ bài hát nhạc phim cùng tên của bộ phim Fast & Furious: Hobbs & Shaw. Tuy nhiên, phiên bản của aespa vẫn mang màu sắc hoàn toàn mới lạ.[14] Đây là 1 ca khúc hip hop dance nổi bật với phần rap và phần bass tràn đầy năng lượng. Bên cạnh đó, lời bài hát kể một câu chuyện thú vị về thế giới quan, nơi mà hành trình đi đến Kwangya để tìm kiếm Black Mamba - một sự tồn tại đã cản trở sự kết nối của aespa và khiến thế giới trở nên hỗn loạn.[15] Vào ngày 22 tháng 7 năm 2021, aespa ký hợp đồng với Creative Artists Agency (CAA), một trong những công ty truyền thông giải trí lớn nhất nước Mỹ. Dựa trên mạng lưới toàn cầu của CAA, aespa có kế hoạch hoạt động tích cực hơn trên thị trường âm nhạc quốc tế, đặc biệt là ở Mỹ.[16] Phiên bản remix của "Next Level" đã được phát hành vào ngày 14 tháng 9 thông qua dự án âm nhạc "iScreaM" của nhãn đĩa EDM trực thuộc SM ScreaM Records[17].
Ngày 5 tháng 10, aespa phát hành đĩa mở rộng đầu tay Savage. Đĩa gồm 6 bài hát, bao gồm cả đĩa đơn chính cùng tên.[18]Savage là album đầu tiên và album đạt thứ hạng cao nhất của nhóm trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ tại vị trí thứ 20, cũng như album đạt vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Gaon Album Chart của nhóm ở vị trí thứ nhất. Chỉ sau 15 ngày phát hành, EP đầu tay của nhóm đã tẩu tán được 513,292 bản, một thành tích đáng nể đối với một nhóm nhạc nữ mới ra mắt chưa đầy 1 năm. aespa đã tham gia biểu diễn tại Macy's Thanksgiving Day Parade - lễ hội mừng ngày Lễ Tạ ơn lớn nhất của nước Mỹ, trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên trong lịch sử góp mặt tại sự kiện này.[19]
Vào ngày 4 tháng 11, SM Entertainment thông báo aespa sẽ phát hành phiên bản làm lại (remake) của "Dreams Come True" dựa trên bản gốc của nhóm nhạc S.E.S. kết hợp với sự chỉ đạo sản xuất của giám đốc điều hành BoA vào ngày 20 tháng 12.[20] Bài hát được chọn làm 1 trong 2 ca khúc chủ đề cho album mùa đông của đại gia đình SM 2021 Winter SMTOWN: SMCU Express, ra mắt vào ngày 27 tháng 12 cùng năm. Ngày 2 tháng 12, aespa giành giải thưởng cao quý đầu tiên trong sự nghiệp với Daesang (Stage of the Year) tại Asia Artist Awards. 2 ngày sau, nhóm tiếp tục giành được Daesang (Record of the Year) tại MelOn Music Awards.
Ngày 26 tháng 12, 2 thành viên Karina và Winter trở thành thành viên của nhóm nhạc dự án Got the Beat. Sân khấu đặc biệt của bài hát ra mắt "Step Back" được lộ diện trong concert ''SMTOWN Live 2022: SMCU Express @ KWANGYA'' vào ngày 1 tháng 1 năm 2022.[21] Bài hát sau đó đã được phát hành trên các trang nhạc số vào ngày 3 tháng 1.
Ngày 8 tháng 1 năm 2022, aespa giành được giải thưởng Nghệ sỹ xuất sắc nhất tại lễ trao giải Golden Disc Awards lần thứ 36.[22] Vào ngày 1 tháng 3, "Next Level" đã giúp nhóm giành được giải thưởng Bài hát của năm tại Korean Music Awards.[23] Vào ngày 19 tháng 4, aespa thông báo rằng nhóm sẽ biểu diễn vào tuần thứ 2 của lễ hội hàng năm Coachella vào ngày 23 tháng 4 với các màn trình diễn "Savage", "Next Level", "Black Mamba" và phiên bản tiếng Anh của bài hát mới chưa phát hành có tựa đề "Life's Too Short", nằm trong album sắp tới của nhóm.[24] Ngày 22 tháng 5, bản OST "Once Again" với sự góp giọng của 2 thành viên Winter và Ningning cho bộ phim Our Blues đã được phát hành trên các nền tảng âm nhạc trực tuyến.[25] Vào ngày 27 tháng 5, aespa vinh dự được lựa chọn vào danh sách "Những gương mặt xuất sắc dưới tuổi 30" (30 Under 30 Asia) của Forbes.[26]
Vào ngày 1 tháng 6 năm 2022, SM Entertainment thông báo rằng họ đã ký kết hợp tác toàn cầu với Warner Records.[27] Họ cũng thông báo rằng aespa sẽ phát hành đĩa đơn mở rộng thứ 2 Girls vào ngày 8 tháng 7. Album bao gồm 9 bài hát, trong đó có bài hát chủ đề cùng tên và 3 bài hát đã được phát hành trước đó là "Black Mamba", "Forever" và "Dreams Come True". 2 bài hát khác trong Girls, "Illusion" và "Life's Too Short" sẽ được phát hành trước lần lượt vào ngày 1 và 24 tháng 6.[28] Trước khi phát hành, album đã ghi nhận 1,610,000 đơn đặt hàng trước, xác lập kỷ lục mới đối với một nhóm nhạc nữ K-Pop vào thời điểm đó.[29]Girls tiếp tục ra mắt tại vị trí số 1 trên Circle Album Chart với 1,426,487 bản, giúp nhóm đạt được chứng nhận Triệu bản (Million) từ Hiệp hội âm nhạc Hàn Quốc (KMCA).[30] Trên bảng xếp hạng Billboard 200, Girls ra mắt ở vị trí thứ 3 với 56,000 đơn vị, trở thành album bán chạy nhất trong tuần.[31]
SM Entertainment thông báo rằng aespa sẽ có buổi lưu diễn đầu tiên ở Nhật Bản mang tên "aespa Japan Premium Showcase 2022 ~SYNK~" vào ngày 6, 7 tháng 8 tại Pia Arena MM, Yokohama.[32] Vào ngày 7 tháng 6, nhóm đã công bố buổi lưu diễn thứ hai, cũng là buổi biểu diễn đầu tiên tại Hoa Kỳ, mang tên "aespa Showcase SYNK in LA!" diễn ra vào ngày 26 tháng 6 tại YouTube Theatre.[33] Vào ngày 14 tháng 6, một buổi biểu diễn bổ sung đã được công bố vào ngày 27 tháng 6, sau khi vé của ngày đầu tiên đã được bán hết.[34] Nhóm cũng được lựa chọn là nghệ sĩ tháng 6 bởi Apple Music cho phần "Up Next".[35]
Vào ngày 5 tháng 7, aespa đã có bài phát biểu và biểu diễn tại Diễn đàn chính trị cấp cao của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững.[36] 3 ngày sau, nhóm biểu diễn tại Good Morning America's Summer Concert Series ở Central Park, trong đó có màn trình diễn đầu tiên của ca khúc mới "Girls".[37] Vào ngày 23 tháng 10, aespa đã có một buổi biểu diễn ảo cho Crocs để kỷ niệm 20 năm thành lập trò chơi điện tử Roblox.[38] Ngày 14 tháng 12, nhóm đã phát hành đĩa đơn "Beautiful Christmas" hợp tác cùng Red Velvet nằm trong album mùa đông của SM 2022 Winter SMTOWN: SMCU Palace.[39]
2023: Chuyến lưu diễn đầu tiên, "Hold On Tight", ra mắt album My World và Drama
Vào ngày 18 tháng 1 năm 2023, aespa được công bố là nghệ sĩ biểu diễn tại lễ hội âm nhạc thường niên Governors Ball ở thành phố New York, trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên tham gia lễ hội này.[40] Vào ngày 25 và 26 tháng 2, nhóm tổ chức buổi hòa nhạc đầu tiên "SYNK: HYPER LINE" diễn ra tại Nhà thi đấu Jamsil ở Seoul, Hàn Quốc.[41] Ngày 7 tháng 3, aespa góp mặt trong đội hình chính thức của lễ hội âm nhạc quốc tế Outside Lands diễn ra tại San Francisco, Hoa Kỳ, trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên làm được điều này.[42] Từ tháng 3 đến tháng 4, nhóm tiếp tục chuyến lưu diễn "SYNK: HYPER LINE" của mình tại Nhật Bản, thu hút tổng cộng 110.000 khán giả xuyên suốt 10 buổi biểu diễn tại các thành phố Osaka, Tokyo, Saitama và Aichi.[43] Trong show diễn tại Nhà thi đấu Quốc gia Yoyogi ở Tokyo, aespa thông báo rằng nhóm sẽ tổ chức 2 đêm biểu diễn tại sân vận động Tokyo Dome nổi tiếng của Nhật Bản, trở thành nghệ sĩ ngoại quốc tổ chức concert tại đây nhanh nhất trong lịch sử sau khi ra mắt.[44]
Ngày 26 tháng 3, SM Entertainment thông báo aespa sẽ phát hành đĩa đơn mới có tựa đề "Hold On Tight", một ca khúc pop điện tử kết hợp với nhịp điệu tràn đầy năng lượng cho bộ phim Tetris của Apple.[45] Bài hát chính thức có mặt trên toàn cầu vào ngày 31 tháng 3.[46]
Vào ngày 27 tháng 4, aespa thông báo sẽ tham dự Liên hoan phim Cannes 2023 với tư cách là Đại sứ toàn cầu cho thương hiệu Chopard.[47] Ngày 8 tháng 5, nhóm phát hành đĩa đơn mở rộng thứ 3 MY WORLD, với bài hát "Welcome to MY World" đã được phát hành trước vào ngày 2 tháng 5 và đĩa đơn chính "Spicy" được phát hành cùng với EP.[48]MY WORLD ra mắt ở vị trí số 1 trên Circle Album Chart với 1,420,178 bản bán ra.[49] 2 tuần sau khi phát hành, album đạt doanh số 2,011,388 bản, giúp aespa trở thành nhóm nhạc nữ thế hệ thứ 4 đầu tiên và là nhóm nhạc nữ K-Pop thứ hai đạt được cột mốc này.[50] Vào ngày 10 tháng 5, SM Entertainment thông báo rằng nhóm sẽ tiếp tục chuyến lưu diễn "SYNK: HYPER LINE" với một buổi biểu diễn tại Jakarta, Indonesia vào ngày 24 tháng 6.[51] Ngày 19 tháng 5, 14 buổi biểu diễn trải dài từ Bắc Mỹ qua Nam Mỹ và Châu Âu đã được bổ sung.[52]
Ngày 8 tháng 6, aespa ném bóng mở màn cho đội bóng chày New York Yankees trong trận đấu với Chicago White Sox tại sân vận động Yankee.[53] Ngày 18 tháng 8, aespa phát hành đĩa đơn tiếng Anh "Better Things". Better Things là một ca khúc thuộc thể loại uptempo dance có tiết tấu nhanh, tối giản, giai điệu vui tươi dễ nhớ và có khả năng "gây mê" cao. Lời bài hát cổ vũ người nghe tập trung vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống và đừng lãng phí thời gian cho những người không xứng đáng.[54]
Ngày 10 tháng 11, aespa tiếp tục cho ra mắt mini-album thứ tư mang tên Drama, với ca khúc chủ đề cùng tên. Ca khúc chủ đề "Drama" thuộc thể loại Hip-hop Dance thể hiện thái độ đầy tự tin rằng tất cả mọi câu chuyện đều bắt nguồn từ chính bản thân mỗi người, kết hợp với giai điệu bắt tai, lời rap đầy cá tính cùng những nốt cao mạnh mẽ hứa hẹn sẽ làm khán giả thích thú với năng lượng bùng nổ của aespa.[55] Ngày 16 tháng 11, Winter đã có màn hợp tác với Soyeon và Liz để trình diễn cho ca khúc "Nobody".[56]
2024–nay: Chuyến lưu diễn thứ hai, Armageddon và Whiplash
Ngày 15 tháng 1 năm 2024, Aespa cho ra mắt phiên bản làm lại của ca khúc "Regret of the Times", đĩa đơn của nhóm nhạc Seo Taiji and Boys.[57] Đến ngày 19 tháng 2 cùng năm, nhóm sẽ bắt đầu chuyến lưu diễn thứ hai của mình mang tên Synk: Parallel Line, với đêm diễn đầu tiên dự kiến sẽ diễn ra vào các ngày 29 và 30 tháng 6 tại Seoul.[58]
Ngày 21 tháng 4, Aespa sẽ cho ra mắt album phòng thu đầu tay trong sự nghiệp mang tên Armageddon, với ngày ra mắt album được ấn định là ngày 27 tháng 5. Album bao gồm "Supernova" – ca khúc chủ đề đầu tiên ra mắt vào ngày 13 tháng 5, và "Armageddon" – ca khúc chủ đề thứ hai cùng tên ra mắt cùng thời điểm ra mắt album.[59] Sau khi ra mắt, "Supernova" gặt hái thành công về mặt thương mại ở Hàn Quốc và đạt được thành tích Perfect All-Kill, khi ca khúc đồng thời đạt vị trí số một trên các thành phần thời gian thực, hàng ngày và hàng tuần của iChart.[60] Bên cạnh đó, "Supernova" còn trở thành bài hát đầu tiên của nhóm đứng đầu bảng xếp hạng Circle Digital Chart[61] và là ca khúc hit top 10 đầu tiên của nhóm trên Billboard Global Excl. U.S. khi đạt vị trí thứ sáu.[62]
Ngày 3 tháng 6 năm 2024, nguồn tin xác nhận rằng Aespa sẽ cho ra mắt đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên mang tên "Hot Mess", được phát hành vào ngày 3 tháng 7 cùng năm. Album đĩa đơn này đã đánh dấu lần đầu tiên ra mắt tại Nhật Bản của nhóm, ngoài ra trong album còn gồm có hai bài hát khác mang tên "Sun and Moon" và "Zoom Zoom", bài hát sau được phát hành trước đó vào ngày 6 tháng 10 năm 2023, là ca khúc chủ đề kết thúc của loạt phim và thương hiệu anime Beyblade X.[63] Ngày 23 tháng 9 năm 2024, Aespa sẽ cho ra mắt mini-album thứ năm mang tên Whiplash, dự kiến phát hành vào ngày 21 tháng 10 cùng năm. Giống như những mini-album khác, album cũng có sáu ca khúc, trong đó có ca khúc chủ đề cùng tên.[64]
Forbes, một tạp chí kinh tế hàng đầu của Mỹ cho biết: "aespa ra mắt chưa đầy một năm nhưng đã đạt được thành công vượt xa Hàn Quốc. Album đầu tiên của nhóm bốn thành viên, lần đầu tiên xuất hiện trên bảng xếp hạng Billboard tuần này, là một chiến thắng quan trọng và to lớn ngay cả so với kỷ lục của tất cả các ca sĩ nữ ở Hàn Quốc."
Ngoài ra, Savage cũng lọt vào vị trí thứ 20 trên bảng xếp hạng Billboard 200, trở thành một trong những album của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc thành công nhanh nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Trước đó, với Savage, aespa đã lần đầu tiên lọt vào bảng xếp hạng chính của Billboard Hoa Kỳ Billboard 200 và Artist 100, Top Current Album Sales, Taste Maker Album, World Digital Song Sales, Billboard Global (Excl. US) và Billboard Global 20, lọt vào tổng cộng 10 bảng xếp hạng.
Ngoài ra, aespa đã ghi nhận doanh số 510.000 bản trong vòng 15 ngày kể từ khi phát hành mini album đầu tiên Savage, trở thành 'Người bán hàng nửa triệu bản' cũng như đạt No.1 trên Bảng xếp hạng Gaon Album Chart, 8 chiến thắng trên các chương trình âm nhạc và đứng vị trí số 1 trên United World Chart.
Vào năm 2021, aespa đã giành được 3 giải Daesang: Bài hát của năm tại Korean Music Awards, Bản thu âm của năm tại MelOn Music Awards và Sân khấu của năm tại Asia Artist Awards với thành công rực rỡ của "Next Level" và "Savage". Đồng thời, aespa được chọn cùng với Hwang Dong Hyuk, Yoon Yuh Jung, PD Choi Jung Nam, Yoo Jae Suk và BTS là 6 nhân vật có tầm nhìn trong năm 2021 của ngành giải trí trong và ngoài nước.
aespa là nhóm nhạc thế hệ thứ 4 đầu tiên chạm tay đến vị trí No.1 bảng xếp hạng MelOn 24Hits. Với "Savage", aespa đã đạt được chứng nhận PAK (Perfect All-Kill) danh giá trên bảng xếp hạng iChart, nhóm cũng là nhóm nhạc thế hệ thứ 4 đầu tiên chạm tay đến chứng nhận này.
Vào ngày 9 tháng 6 năm 2022, chỉ sau 7 ngày mở bán, đĩa đơn mở rộng thứ 2 Girls đã ghi nhận 1 triệu đơn đặt hàng trước. Thành tích này giúp aespa trở thành nhóm nhạc nữ thứ 2 trong lịch sử Hàn Quốc và nhóm nhạc nữ thế hệ thứ 4 đầu tiên đạt được con số 1 triệu bản pre-order. Con số này đã tăng lên 1,61 triệu trước khi album được chính thức phát hành.
Ngày 8 tháng 5 năm 2023, ngay trước khi phát hành, đĩa đơn mở rộng thứ 3 MY WORLD cán mốc hơn 1,8 triệu đơn đặt hàng trước, qua đó phá kỷ lục của chính nhóm, đồng thời đây cũng là album có lượng pre-order cao thứ 2 trong số các nhóm nhạc nữ K-Pop.
^My World did not enter ARIA Top 100 Albums Chart, but peaked at number seven on the Hitseekers Albums Chart, and number 15 on the Digital Album Chart.[87]
^ abIncludes the BillboardK-pop Hot 100 (defunct as of 2022), and South Korea Songs (part of Billboard's Hits of the World (2022 onwards)).
^Originally released for SM Entertainment Winter Vacation in SMTOWN.com holiday album, titled "Forever (아이의 크리스마스 선물을 준비하는 아빠들에게)"
^"Forever" did not enter the Gaon Digital Chart, but debuted and peaked at position 28 and position 63 on component Download Chart and BGM Chart, respectively.[105][106]
^"Dreams Come True" did not enter RIAS Top Streaming Chart, but peaked at position 8 on RIAS Top Regional Chart.[108]
^"Illusion" did not enter RIAS Top Streaming Chart, but peaked at position 22 on RIAS Top Regional Chart.[109]
^"Life's Too Short" did not enter RIAS Top Streaming Chart, but peaked at position 17 on RIAS Top Regional Chart.[110]
^"Welcome to My World" did not enter RIAS Top Streaming Chart, but peaked at position 26 on RIAS Top Regional Chart.[111]
^"Next Level (Habstrakt Remix)" không lọt vào Gaon Digital Chart, nhưng ra mắt ở vị trí 183 trên Download Chart.[115]
^"Lingo" did not enter the Circle Digital Chart, but debuted at position 73 on the component Download Chart.[116]
^"ICU" did not enter the Circle Digital Chart, but debuted at position 68 on the component Download Chart.[116]
^"Girls (Brllnt Remix)" did not enter the Circle Digital Chart, but debuted at position 165 on the component Download Chart.[117]
^Credited as aespa but only features Winter and Ningning.
^"Hold On Tight" did not enter the Circle Digital Chart, but debuted at position 116 on the component Download Chart.[122]
^"Hold on Tight" did not enter the RIAS Top Streaming Chart, but peaked at number 20 on the RIAS Top Regional Chart.[123]
^Tên gọi của buổi biểu diễn là "Aespa Showcase Synk in LA"
^Tên gọi của buổi biểu diễn là "Aespa Japan Premium Showcase 2022 ~Synk~"
^Moon Wan-sik (ngày 14 tháng 9 năm 2021). “에스파, 첫 미니앨범 'Savage' 10월 5일 발매..6곡 수록[공식]” [Aespa, First Mini Album 'Savage' Released on October 5th, 6 Songs Included [Official]] (bằng tiếng Hàn). Star News. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021 – qua Naver.
^Park, So-young (11 tháng 11 năm 2023). “에스파 윈터, (여자)아이들 소연x아이브 리즈와 유닛 결성..단언컨대 역대급” [Aespa's Winter, (G)I-DLE's Soyeon and Ive's Liz forms unit...In short, the best ever] (bằng tiếng Hàn). OSEN. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2023 – qua Naver.
^Seo, Jeong-min (9 tháng 1 năm 2024). “에스파, 서태지와 아이들 '시대유감' 리메이크” [Aespa to remake Seo Taiji and Boys' 'Regrettable Times']. The Hankyoreh (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2024.
^Ji, Min-kyung (19 tháng 2 năm 2024). “에스파, 두 번째 월드 투어 개최 확정..6월 서울 이어 13개 지역 방문” [Aespa confirms second world tour, visiting 13 regions following Seoul in June] (bằng tiếng Hàn). Osen. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024 – qua Naver.
^Go, Seung-ah (27 tháng 5 năm 2024). 에스파, 오늘 '아마겟돈' 출격...선주문 102만장 돌파 [Aespa, sortie for 'Armageddon' today...Pre-orders exceed 1.02 million copies] (bằng tiếng Hàn). News1. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2024 – qua Naver.
^Kim, Ji-hye (3 tháng 6 năm 2024). “에스파, 이번엔 일본이다... 7월 3일 '핫 메스'로 정식 데뷔” [Aespa, now in Japan... debuting on July 3 with "Hot Mess"]. Ilgan Sports (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2024 – qua Naver.
^Sung, Jung-eun (23 tháng 9 năm 2024). “에스파, '위플래시'로 10월 21일 컴백...연타 히트 노린다” [Aespa, to comeback on October 21 with 'Whiplash'... aiming for continuous hits] (bằng tiếng Hàn). Maeil Kyungje. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024 – qua Naver.
^Con lai Nhật - Hàn, quốc tịch Nhật Bản (do Nhật Bản không cho phép công dân có 2 quốc tịch)
“Savage” (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. October 3–9, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2021 – qua Gaon Chart.
^“Savage”. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
^“Savage”. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
^Kim, Won-hee (ngày 21 tháng 10 năm 2021). 에스파 '새비지', 하프 밀리언셀러 등극 [Aespa 'Savage', Becomes a Half-Million Sellers]. Sports Kyunghyang (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021 – qua Naver.
^“Circle Certification - Album”. Circle Chart (bằng tiếng Hàn). 5 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2023.
週間 デジタルアルバムランキング 2023年11月20日付 [Oricon Weekly Digital Album Ranking as of November 20, 2023] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2023.
週間 デジタルアルバムランキング 2023年11月27日付 [Oricon Weekly Digital Album Ranking as of November 27, 2023] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2023.
^“Circle Certification - Album”. Circle Chart (bằng tiếng Hàn). 11 tháng 1 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2023.
“Next Level”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). ngày 26 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2021.
“Savage”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). ngày 13 tháng 10 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
“Life's Too Short”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). ngày 6 tháng 7 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
“Girls”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). ngày 13 tháng 7 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2022.
^Peak chart positions on RIM's Top 20 most streamed international & domestic songs in Malaysia:
“Black Mamba”. November 20–26, 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2021.
“Savage”. October 8–14, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2021 – qua Facebook.
“Black Mamba”. ngày 30 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2020.
^Peak chart positions on RIAS's Top Streaming Chart:
“Black Mamba”. November 20–26, 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2020.
“Next Level”. May 28 – ngày 3 tháng 6 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2021. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
“Savage”. October 8–14, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
“Black Mamba”. Billboard. November 22–28, 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2020.
“Forever”. Billboard. February 14–20, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2021.
“Next Level”. Billboard. May 23–29, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2021.
“Savage”. Billboard. October 17–23, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
“Dreams Come True”. Billboard. ngày 26 tháng 12 năm 2021 – ngày 1 tháng 1 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2021. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
“Black Mamba”. Billboard. November 29 – ngày 5 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2021. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
“Next Level”. Billboard. May 30 – ngày 5 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2021. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
“Savage”. Billboard. October 17–23, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
“Dreams Come True”. Billboard. January 9–15, 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2022.
“Life's Too Short”. Billboard. ngày 9 tháng 7 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
^Peak chart positions for singles on the Gaon Digital Chart, now the Circle Digital Chart:
“Black Mamba”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). November 29 – ngày 5 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2020. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
“Next Level”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). June 13–19, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2021.
“Savage”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). October 10–16, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2021.
“Dreams Come True”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). January 9–15, 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.
“Illusion”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). May 29 – ngày 4 tháng 6 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
“Life's Too Short (English Version)”. Circle Chart (bằng tiếng Hàn). June 26 – ngày 2 tháng 7 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2022. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
^“2021년 06주차 Download Chart” [Week 6 of 2021 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). January 31 – ngày 6 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
^“2021년 06주차 BGM Chart” [Week 6 of 2021 BGM Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). January 31 – ngày 6 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
“All non-single tracks from Savage”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). October 3–9, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2021.
“Life's Too Short”. Circle Chart (bằng tiếng Hàn). July 10–16, 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2022.
“Salty & Sweet”. Circle Chart (bằng tiếng Hàn). May 21–27, 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2023.
“Thirsty”. Circle Chart (bằng tiếng Hàn). May 28 – June 3, 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023.
“Thirsty”. Billboard Vietnam. May 12–18, 2023. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2023.Quản lý CS1: định dạng ngày tháng (liên kết)
^2021년 38주차 Download Chart [2021, Week 38 Download Chart] (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. September 12–18, 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
^ ab“ICU and Lingo”. Circle Chart (bằng tiếng Hàn). July 3–9, 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2022.
^Download Chart – 2022 Weeks 43 (bằng tiếng Hàn). Circle Chart. October 16–22, 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2022.
^Download Chart – 2023 Weeks 13 (bằng tiếng Hàn). Circle Chart. March 26 – April 1, 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2023.
^Lee, Tae-soo (ngày 28 tháng 6 năm 2022). “에스파 미국 LA 쇼케이스서 현지 팬 1만명 환호” [10,000 local fans cheered at Aespa's LA showcase]. Yonhap News Agency (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022 – qua Naver.
^Hwang Ji-young (ngày 1 tháng 1 năm 2021). “SM타운 라이브, 오늘(1일) 전 세계 무료 중계” [SM Town Live, free broadcast worldwide today (1 day)] (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2021 – qua Naver.
^Hye-jin, Jo (ngày 23 tháng 12 năm 2021). “보아→에스파, 'SMTOWN LIVE' 1월 1일 전 세계 무료 중계” (bằng tiếng Hàn). BoA → Aespa, 'SMTOWN LIVE' broadcast free worldwide on January 1 biên dịch. X-port News. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2021 – qua Naver.
^Lee, Jae-eun (ngày 12 tháng 7 năm 2022). “SMTOWN LIVE, 소녀시대→NCT·에스파 출연” [SMTOWN LIVE, Girls' Generation → NCT·Aespa Appearance] (bằng tiếng Hàn). Sports Kyunghyang. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2022 – qua Naver.
^Kim, Jae-won (ngày 30 tháng 11 năm 2022). “'SMCU 팰리스' 프로젝트 서막 연다” ['SMTOWN Palace' project raise the curtain] (bằng tiếng Hàn). Sports World. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2022 – qua Naver.
^“[제6회 동아닷컴's PICK] 에스파, 넥스트레벨 어디까지:: 네이버 TV연예”. web.archive.org. 5 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
^“2022 Korea First Brand Awards”. web.archive.org. 1 tháng 11 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
^“The 31st Seoul Music Awards”. web.archive.org. 3 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
Zanac được mô tả là một người bất tài trong mắt nhiều quý tộc và dân thường, nhưng trên thực tế, tất cả chỉ là một mưu mẹo được tạo ra để đánh lừa đối thủ của anh ta