BTS

BTS
Thông tin nghệ sĩ
Tên gọi khác
  • Bangtan Boys
  • Bangtan Sonyeondan
  • Beyond the Scene
  • Bulletproof Boy Scouts
Nguyên quánSeoul, Hàn Quốc
Thể loại
Năm hoạt động2013 (2013)–nay
Hãng đĩa
Thành viên
Websitebts.ibighit.com
Tên tiếng Hàn
Hangul
Hanja
Tên tiếng Nhật
Kanji防弾少年団
Hiraganaぼうだんしょうねんだん

BTS (Tiếng Hàn방탄소년단; RomajaBangtan Sonyeondan), còn được gọi là Bangtan Boys, là một nhóm nhạc nam Hàn Quốc do Big Hit Entertainment thành lập vào năm 2010. Nhóm bao gồm 7 thành viên: Jin, Suga, J-Hope, RM, Jimin, VJungkook, họ đều là những người tham gia đồng sáng tác và sản xuất phần lớn các sản phẩm âm nhạc của họ. Khởi đầu là một nhóm nhạc hip hop, phong cách âm nhạc của nhóm đã dần phát triển để thể hiện nhiều thể loại đa dạng; trong đó ca từ của họ thường đề cập đến vấn đề sức khỏe tinh thần, những rắc rối của tuổi học đường và tuổi thành niên, sự mất mát, hành trình hướng tới tình yêu bản thân và chủ nghĩa cá nhân. Ngoài ra, các sản phẩm của họ còn thường đề cập đến khái niệm văn học và tâm lý học, đồng thời bao gồm một cốt truyện vũ trụ song song.

BTS ra mắt vào năm 2013 với album đĩa đơn 2 Cool 4 Skool. Họ lần lượt phát hành album phòng thu tiếng Hàn đầu tiên Dark & Wild và album phòng thu tiếng Nhật Wake Up vào năm 2014. Album phòng thu tiếng Hàn thứ hai Wings (2016) là album đầu tiên của nhóm bán được 1 triệu bản tại Hàn Quốc. Đến năm 2017, BTS thâm nhập vào thị trường âm nhạc toàn cầu và dẫn đầu làn sóng Hàn Quốc vào Hoa Kỳ, trở thành nhóm nhạc Hàn Quốc đầu tiên được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) trao chứng nhận Vàng cho đĩa đơn "Mic Drop" cũng như là nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard 200 của Hoa Kỳ với album phòng thu Love Yourself: Tear (2018). Năm 2020, BTS trở thành một trong số ít nhóm nhạc kể từ The Beatles có được 4 album quán quân tại Hoa Kỳ trong vòng chưa đầy 2 năm với Love Yourself: Answer (2018) trở thành album Hàn Quốc đầu tiên được RIAA trao chứng nhận Bạch kim; cùng năm, họ cũng trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên đạt vị trí số 1 trên cả hai bảng xếp hạng Billboard Hot 100Billboard Global 200 với "Dynamite"—đĩa đơn được đề cử giải Grammy. Các đĩa đơn kế tiếp bao gồm "Savage Love", "Life Goes On", "Butter" và "Permission to Dance" đã đưa họ trở thành nghệ sĩ nhanh nhất tích lũy được 4 đĩa đơn quán quân tại Hoa Kỳ kể từ Justin Timberlake vào năm 2006.

Tính đến năm 2023, BTS là nghệ sĩ bán chạy nhất trong lịch sử Hàn Quốc theo Circle Chart với hơn 40 triệu bản album bán ra.[2] Album phòng thu Map of the Soul: 7 (2020) của nhóm là album bán chạy nhất tại Hàn Quốc cũng như album đầu tiên tại Hàn Quốc bán được hơn 4 và 5 triệu bản. Họ là nghệ sĩ châu Á và không nói tiếng Anh đầu tiên tổ chức các buổi hòa nhạc cháy vé tại sân vận động Wembleysân vận động Rose Bowl thuộc khuôn khổ Love Yourself World Tour năm 2019, đồng thời được Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IFPI) vinh danh là Nghệ sĩ thu âm toàn cầu của năm trong cả năm 2020 và 2021. Các giải thưởng của nhóm bao gồm nhiều giải American Music Awards, Billboard Music Awards, Golden Disk Awards và năm đề cử giải Grammy. Ngoài âm nhạc, họ còn phát biểu tại 3 phiên họp của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc và hợp tác với UNICEF vào năm 2017 để thành lập chiến dịch chống bạo lực Love Myself. Xuất hiện trên trang bìa tạp chí Time với tư cách là "Những nhà lãnh đạo thế hệ tương lai" và được mệnh danh là "Những chàng hoàng tử nhạc Pop", BTS còn được vinh danh trong danh sách 25 nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên mạng xã hội (2017–2019) và 100 nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới (2019) của Time. Năm 2018, họ trở thành những người trẻ tuổi nhất từng được Tổng thống Hàn Quốc trao tặng Huân chương Văn hóa nhờ những đóng góp của nhóm trong việc lan tỏa văn hóa và ngôn ngữ Hàn Quốc.

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, nhóm thông báo tạm ngừng hoạt động nhóm để các thành viên có thể thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc trong 18 tháng, với dự định tái hợp vào năm 2025.[3] Jin, thành viên lớn tuổi nhất nhóm, nhập ngũ vào ngày 13 tháng 12 năm 2022; các thành viên còn lại lần lượt nhập ngũ vào năm 2023.

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

BTS là từ viết tắt của Bangtan Sonyeondan (Tiếng Triều Tiên: 방탄소년단; Hanja: 防彈少年團). Theo thành viên J-Hope, cái tên biểu thị cho mong muốn của nhóm về việc "ngăn chặn những định kiến, chỉ trích và sự kỳ vọng nhắm vào thanh thiếu niên như những viên đạn".[4][5][6] Tại Nhật Bản, BTS được gọi là Bōdan Shōnendan (防弾少年団 Bōdan Shōnendan?) với cùng cách dịch tương tự.[7] Tháng 7 năm 2017, BTS thông báo rằng tên của nhóm cũng sẽ là từ viết tắt của Beyond the Scene như là một phần trong bộ nhận diện thương hiệu mới của nhóm.[8] Điều này mở rộng ý nghĩa cho tên của nhóm để bao hàm khái niệm về sự phát triển "từ một thanh thiếu niên bước vào độ tuổi trưởng thành, mở ra những cánh cửa trên con đường phía trước".[9]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

2010–2014: Hình thành và phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]
BTS biểu diễn tại Incheon Music Center vào năm 2013.

BTS được lên kế hoạch thành lập vào năm 2010 sau khi CEO Bang Si-hyuk của Big Hit Entertainment mong muốn thành lập một nhóm nhạc hip hop với thành viên chủ chốt là RM (Kim Nam-joon), một rapper nổi tiếng thuộc giới underground ở Seoul. Vào thời điểm đó, doanh số bán album đang sụt giảm và doanh thu nhạc trực tuyến vẫn chưa thực sự đủ cao để bù đắp.[10] Nhận thấy nhu cầu về đa dạng hóa nguồn thu nhập, Bang Si-hyuk quyết định thành lập một nhóm nhạc thần tượng vì tiềm năng cho các buổi biểu diễn trực tiếp và sự ủng hộ nhiệt tình từ người hâm mộ của những nhóm nhạc này. Nhiều thực tập sinh sớm từ bỏ cơ hội ra mắt khi biết mình sẽ trở thành thành viên của một nhóm nhạc thần tượng, nhưng J-Hope, RM và Suga vẫn chọn ở lại.[10] Bang Si-hyuk chọn hướng đi khác biệt với các nhóm nhạc thần tượng thông thường và thành lập một nhóm nhạc mà trong đó mỗi thành viên có thể là các cá nhân thay vì một tập thể, cho phép họ tự do thể hiện bản thân.[11][12] Nhiều buổi thử giọng được tổ chức vào năm 2010 với kế hoạch ra mắt vào năm sau.[13][14] Các thành viên trong nhóm sống cùng nhau, luyện tập 15 giờ mỗi ngày và lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng vào năm 2013.[15]

Chúng tôi bắt đầu kể những câu chuyện mà mọi người muốn được nghe và sẵn sàng để nghe, những câu chuyện mà người khác không thể hoặc sẽ không kể. Chúng tôi nói lên những gì người khác đang cảm nhận—như nỗi đau, lo âu và muộn phiền. Đó là mục tiêu của chúng tôi, để tạo ra sự đồng cảm mà mọi người có thể liên hệ.

 —Suga, tạp chí Time.[16]

Ngày 12 tháng 6 năm 2013, BTS phát hành album đĩa đơn đầu tay 2 Cool 4 Skool với bài hát chủ đề "No More Dream", nhưng không mấy thành công.[17] Mặc dù vậy, theo Kathy Sprinkel trong cuốn sách của cô về BTS, đĩa đơn này "phản ánh sự lo lắng của giới trẻ khi đối mặt với những kỳ vọng cao cả của cha mẹ. [...] Cụ thể hơn, họ có quan điểm riêng và không ngần ngại thể hiện những chủ đề bị xem là điều cấm kỵ trong xã hội Hàn Quốc cũng như những nơi khác."[18] Album ra mắt trong top 5 trên Gaon Music Chart của Hàn Quốc.[19] Trong 2 Cool 4 Skool, BTS sử dụng dòng nhạc hip hop cổ điển mang âm hưởng từ những năm 1990.[20][21] Sản phẩm sau đó được quảng bá trên các chương trình âm nhạc Hàn Quốc, thu hút sự chú ý của giới phê bình và khán giả.[22][23]

Tháng 9 năm 2013, BTS phát hành phần thứ hai trong chuỗi album "chủ đề học đường" là mini album O!RUL8,2? với đĩa đơn "N.O".[24][25] Tương tự như 2 Cool 4 Skool, sản phẩm xoay quanh chủ đề về học sinh phải chịu nhiều áp lực và cần hy sinh ước mơ cũng như khát vọng của bản thân.[24] Cùng tháng, BTS tham gia chương trình thực tế Rookie King: Channel Bangtan của SBS MTV, trong đó có các thành viên tái hiện lại các chương trình như VJ Special ForcesMasterChef Korea.[26] Cuối năm, BTS được công nhận với nhiều giải Nghệ sĩ mới của năm tại Hàn Quốc.[27][28][29]

2014–2017

[sửa | sửa mã nguồn]

Skool Luv Affair và chuyến lưu diễn đầu tiên

[sửa | sửa mã nguồn]
Bên ngoài câu lạc bộ đêm Troubadour (ảnh chụp năm 2006), địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc miễn phí của BTS ở Hoa Kỳ.

Phần cuối cùng trong chuỗi album "chủ đề học đường", mini album Skool Luv Affair được phát hành vào tháng 2 năm 2014.[30] Sản phẩm dẫn đầu bảng xếp hạng Gaon Album Chart[31] và đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của BTS trên bảng xếp hạng World Albums của Billboard, đạt vị trí cao nhất là hạng 3.[30][32] Mini album bao gồm 2 đĩa đơn "Boy in Luv" và "Just One Day".[33] Sau khi phát hành Skool Luv Affair, BTS tổ chức buổi gặp gỡ người hâm mộ đầu tiên tại Seoul và công bố A.R.M.Y. là tên gọi chính thức cho cộng đồng người hâm mộ của nhóm.[34] Tháng 7 năm 2014, BTS lần đầu tiên biểu diễn tại Hoa Kỳ với buổi hòa nhạc miễn phí ở Tây Hollywood[35] và vào tháng 8, nhóm tham gia lễ hội âm nhạc KCONLos Angeles.[36]

Tháng 8 năm 2014, BTS phát hành album phòng thu tiếng Hàn đầu tiên Dark & Wild và đạt vị trí thứ hai tại Hàn Quốc.[33][37] Album bao gồm 2 đĩa đơn "Danger" và "War of Hormone".[33] BTS khởi động chuyến lưu diễn đầu tiên 2014 BTS Live Trilogy Episode II: The Red Bullet kể từ tháng 10 đến tháng 12.[38] Nhóm phát hành album phòng thu tiếng Nhật đầu tiên Wake Up vào tháng 12 cùng năm, đạt vị trí cao nhất là hạng 3 trên bảng xếp hạng Oricon Albums Chart.[39] Sau khi phát hành album, BTS khởi động chuyến lưu diễn Nhật Bản đầu tiên 1st Japan Tour 2015 Wake Up: Open Your Eyes vào tháng 2 năm 2015.[40] The Red Bullet Tour bắt đầu vào ngày 17 tháng 10 năm 2014 tại Hàn Quốc được khởi động vào ngày 6 tháng 6 năm 2015 ở Malaysia và lưu diễn ở Úc, Bắc Mỹ và Mỹ Latinh trước khi kết thúc ở Hồng Kông vào tháng 8 cùng năm. Tổng cộng, toàn bộ chuyến lưu diễn thu hút 80.000 khán giả tại 18 thành phố của 13 quốc gia.[41]

Đột phá và thành công thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

BTS bắt đầu thử nghiệm các thể loại âm nhạc khác ngoài hip hop trong The Most Beautiful Moment in Life, Pt. 1 được phát hành vào năm 2015.[33][42] BTS muốn thể hiện vẻ đẹp và nỗi lo lắng của tuổi trẻ thông qua cụm từ "花樣年華" (Tiếng Triều Tiên: 화양연화; RomajaHwayangyeonhwa), còn được hiểu theo một cách thức để định nghĩa "tuổi trẻ" là "khoảnh khắc đẹp nhất trong cuộc đời".[43] Album đóng vai trò là phần giới thiệu cho chuỗi album "chủ đề học đường" của nhóm, một bộ ba album kể về những cuộc đấu tranh của những người trẻ tuổi.[44] Bài hát chủ đề "I Need U" là một bản hit hàng đầu trong top 5 ở Hàn Quốc và mang về cho nhóm giải thưởng đầu tiên trên chương trình âm nhạc tại The Show của SBS MTV.[45][46] Đĩa đơn "Dope" (Tiếng Triều Tiên: 쩔어; RomajaJjeoreo) đứng thứ 3 trên bảng xếp hạng World Digital Song Sales của Billboard và video âm nhạc của bài hát đạt hơn 100 triệu lượt xem trên YouTube.[47][48] Nhóm bắt đầu mở rộng The Red Bullet Tour vào tháng 6 với chuyến lưu diễn 2015 Live Trilogy Episode II: The Red Bullet, lưu diễn tại nhiều thành phố trên khắp châu Á, châu Đại Dương, Bắc Mỹ và châu Mỹ Latinh.[38] Phiên bản tiếng Nhật của "For You" với phiên bản tiếng Nhật của "War of Hormone" và "Let Me Know" được phát hành vào ngày 17 tháng 6 năm 2015 và nhanh chóng dẫn đầu bảng xếp hạng hàng ngày của Oricon.[33][49]

BTS biểu diễn tại KCON France ở Paris vào ngày 2 tháng 6 năm 2016.

Tháng 11, BTS khởi động chuyến lưu diễn thứ ba 2015 BTS LIVE "The Most Beautiful Moment in Life: On Stage" với 3 buổi hòa nhạc cháy vé ở Seoul và sau đó được mở rộng sang Nhật Bản.[50] Nhóm phát hành mini album thứ tư The Most Beautiful Moment in Life, Pt. 2 vào ngày 30 tháng 11. Về mặt chủ đề, album tập trung nhiều hơn vào khía cạnh nghiêm túc và suy đoán của tuổi trẻ, đề cập đến việc theo đuổi thành công, sự cô đơn, tình cảm với cội nguồn của bản thân và nỗi đau khổ của thế hệ trẻ do những điều kiện bất lợi trong xã hội hiện nay.[51] Mini album dẫn đầu bảng xếp hạng hàng tuần của Gaon Album Chart và Billboard World Albums.[52][53] Sản phẩm cũng đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của nhóm trên bảng xếp hạng Billboard 200 ở vị trí số 171 trong 1 tuần[54] với 8 bài hát trong album ra mắt trên bảng xếp hạng World Digital Songs Sales của Billboard.[55]

Album tổng hợp tiếng Hàn đầu tiên cũng như phần cuối cùng trong chuỗi album "chủ đề tuổi trẻ" của nhóm là The Most Beautiful Moment in Life: Young Forever được phát hành vào ngày 2 tháng 5 năm 2016.[56] Với 300.000 bản album đặt trước,[57] album bao gồm 3 đĩa đơn mới "Epilogue: Young Forever", "Fire" và "Save Me",[33][58][59] lần lượt ra mắt trong top 3 trên Billboard World Digital Charts.[57] Album dẫn đầu bảng xếp hạng hàng tuần của Gaon Album Chart tại Hàn Quốc trong 2 tuần liên tiếp và đạt vị trí số 107 trên Billboard 200.[60][61][62] The Most Beautiful Moment in Life: Young Forever đoạt giải Album của năm tại Melon Music Awards năm 2016.[63] BTS bắt đầu mở rộng chuyến lưu diễn 2016 BTS LIVE "The Most Beautiful Moment in Life On Stage: Epilogue" kể từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2016. Vé xem cho 14 buổi biểu diễn tại 10 thành phố trên khắp châu Á đều cháy vé, trong đó có một số địa điểm được bán hết chỉ trong vòng 5 giây.[64]

BTS lần đầu tiên đoạt giải Daesang trong hạng mục Album của năm tại Melon Music Awards lần thứ 8 vào ngày 19 tháng 11 năm 2016.

Tháng 9 năm 2016, BTS phát hành album phòng thu tiếng Nhật thứ hai Youth.[65] Album bán được 44.547 bản trong ngày đầu tiên phát hành và đạt vị trí số 1 trên Oricon Daily Album Chart.[66][67] Youth sau đó nhận được chứng nhận Vàng với hơn 100.000 bản album bán ra tại Nhật Bản.[68] Nhóm phát hành album phòng thu tiếng Hàn thứ hai Wings vào tháng 10,[33] kết hợp những câu chuyện về tuổi trẻ được thể hiện trong chuỗi album "chủ đề tuổi trẻ" trước đó cùng sự cám dỗ và nghịch cảnh.[69] Album và tất cả các bài hát của album, bao gồm đĩa đơn "Blood Sweat & Tears" nhanh chóng vươn lên dẫn đầu 8 bảng xếp hạng âm nhạc, bao gồm cả Gaon Music Chart và dẫn đầu bảng xếp hạng album iTunes ở 23 quốc gia.[70][71] Wings ra mắt ở vị trí số 26 trên Billboard 200 với 16.000 đơn vị album tương đương ở Hoa Kỳ trong tuần đầu tiên phát hành, thành tích cao nhất trong lịch sử đối với một album K-pop vào thời điểm đó.[72] Đây là một trong những album bán chạy nhất trong lịch sử Gaon Album Chart.[73]

You Never Walk AloneLove Yourself: Her

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 2 năm 2017, BTS phát hành album tái bản You Never Walk Alone của Wings. Với 700.000 bản album đặt trước (tăng so với 500.000 bản của Wings), album phá vỡ hầu hết kỷ lục về doanh số album bán chạy nhất trong 1 tháng tại Hàn Quốc và đạt 1,49 triệu bản album bán ra vào cuối tháng.[74][75] "Spring Day" là bài hát chủ đề của album[33] và đoạt giải Bài hát của năm tại Melon Music Awards năm 2017.[76] Chuyến lưu diễn thế giới thứ hai 2017 BTS Live Trilogy Episode III: The Wings Tour của BTS được khởi động vào tháng 2.[77] Trong chuyến lưu diễn, BTS biểu diễn tại các đấu trường ở Hoa Kỳ, chẳng hạn như Trung tâm Prudential của New Jersey và Trung tâm Honda của California. Toàn bộ vé xem cho chặng diễn tại Bắc Mỹ được bán hết trong vòng vài giờ và phải bổ sung thêm 2 buổi hòa nhạc.[78][79] Sau khi hoàn thành chặng diễn tại Bắc Mỹ, BTS tham dự Billboard Music Awards lần thứ 24 vào tháng 5 và đoạt giải Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu[80] với tư cách là nhóm nhạc K-pop đầu tiên đoạt giải Billboard.[81]

BTS trong buổi họp báo ở Seoul, Hàn Quốc sau khi đoạt giải Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu tại Billboard Music Awards lần thứ 24 vào ngày 29 tháng 5 năm 2017.

BTS phát hành phiên bản remake cho bản hit "Come Back Home" (1995) của Seo Taiji vào tháng 7 năm 2017, kết hợp ca từ mới trong khi vẫn tập trung vào chủ đề về sự biến đổi xã hội.[82] Cuối năm, BTS bắt đầu thực hiện chuỗi album Love Yourself với chủ đề về sự giác ngộ của tình yêu bản thân thông qua cụm từ "起承轉結" (Tiếng Triều Tiên: 기승전결; RomajaGiseungjeongyeol), còn được gọi là "khai, thừa, chuyển, hợp", một cấu trúc tường thuật câu chuyện thành 4 phần bắt nguồn từ văn học Trung Quốc.[83] BTS phát hành phần đầu tiên trong chuỗi album với mini album thứ năm Love Yourself: Her vào ngày 18 tháng 9.[81][84] Bài hát chủ đề "DNA" của album[85] được RM cho là "nâng vị thế của BTS lên tầm cao mới. Chúng tôi cố gắng áp dụng ngữ pháp và quan điểm mới."[33] Anh chia sẻ về album, "Tôi có niềm tin rằng đây sẽ là điểm xuất phát cho chương thứ hai trong sự nghiệp của chúng tôi; sự khởi đầu trong chương thứ hai của chúng tôi."[86] Về mặt âm nhạc, sản phẩm đóng vai trò là "một cuộc khám phá kép về khuynh hướng nhạc pop điện tử và hip hop của nhóm".[87]

BTS tại American Music Awards lần thứ 45 trước khi thực hiện buổi biểu diễn đầu tiên trên sóng truyền hình Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 11 năm 2017.

Love Yourself: Her ra mắt ở vị trí số 7 trên Billboard 200.[88] Album đạt hơn 1,6 triệu bản vào tháng 5 năm 2017, dẫn đầu bảng xếp hạng Gaon[89] và là album đầu tiên sau 16 năm bán được hơn 1,2 triệu bản kể từ album thứ tư Chapter 4 (2001) của g.o.d.[90][91] "DNA" được phát hành với mini album và video âm nhạc của bài hát vượt hơn 21 triệu lượt xem trong 24 giờ đầu tiên.[92] Sản phẩm trở thành đĩa đơn đầu tiên của BTS trên Billboard Hot 100 ở vị trí số 85, đưa họ trở thành nhóm nhạc nam K-pop đầu tiên ra mắt trên bảng xếp hạng này.[93] Đĩa đơn vươn lên vị trí số 67 vào tuần sau và trở thành bài hát có vị trí cao nhất trên Hot 100 cho bất kỳ nhóm nhạc K-pop nào.[94] Phiên bản remix của "Mic Drop" trong album với sự hợp tác của Desiigner được phát hành dưới dạng đĩa đơn và đạt vị trí số 28, đánh dấu lần đầu tiên một nhóm nhạc K-pop ra mắt trong top 40.[95][96] Cả hai đĩa đơn đều được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) trao chứng nhận Vàng vào đầu năm 2018.[97] "Mic Drop" nhận được chứng nhận Bạch kim tại Hoa Kỳ vào cuối năm 2018.[98]

Tháng 11 năm 2017, BTS trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên biểu diễn tại lễ trao giải American Music Awards.[99][100] BTS đoạt giải Nghệ sĩ của năm tại Mnet Asian Music Awards lần thứ 19 vào tháng 12, nhận được giải thưởng này trong 2 năm liên tiếp.[101] Nhóm phát hành "DNA" và "Mic Drop" với bài hát mới "Crystal Snow" tại Nhật Bản vào ngày 6 tháng 12.[33][102] Sản phẩm dẫn đầu Oricon Chart trong tuần đầu tiên phát hành và là album duy nhất của một nghệ sĩ nước ngoài nhận được chứng nhận Bạch kim kép tại Nhật Bản vào năm 2017.[103]

Cuối tháng 11, nhóm lần đầu tiên tham gia chương trình âm nhạc Nhật Bản vào khung giờ vàng trên Music Station Super Live[104] và khép lại năm 2017 trên Dick Clark's New Year's Rockin' Eve.[105][106]

Năm 2017, BTS hợp tác với UNICEF cho chiến dịch Love Myself nhằm chấm dứt vấn nạn bạo lực, lạm dụng và bắt nạt, đồng thời góp phần nâng cao lòng tự trọng và niềm hạnh phúc của những người trẻ tuổi. Cả Big Hit và nhóm đều cam kết chi trả để quảng bá chiến dịch. BTS cũng bày bán các mặt hàng hóa đặc biệt dành cho Love Myself và thiết lập nhiều gian hàng chuyên dụng tại các địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc. Chiến dịch được tái ký vào năm 2021 với UNICEF chỉ ra sự thành công của chiến dịch.[107]

2018–2020

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuỗi album Love Yourself

[sửa | sửa mã nguồn]

BTS đoạt giải Daesang tại Golden Disc Awards và Seoul Music Awards vào tháng 1 năm 2018.[108][109] Tháng 3, nhóm phát hành bộ phim tài liệu Burn the Stage: The Movie bao gồm 8 tập được phát sóng độc quyền trên YouTube Premium, cung cấp cái nhìn hậu trường về chuyến lưu diễn Wings Tour năm 2017.[110][111] Album phòng thu tiếng Nhật thứ ba Face Yourself của nhóm được phát hành vào ngày 4 tháng 4[112] và ra mắt trong top 5 trên bảng xếp hạng iTunes Albums của Hoa Kỳ. Đoạn phim ngắn Euphoria: Theme of "Love Yourself: Wonder dài 9 phút với bài hát "Euphoria" được phát hành vào ngày hôm sau như là đĩa đơn mở đường cho album phòng thu tiếng Hàn thứ ba Love Yourself: Tear của nhóm.[113] BTS phát hành Love Yourself: Tear vào ngày 18 tháng 5 và tham dự Billboard Music Awards lần thứ 25 vào ngày 20 tháng 5,[114] nơi nhóm thực hiện buổi biểu diễn đầu tiên cho bài hát chủ đề "Fake Love".[115][116] Nhóm đoạt giải Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu trong 2 năm liên tiếp.[117][118] Theo trình tự tường thuật, album đại diện cho ký tự "轉" (jeon) hoặc "chuyển" của chuỗi câu chuyện, chạm đến sự giác ngộ quanh co của việc tìm kiếm tình yêu và động viên những người không có ước mơ.[119]

BTS tại buổi họp báo ra mắt Love Yourself: Tear vào ngày 24 tháng 5 năm 2018.

Love Yourself: Tear ra mắt ở vị trí số 1 trong tuần đầu tiên trên Billboard 200, trở thành album quán quân đầu tiên của BTS tại Hoa Kỳ và là album K-pop đầu tiên dẫn đầu bảng xếp hạng album tại Hoa Kỳ.[120] Sản phẩm cũng trở thành album đầu tiên của BTS ra mắt trong top 10 ở Vương quốc Anh, đạt vị trí số 8 trên UK Albums Chart.[121] "Fake Love" là đĩa đơn đầu tiên của BTS ra mắt trong top 10 trên Hot 100, đánh dấu lần đầu tiên một bài hát được thể hiện chủ yếu bằng ngôn ngữ ngoài tiếng Anh ra mắt trong top 10.[122] BTS phát hành album tổng hợp tiếng Hàn thứ hai Love Yourself: Answer vào tháng 8 năm 2018.[123] Album bao gồm bài hát chủ đề "Idol" và phiên bản nhạc số của bài hát hợp tác với nữ rapper Nicki Minaj.[124][125]

Love Yourself: Answer bán được hơn 1,9 triệu bản trên bảng xếp hạng Gaon Album Chart vào tháng 8 năm 2018.[126] Love Yourself: Answer là album quán quân thứ hai của BTS trên bảng xếp hạng Billboard 200 và dẫn đầu doanh số cao nhất tại Hoa Kỳ tính đến thời điểm đó với 185.000 đơn vị album tương đương.[127] Tháng 11 năm 2018, Love Yourself: Answer trở thành album tiếng Hàn đầu tiên được RIAA trao chứng nhận Vàng.[98] "Idol" và Love Yourself: Answer đều nhận được chứng nhận Bạch kim tại Hoa Kỳ với hơn 1 triệu bản bán ra.[128]

Sân vận động Citi Field của thành phố New York, địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc đầu tiên của BTS tại một sân vận động ở Hoa Kỳ, toàn bộ 40.000 vé xem được bán hết chỉ trong vòng 20 phút.[129]

Bên cạnh việc phát hành Love Yourself: Answer vào tháng 8 năm 2018, BTS khởi động chuyến lưu diễn thế giới thứ ba BTS World Tour: Love Yourself với 2 buổi hòa nhạc tại sân vận động Olympic Seoul, bán cháy vé chỉ sau vài giây cũng như những buổi biểu hòa nhạc khác trong số 22 buổi hòa nhạc ở 12 quốc gia.[130][131] Tháng 10, BTS phát hành đĩa đơn "Waste It on Me" hợp tác với Steve Aoki, đây là đĩa đơn tiếng Anh đầu tiên của họ.[132][133] Đối với điểm dừng cuối cùng của chặng diễn tại Bắc Mỹ, nhóm biểu diễn tại sân vận động Citi Field ở thành phố New York, trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên biểu diễn tại một sân vận động ở Hoa Kỳ.[134] Theo StubHub, BTS là nghệ sĩ có buổi hòa nhạc bán chạy thứ hai ngoài thị trường Hoa Kỳ chỉ sau Ed Sheeran.[135] Tháng 10 cùng năm, BTS gia hạn hợp đồng với Big Hit Entertainment đến năm 2026.[136]

Đầu tháng 11 năm 2018, một chương trình âm nhạc nổi tiếng của Nhật Bản đã hủy bỏ buổi biểu diễn của BTS vì chiếc áo phông mà một thành viên từng mặc vào năm trước, trên đó có in hình đám mây hình nấm sau vụ ném bom nguyên tử xuống Nagasaki.[137] Cùng tháng, tổ chức nhân quyền của người Do Thái là Simon Wiesenthal Center (SWC) tuyên bố BTS cần phải gửi lời xin lỗi vì chiếc áo đó cũng như những trang phục và lá cờ mang biểu tượng của Đức Quốc Xã.[138] Big Hit Entertainment đã lên tiếng xin lỗi, đồng thời giải thích rằng những hình ảnh này không nhằm mục đích gây tổn thương cho các nạn nhân của chủ nghĩa Quốc xã hoặc vụ ném bom nguyên tử và nhóm cùng công ty quản lý sẽ thực hiện các biện pháp để ngăn chặn những sai lầm trong tương lai.[139] Họ cũng cho biết hình ảnh lá cờ được dùng với mục đích bình luận về hệ thống trường học Hàn Quốc.[140] Lời xin lỗi này đã được SWC và Hiệp hội nạn nhân bom nguyên tử Hàn Quốc chấp nhận.[141][142] Trong bài nghiên cứu của mình về BTS, John Lie nhận định rằng sự cố liên quan đến chủ nghĩa Quốc xã cho thấy họ không bị kiểm soát chặt chẽ giống như các nhóm nhạc K-pop khác, những nhóm mà mọi hành động dường như đều được lên kế hoạch sẵn, cũng như các thành viên BTS có chính kiến riêng và không ngần ngại bày tỏ chúng.[143]

Tại lễ trao giải Mnet Asian Music Awards lần thứ 20, BTS đoạt giải Nghệ sĩ của năm và được bảng xếp hạng Billboard cuối năm vinh danh ở vị trí số 8 trong hạng mục Nghệ sĩ hàng đầu của năm và vị trí số 2 trong hạng mục Bộ đôi/Nhóm nhạc hàng đầu chỉ sau Imagine Dragons.[144][145] Họ cũng được Bloomberg liệt kê là một trong 50 nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong năm vì "sẵn sàng bàn luận về các vấn đề xã hội, sức khỏe tâm thần và chính trị, mặc dù thuộc thể loại thường được mô tả là bubblegum pop".[146]

Map of the Soul: Persona, chuyến lưu diễn thế giới tại các sân vận động và BTS World

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 2 năm 2019, BTS lần đầu tiên tham dự lễ trao giải Grammy.[147][148] Tháng 4, tạp chí Time đã xếp họ vào danh sách Time 100, những người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2019.[149] Mini album thứ sáu Map of the Soul: Persona của nhóm được phát hành vào ngày 12 tháng 4 với bài hát chủ đề "Boy with Luv" (Tiếng Triều Tiên: 작은 것들을 위한 시; RomajaJageun geotdeureul wihan si) hợp tác với nữ ca sĩ người Mỹ Halsey.[150] Sau khi phát hành mini album, nhóm biểu diễn trên Saturday Night Live với tư cách là nghệ sĩ K-pop đầu tiên tham gia chương trình.[151] Map of the Soul: Persona là album tiếng Hàn đầu tiên đạt vị trí quán quân tại Vương quốc Anh và Úc[152][153] và là album thứ ba của nhóm dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard 200 trong vòng chưa đầy 1 năm.[154] Map of the Soul: Persona sau đó trở thành album bán chạy nhất tại Hàn Quốc với hơn 3,2 triệu bản album bán ra trong vòng chưa đầy 1 tháng.[155][156] "Boy with Luv" ra mắt ở vị trí số 8 trên Billboard Hot 100 vào tháng 4 năm 2019, vị trí cao nhất từ ​​trước đến nay cho một bài hát K-pop.[157]

BTS biểu diễn tại sân vận động Rose Bowl ở Pasadena, California trước 60.000 người hâm mộ.

Sau khi chiến thắng 2 giải thưởng tại Billboard Music Awards lần thứ 26 vào tháng 5, bao gồm giải Bộ đôi/Nhóm nhạc hàng đầu,[158] BTS khởi động chuyến lưu diễn mở rộng Love Yourself: Speak Yourself.[159] Do lượng yêu cầu cao, BTS phải bổ sung thêm nhiều buổi hòa nhạc sau khi vé xem cho những ngày diễn đầu tiên được bán hết trong vòng 2 giờ.[160] Trước khi phát hành trò chơi di động BTS World vào tháng 6, BTS phát hành "Dream Glow" hợp tác với Charli XCX,[161] "A Brand New Day" với Zara Larsson[162] và "All Night" với Juice Wrld.[163] Nhóm phát hành đĩa đơn "Heartbeat" cùng video âm nhạc cho album nhạc phim BTS World: Original Soundtrack của trò chơi.[164] Album nhạc phim được Gaon trao chứng nhận Bạch kim kép.[165] BTS phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ mười "Lights" vào ngày 3 tháng 7.[166] Ngày 3 tháng 7, đĩa đơn "Lights" vượt hơn 1 triệu bản đặt trước, đánh dấu lần đầu tiên một nghệ sĩ nước ngoài đạt được thành tích này tại Nhật Bản kể từ Céline Dion vào năm 1995.[167][168] "Lights" ra mắt ở vị trí số 81 trên Billboard Japan Hot 100 cho ấn bản ngày 8 tháng 7 năm 2019 và đạt vị trí số 1 vào tuần sau.[169][170] Ngày 8 tháng 8, "Lights" được RIAJ trao chứng nhận Triệu với hơn 1 triệu bản bán ra.[171][172][173]

Love Yourself: HerLove Yourself: Tear vượt hơn 2 triệu bản album bán ra vào tháng 8.[174] Cả ba sản phẩm thuộc chuỗi album Love Yourself đều bán được hơn 2 triệu bản cho mỗi album tại Hàn Quốc. Love Yourself: Tear nhận được chứng nhận đĩa Bạc tại Vương quốc Anh, trở thành album thứ ba của nhóm nhận được chứng nhận này sau Love Yourself: AnswerMap of the Soul: Persona.[175] Đối với điểm dừng cuối cùng của chuyến lưu diễn mở rộng Love Yourself: Speak Yourself World Tour, nhóm biểu diễn tại sân vận động Olympic ở Seoul.[176] BTS là nhóm nhạc có doanh thu lưu diễn cao nhất toàn cầu năm 2019 với doanh thu hơn 196 triệu USD.[177] Cùng tháng, nhóm phát hành phiên bản remix của "Make It Right" hợp tác với Lauv.[178] Tháng 11, BTS nhận được 3 giải thưởng tại American Music Awards năm 2019 trong hạng mục Chuyến lưu diễn của năm, Ban nhạc/Cặp đôi/Nhóm nhạc Pop/Rock được yêu thích nhất và Nghệ sĩ mạng xã hội được yêu thích nhất trong 2 năm liên tiếp.[179]

Tháng 12, BTS tham dự lễ trao giải Melon Music Awards năm 2019 và Mnet Asian Music Awards năm 2019. Nhóm là nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử K-pop nhận được tất cả các giải Daesang từ cả hai buổi lễ, nhận được 4 giải Daesang từ mỗi chương trình.[180][181][182] Tại lễ trao giải Golden Disc Awards lần thứ 34, BTS trở thành nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử đoạt giải Daesang ở cả hai hạng mục đĩa vật lý và nhạc số trong cùng năm.[183] Map of the Soul: Persona được Nielsen Music vinh danh là album vật lý bán chạy thứ hai năm 2019 tại Hoa Kỳ chỉ sau Lover của Taylor Swift và được vinh danh ở vị trí số 6 trên bảng xếp hạng 10 album hàng đầu (tổng doanh số) tại Hoa Kỳ.[184] BTS khép lại năm 2019 với tư cách là nhóm nhạc thành công thứ tư trong hạng mục Bộ đôi/Nhóm nhạc trên bảng xếp hạng Billboard 200 Artists của Billboard chỉ sau Queen, Imagine Dragons và The Beatles.[185] Map of the Soul: Persona được Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm Quốc tế vinh danh là album bán chạy thứ ba trên toàn cầu năm 2019, đưa BTS trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên được vinh danh trong top 10 trên bảng xếp hạng Global Album Chart trong nhiều năm liên tiếp.[186][187][188] IFPI vinh danh BTS là một trong những nghệ sĩ bán chạy nhất năm 2019 trong 2 năm liên tiếp, đưa họ trở thành nghệ sĩ không nói tiếng Anh đầu tiên đạt được thành tích này.[189][190]

Map of The Soul: 7, "Dynamite" và Be

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 1 năm 2020, BTS phát hành đĩa đơn "Black Swan" cùng đoạn phim nghệ thuật biểu diễn múa đương đại do MN Dance Company tại Slovenia thực hiện dưới dạng đĩa đơn mở đường cho album phòng thu tiếng Hàn thứ tư Map of the Soul: 7.[191][192] Theo nhà phân phối Dreamus, số lượng đặt trước của album đạt mức kỷ lục 4,02 triệu bản.[193] Cuối tháng 1, BTS biểu diễn tại lễ trao giải Grammy lần thứ 62 và trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên biểu diễn tại lễ trao giải này.[194][195][196] Map of the Soul: 7 được phát hành vào ngày 21 tháng 2 trước sự đánh giá tích cực từ giới phê bình.[197][198][199] Album bao gồm bài hát chủ đề "On" và phiên bản nhạc số của bài hát hợp tác với nữ ca sĩ người Úc Sia.[200] Theo bảng xếp hạng Gaon, Map of the Soul: 7 bán được hơn 4,1 triệu bản chỉ trong 9 ngày sau khi phát hành, vượt qua kỷ lục trước đó do chính nhóm nắm giữ với album Map of the Soul: Persona để trở thành album bán chạy nhất trong lịch sử Hàn Quốc và là album đầu tiên nhận được 4 chứng nhận Triệu tại Hàn Quốc.[201][202] Album ra mắt ở vị trí số 1 trên Billboard 200 của Hoa Kỳ, đưa BTS trở thành nhóm nhạc nhanh nhất sở hữu 4 album quán quân kể từ The Beatles trong giai đoạn 1966–1968.[203] "On" ra mắt ở vị trí số 4 trên Billboard Hot 100, đánh dấu đĩa đơn đầu tiên của BTS ra mắt trong top 5 và đưa họ trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc sở hữu nhiều đĩa đơn lọt vào top 10 Hot 100 nhất với 3 đĩa đơn.[204] BTS lên kế hoạch quảng bá chuỗi album Map of the Soul với chuyến lưu diễn thế giới thứ tư Map of the Soul Tour bắt đầu vào tháng 4,[205] nhưng sau cùng đã bị hoãn vô thời hạn do đại dịch COVID-19.[206]

Tháng 4, BTS trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên bán được tổng cộng hơn 20 triệu bản album,[207] đưa họ trở thành nghệ sĩ bán chạy nhất trong lịch sử Hàn Quốc.[208][209] Cùng tháng, BTS tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến kéo dài 2 ngày mang tên Bang Bang Con, chia sẻ các buổi hòa nhạc trước đó trên kênh YouTube của nhóm.[210] Ngày 7 tháng 6, BTS tham gia sự kiện tốt nghiệp trực tuyến Dear Class of 2020 do YouTube tổ chức, biểu diễn "Boy with Luv", "Spring Day" và "Mikrokosmos".[211] Trong sự kiện, các thành viên lần lượt chia sẻ về buổi lễ tốt nghiệp của họ và truyền tải "thông điệp về niềm hy vọng và nguồn cảm hứng cho sinh viên tốt nghiệp năm 2020 bằng cả tiếng Hàn và tiếng Anh".[212] Ngày 14 tháng 6, BTS tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến kéo dài 100 phút mang tên Bang Bang Con: The Live thuộc khuôn khổ sự kiện kỷ niệm 7 năm ra mắt của nhóm.[213] Sự kiện thu hút 756.000 người xem trực tiếp tại 107 quốc gia và vùng lãnh thổ, thiết lập kỷ lục cho buổi hòa nhạc trực tuyến trả phí được xem nhiều nhất.[214][215] Ngày 19 tháng 6, BTS phát hành đĩa đơn tiếng Nhật "Stay Gold" từ album phòng thu tiếng Nhật thứ tư Map of the Soul: 7 – The Journey được phát hành tại Nhật Bản và trên toàn cầu vào ngày 14 tháng 7.[216][217] Album bán được hơn 564.000 bản trong tuần đầu tiên và phá vỡ kỷ lục doanh số album tuần đầu tiên cao nhất của một nam nghệ sĩ nước ngoài tại Nhật Bản.[218]

BTS phát hành đĩa đơn tiếng Anh đầu tiên "Dynamite" vào ngày 21 tháng 8.[219] "Dynamite" ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, đánh dấu lần đầu tiên BTS dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và đưa họ trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên sở hữu đĩa đơn quán quân tại Hoa Kỳ.[220][221][222] Đĩa đơn đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng mới của BillboardGlobal 200 cũng như Global Excluding US, trở thành đĩa đơn đầu tiên dẫn đầu cùng lúc cả hai bảng xếp hạng.[223] Bài hát còn đạt vị trí số 5 trên Mainstream Top 40 của Hoa Kỳ và Billboard Pop Singles, trở thành đĩa đơn đầu tiên của nhóm ra mắt trong top 10 trên cả hai bảng xếp hạng và lần ra mắt cao nhất của một nghệ sĩ Hàn Quốc trên Billboard Pop Singles.[224][225] Ngày 31 tháng 8, BTS lần đầu tiên tham dự MTV Video Music Awards (VMAs) với buổi biểu diễn đầu tiên cho "Dynamite"[226] và nhận được 4 giải thưởng: Nhóm nhạc xuất sắc nhất, Vũ đạo xuất sắc nhất, Video nhạc Pop xuất sắc nhất và K-pop xuất sắc nhất (3 giải sau cùng dành cho video âm nhạc của "On").[227][228] Ngày 14 tháng 10, nhóm biểu diễn đĩa đơn tại Billboard Music Awards năm 2020 và đoạt giải Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu trong 4 năm liên tiếp.[229][230]

Ngày 2 tháng 10, BTS phát hành phiên bản remix cho đĩa đơn "Savage Love (Laxed – Siren Beat)" của Jawsh 685 và Jason Derulo.[231] Đĩa đơn dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100.[232] Ngày 10 và 11 tháng 10, BTS tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến Map of the Soul ON:E tại KSPO Dome ở Seoul và thu hút 993.000 người xem đến từ 191 quốc gia hoặc khu vực.[233][234][235][236] Ngày 20 tháng 11, BTS phát hành album phòng thu tiếng Hàn thứ năm Be với "Life Goes On" là bài hát chủ đề.[237] "Life Goes On" ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100,[238] trở thành đĩa đơn quán quân thứ ba liên tiếp của BTS trên Hot 100 trong 3 tháng và là bài hát đầu tiên được thể hiện chủ yếu bằng tiếng Hàn dẫn đầu bảng xếp hạng này.[238][239]

Ngày 24 tháng 11, BTS trở thành nghệ sĩ nhạc pop Hàn Quốc đầu tiên được Viện hàn lâm Thu âm ghi nhận khi "Dynamite" được đề cử trong hạng mục Trình diễn Song tấu/Nhóm nhạc Pop xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy lần thứ 63.[240] Nhóm đoạt giải Âm nhạc quốc tế đặc biệt tại Japan Record Awards lần thứ 62 ở Nhật Bản.[241] Trong cuốn sách về ảnh hưởng của văn hóa đại chúng Hàn Quốc, Kim nhận định rằng năm 2020 tuy là năm tồi tệ nhất trong cuộc đời nhiều người, nhưng lại là một năm đáng chú ý đối với nền văn hóa Hàn Quốc. Minh chứng cho điều này là bộ phim Ký sinh trùng đoạt giải Oscar cho Phim xuất sắc nhất và BTS có 3 bài hát dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Global 200.[242]

2021–nay

[sửa | sửa mã nguồn]

"Butter", "Permission to Dance" và Proof

[sửa | sửa mã nguồn]
BTS biểu diễn "Butter" tại American Music Awards lần thứ 49 vào ngày 21 tháng 11 năm 2021.[243]

Ngày 4 tháng 3 năm 2021, BTS được IFPI vinh danh là Nghệ sĩ thu âm toàn cầu của năm 2020 với tư cách là nghệ sĩ châu Á và không nói tiếng Anh đầu tiên dẫn đầu bảng xếp hạng.[244] BTS chiếm 3 vị trí trên Global Album Sales Chart năm 2020 với album Map of the Soul: 7 ở vị trí số 1, Be (Deluxe Edition) ở vị trí số 2 và Map of the Soul: 7 – The Journey ở vị trí số 8.[245] Trên bảng xếp hạng Global Album All Format Chart mới ra mắt, Map of the Soul: 7 đạt vị trí số 1 trong khi Be (Deluxe Edition) đạt vị trí số 4.[246] Ngày 14 tháng 3, BTS biểu diễn "Dynamite" tại lễ trao giải Grammy lần thứ 63, trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên được đề cử biểu diễn trên sân khấu Grammy.[247] Ngày 1 tháng 4, BTS phát hành đĩa đơn "Film Out" cho album tổng hợp tiếng Nhật sắp phát hành BTS, the Best của nhóm.[248] BTS tổ chức sự kiện phát trực tuyến miễn phí Bang Bang Con 21 trên kênh YouTube của họ trong 2 ngày bắt đầu từ ngày 17 tháng 4 và phát sóng 3 buổi hòa nhạc trực tiếp trước đó của họ.[249]

Ngày 21 tháng 5, BTS phát hành đĩa đơn tiếng Anh thứ hai "Butter".[250] Sản phẩm ra mắt ở vị trí số 1 trên Billboard Hot 100—đĩa đơn quán quân thứ tư của nhóm trong 9 tháng—không chỉ đưa họ trở thành nghệ sĩ sở hữu 4 đĩa đơn quán quân nhanh nhất kể từ Justin Timberlake vào năm 2006 mà còn là nhóm nhạc nhanh nhất kể từ The Jackson 5 vào năm 1970.[251] Đĩa đơn tiếng Anh thứ ba của nhóm "Permission to Dance" được phát hành vào ngày 9 tháng 7.[252] Sản phẩm trở thành đĩa đơn quán quân thứ tám của BTS trên bảng xếp hạng Digital Songs, mở rộng kỷ lục của nhóm với tư cách là nhóm nhạc sở hữu nhiều đĩa đơn quán quân nhất trên bảng xếp hạng.[253] Nhóm phát hành đĩa đơn "My Universe" hợp tác với Coldplay vào ngày 24 tháng 9.[254] Đĩa đơn ra mắt ở vị trí số 1 trên Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn hợp tác đầu tiên giữa hai nhóm nhạc ra mắt ở vị trí quán quân.[255] Nhóm tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến Permission to Dance on Stage vào ngày 24 tháng 10 ở Seoul.[256] Ngày 23 tháng 11, "Butter" được đề cử giải Grammy cho hạng mục Trình diễn Song tấu/Nhóm nhạc Pop xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy lần thứ 64.[257][258] Kể từ ngày 27 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12, BTS tổ chức các buổi hòa nhạc trực tiếp đầu tiên trước khán giả sau đại dịch. Nhóm tổ chức 4 buổi hòa nhạc cháy vé tại sân vận động SoFi ở Los Angeles thuộc khuôn khổ chuỗi buổi hòa nhạc Permission to Dance on Stage.[259][260][261]

Ngày 15 tháng 1 năm 2022, bộ truyện tranh mạng 7Fates: Chakho thuộc thể loại kỳ ảo dựa trên BTS được phát hành. Bộ truyện tranh vượt hơn 15 triệu lượt xem chỉ sau 2 ngày ra mắt trên toàn cầu và là tựa truyện có lượt xem cao nhất mà Webtoon từng phát hành.[262][263] Nhóm tổ chức 3 buổi hòa nhạc với số lượng khán giả giới hạn tại sân vận động Olympic Seoul vào các ngày 10, 12 và 13 tháng 3. Đây là những buổi hòa nhạc có số lượng người tụ tập đông nhất[a] được chính phủ Hàn Quốc chấp thuận kể từ khi các biện pháp hạn chế phòng chống đại dịch được áp dụng, thu hút tổng cộng 45.000 người tham dự.[264][265] Ngày 3 tháng 4, BTS biểu diễn "Butter" tại lễ trao giải Grammy lần thứ 64,[258] mặc dù ca khúc không giành chiến thắng ở hạng mục mà nó được đề cử.[266] Ngày 8 tháng 4, nhóm nhận được 7 đề cử tại Billboard Music Awards năm 2022[267] và giành chiến thắng ở ba hạng mục, đưa họ trở thành nhóm nhạc được đề cử nhiều nhất và giành nhiều giải thưởng nhất trong lịch sử lễ trao giải.[268][269]

BTS phát hành album tuyển tập đầu tiên Proof bao gồm 3 đĩa CD vào ngày 10 tháng 6.[270][271][272] Ngày 14 tháng 6, nhân dịp kỷ niệm 9 năm ra mắt, nhóm thông báo tạm ngừng hoạt động nhóm để tập trung vào các dự án solo cũng như hoạt động cá nhân.[273][274] Hybe Corporation, chủ sở hữu Big Hit,[275] đính chính trong tuyên bố tiếp theo rằng BTS sẽ không tan rã hoặc gián đoạn, mà sẽ tích cực phát triển sự nghiệp cá nhân của họ với sự hỗ trợ đầy đủ của công ty trong khi vẫn tham gia các hoạt động nhóm trong tương lai, bao gồm cả việc ghi hình Run BTS.[276][277] Vụ việc này khiến giá cổ phiếu của Hybe sụt giảm nhanh chóng, dẫn đến giá trị vốn hóa thị trường của công ty thiệt hại hơn 1,7 tỷ USD.[278] Ngày 24 tháng 8, tạp chí Billboard tiết lộ rằng BTS sẽ biểu diễn tại Busan với tư cách là một nhóm vào ngày 15 tháng 10 trong buổi hòa nhạc miễn phí Yet To Come in Busan nhằm thúc đẩy chiến dịch đăng cai World Expo 2030 của thành phố này.[279][280]

Nghĩa vụ quân sự và gia hạn hợp đồng

[sửa | sửa mã nguồn]

Bất chấp thông báo về buổi hòa nhạc miễn phí vào tháng 10 năm 2022, giá cổ phiếu của Hybe tiếp tục giảm xuống dưới mức IPO ban đầu trước những thông tin đồn đoán trên thị trường chứng khoán về tác động xoay quanh việc thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc của các thành viên trong nhóm.[281] Theo luật pháp Hàn Quốc, tất cả nam giới có thân hình khỏe mạnh phải phục vụ trong quân đội từ 18 đến 21 tháng, thường ở độ tuổi 28.[279] Tờ Bloomberg News đưa tin về sự thành công của buổi hòa nhạc tại Busan nhưng cũng cho biết lịch trình tổ chức các buổi hòa nhạc khác sau này vẫn còn bỏ ngỏ. Người ta ước tính rằng nếu các thành viên của BTS phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, Hybe sẽ thiệt hại gần 10 tỷ USD trong 10 năm với tổn thất cho nền kinh tế Hàn Quốc là gần 39 tỷ USD.[282]

Tháng 10 năm 2022, Big Hit xác nhận thành viên lớn tuổi nhất của nhóm là Jin, 29 tuổi, đã rút lại yêu cầu hoãn nhập ngũ của mình.[283] Các thành viên còn lại dự kiến ​​sẽ lần lượt nhập ngũ theo kế hoạch và nhóm dự kiến ​​sẽ tái hợp vào năm 2025 sau khi xuất ngũ.[284][285] Cuối tháng 10 năm 2022, BTS nhận được 5 đề cử cho MAMA Awards năm 2022 cùng các thành viên nhận được thêm 8 đề cử với tư cách là nghệ sĩ solo.[286] Ngày 15 tháng 11 năm 2022, BTS nhận được 3 đề cử tại lễ trao giải Grammy lần thứ 65, bao gồm 1 đề cử cho "Yet to Come" trong hạng mục Video âm nhạc xuất sắc nhất. "My Universe" được đề cử cho Trình diễn Song tấu/Nhóm nhạc Pop xuất sắc nhất, đưa BTS trở thành nghệ sĩ duy nhất được đề cử trong 3 năm liên tiếp kể từ khi hạng mục này được ra mắt vào năm 2011. Nhóm cũng được đề cử trong hạng mục Album của năm với tư cách là nghệ sĩ hợp tác trong Music of the Spheres của Coldplay.[287] Jin nhập ngũ với tư cách là binh sĩ tại ngũ vào ngày 13 tháng 12.[288] Ngày 26 tháng 2 năm 2023, Big Hit Music thông báo J-Hope đã nộp đơn hủy bỏ yêu cầu hoãn nhập ngũ của mình.[289]

Sau các hoạt động cá nhân, bộ phim điện ảnh hòa nhạc BTS: Yet to Come in Cinemas của nhóm được phát hành vào ngày 1 tháng 2 năm 2023.[290] Trong chuyến đi đến Tây Ban Nha, RM chia sẻ với EFE rằng BTS "sẽ gặp lại nhau khi chúng tôi hoàn thành nghĩa vụ quân sự và chúng tôi sẽ tìm kiếm mối liên kết mới giữa các thành viên để bước vào giai đoạn thứ hai."[291] Chủ tịch Bang Si-hyuk của Hybe tuyên bố vào ngày 15 tháng 3 năm 2023 rằng sự trở lại của họ có thể không xảy ra vào năm 2025 vì rất khó để xác định mục tiêu cụ thể và họ vẫn chưa thảo luận về việc gia hạn hợp đồng.[292] J-Hope nhập ngũ với tư cách là binh sĩ tại ngũ vào ngày 18 tháng 4.[293] Ngày 12 tháng 5, BTS phát hành nhạc phim "The Planet" cho bộ phim hoạt hình Hàn Quốc Bastions.[294] Nhân dịp kỷ niệm 10 năm ra mắt, nhóm phát hành đĩa đơn "Take Two" vào ngày 9 tháng 6.[295]

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, Hybe xác nhận thông qua một thông cáo báo chí rằng BTS sẽ gia hạn hợp đồng độc quyền của họ. Các thành viên sẽ lần lượt ký kết hợp đồng, xem xét tình hình nhập ngũ của họ sau khi hội đồng quản trị thông qua nghị quyết với Big Hit Music, đồng thời củng cố cam kết của họ đối với các dự án trong tương lai bắt đầu từ năm 2025 trở đi. Hybe bày tỏ sự kỳ vọng của họ về các hoạt động nhóm của BTS và hứa hẹn sẽ hỗ trợ không ngừng để củng cố vị thế của BTS trên toàn cầu, đảm bảo các hoạt động của nhóm diễn ra suôn sẻ ngay sau khi các thành viên hoàn thành nghĩa vụ quân sự.[296][297] Ngày 22 tháng 9 năm 2023, Suga nhập ngũ với vai trò nhân viên phục vụ cộng đồng.[298] RM và V nhập ngũ vào ngày 11 tháng 12 năm 2023, sau đó là Jimin và Jungkook vào ngày 12 tháng 12.[299] Vào ngày 12 tháng 6 năm 2024, Jin trở thành thành viên đầu tiên của BTS hoàn thành nghĩa vụ quân sự bắt buộc và chính thức xuất ngũ.[300]

Phong cách nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]
Thành viên Jin (giữa) tái hiện lại bài hát "ay-oh" của Freddie Mercury trong buổi hòa nhạc đầu tiên của nhóm tại sân vận động Wembley vào ngày 1 tháng 6 năm 2019.

Ảnh hưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

BTS đề cập đến nhiều nghệ sĩ như Seo Taiji and Boys,[301] Nas, Eminem, Kanye West, Drake, Post Malone, Charlie Puth và Danger là những nguồn cảm hứng âm nhạc của họ.[302] Nhóm cũng đề cập đến tầm ảnh hưởng của Queen, chia sẻ rằng họ "đã lớn lên khi xem những đoạn video từ buổi hòa nhạc Live Aid".[303] Trong buổi hòa nhạc của nhóm tại sân vận động Wembley ở Luân Đôn, Jin bày tỏ lòng kính trọng Queen khi tái hiện lại bài hát "ay-oh" của Freddie Mercury từ Live Aid.[303] "Hip Hop Phile" được phát hành khi phong cách hip hop của BTS đang ở thời kỳ đỉnh cao cũng như tri ân các nghệ sĩ có sức ảnh hưởng lớn đến họ như Epik High, Jay-Z, Biggie, CL Smooth và nhiều nghệ sĩ khác.[304]

Album phòng thu Wings (2016) của nhóm được lấy cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết về tuổi thành niên Demian của Hermann Hesse.[305] Bài hát "Blood Sweat & Tears" (2016) của nhóm đề cập đến tác phẩm Thus Spoke Zurathustra của Friedrich Nietzsche và video âm nhạc của bài hát chứa đựng những hình ảnh tham chiếu đến bức họa The Lament for Icarus của họa sĩ Herbert James Draper, Landscape with the Fall of IcarusThe Fall of the Rebel Angels của Pieter Bruegel.[306] Các tác phẩm của Murakami Haruki, Ursula K. Le Guin, Carl Jung, George Orwell và Nietzsche là một vài trong số những nguồn cảm hứng văn học và tư tưởng khác nhau đã ảnh hưởng đến sáng tác của họ.[307] Chuỗi album Love Yourself chịu ảnh hưởng chủ yếu từ cuốn sách The Art of Loving của Erich Fromm,[275][308] trong khi bài hát "Magic Shop" từ album phòng thu Love Yourself: Tear (2018) được lấy cảm hứng từ cuốn hồi ký Into the Magic Shop của James R. Doty.[309]

Phong cách âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong những năm đầu sự nghiệp, BTS đã theo đuổi dòng nhạc hip hop như phong cách âm nhạc đặc trưng của họ; chủ yếu là do ảnh hưởng từ quá khứ khi RM và Suga còn làm rapper underground;[310] trong khoảng thời gian bắt đầu làm việc tại Hoa Kỳ, nhóm đã nhận được sự cố vấn từ các rapper người Mỹ.[311] Trước đây, Bang Si-hyuk từng thừa nhận rằng K-pop nhìn chung lấy cảm hứng từ âm nhạc của người da đen[312] và tác giả Crystal S. Anderson cho rằng "Sự nổi tiếng ngày càng tăng của BTS ở Hoa Kỳ thể hiện sự tiếp nối cách thức mà K-pop hoạt động như một phần trong truyền thống R&B toàn cầu."[313] T.K. Park và Youngdae Kim của Vulture cho rằng bài hát "Outro: Her" trong Love Yourself: Her là ví dụ điển hình nhất cho sự hiểu biết của nhóm về hip hop old school, bao gồm các đoạn rap được lấy cảm hứng từ Chuck D và Tupac cũng như những hợp âm jazz thập niên 1990 để tạo nên âm thanh hip hop cổ điển.[314]

Việc phát hành "Blood Sweat & Tears" vào năm 2016 đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi của BTS từ một nhóm nhạc hip hop sang một nhóm nhạc pop. Park và Kim chỉ ra rằng bài hát này lấy cảm hứng từ dancehall, reggaeton và moombahton nhưng lại chọn "phong cách thần bí kiểu Baroque" thay vì "bầu không khí vui nhộn đặc trưng của những âm hưởng đó".[314] Nhóm cũng bắt đầu kết hợp các yếu tố truyền thống Hàn Quốc vào âm nhạc của mình. Chẳng hạn như đĩa đơn "Idol" (2018) của nhóm có sử dụng một đoạn adlib lấy cảm hứng từ Pansori, một hình thức kịch nói truyền thống Hàn Quốc cũng như nhại giọng theo âm thanh của trống janggu.[317]

Mặc dù BTS vẫn duy trì phong cách hip hop, nhưng âm nhạc của họ đã ngày càng trở nên đa dạng hơn. BTS lần đầu tiên thử nghiệm dòng nhạc R&B, rock và jazz hip hop trong album phòng thu Dark & Wild (2014);[318][319] EDM trong chuỗi album The Most Beautiful Moment in Life;[51] moombahton và tropical house trong WingsYou Never Walk Alone;[320][321][69] future basspop latinh trong chuỗi album Love Yourself;[83] slow-dance ballad,[322] emo rap, Afro pop,[323] funk, trap, pop rockhip pop trong chuỗi album Map of the Soul;[324]disco trong đĩa đơn "Dynamite".[325][326] Các thành viên trong nhóm cũng thử nghiệm nhiều thể loại âm nhạc khác nhau trong những bài hát solo của họ, chẳng hạn như neo soul trong "Stigma" của V và R&B trong "Lie" của Jimin.[320]

Chủ đề ca từ

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay từ khi thành lập, BTS tin rằng việc kể lại câu chuyện của chính mình là cách tốt nhất để thế hệ trẻ có thể đồng cảm với âm nhạc của họ.[327] Đồng sáng tác phần lớn các ca khúc của họ,[328][329] nhóm thường dùng những trải nghiệm từ cuộc sống thường nhật như nỗi buồn và sự cô đơn làm nguồn cảm hứng sáng tác cho các sản phẩm âm nhạc của họ rồi biến chúng thành một điều gì đó nhẹ nhàng và dễ chịu hơn. RM khẳng định BTS không tạo ra sản phẩm âm nhạc như thể họ đang thuyết giảng hoặc khiển trách mọi người trong các bài hát của nhóm, "...bởi vì đó không phải là cách mà chúng tôi muốn truyền tải thông điệp của mình. [...] Chúng ta được sinh ra với những cuộc sống khác nhau, nhưng bạn không thể tự lựa chọn một số thứ. Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng tình yêu cũng như ý nghĩa thực sự của nó, bắt đầu bằng việc yêu thương bản thân mình và chấp nhận một vài điều trớ trêu và một vài số phận mà chúng ta có ngay từ đầu".[330] Khi được hỏi liệu có khó để viết về những điều như sức khỏe tinh thần không, Suga tiết lộ rằng:

Các chủ đề ca từ được khám phá trong những bài hát và album của BTS bao gồm nhiều chủ đề đa dạng như vấn đề về bản sắc xã hội trong giới trẻ, nỗi lo lắng của tuổi trẻ học đường và sức khỏe tinh thần trong văn hóa của giới trẻ.[9] Theo bài phân tích của Billboard vào năm 2017, các album của BTS thường xuyên có chủ đề liên quan đến giới trẻ.[9] Chuỗi album "chủ đề học đường" của nhóm từ năm 2013 đến 2014 khám phá về "những rắc rối và nỗi lo lắng của tuổi trẻ học đường".[332] Năm 2016, cách tiếp cận của nhóm trong việc thảo luận về văn hóa của giới trẻ Hàn Quốc "đã chạm đến một chủ đề mà đại đa số thanh thiếu niên đều từng trải nghiệm, nhưng rất ít khi nghệ sĩ nhạc pop nói rõ: sức khỏe tinh thần và mong muốn được thuộc về xã hội."[332] Album phòng thu Wings (2016) của nhóm tập trung vào sự cám dỗ và tội lỗi.[333] Chuỗi album Love Yourself giới thiệu nhiều chủ đề khác nhau liên quan đến văn hóa của giới trẻ Hàn Quốc bao gồm sự phấn khích của tình yêu, nỗi đau khi chia tay và sự giác ngộ của tình yêu bản thân.[334] Ca từ của nhóm thường xuyên kết hợp những lời bình luận xã hội và chỉ trích về sự tương tác của giới trẻ Hàn Quốc với xã hội Hàn Quốc, phản ánh rõ ràng những điều này.[332]

Năm 2018, bài hát "No More Dream" và "N.O" từ chuỗi album "chủ đề học đường" được Tamar Herman mô tả là sự đúc kết những trải nghiệm của họ với sự chú trọng của Hàn Quốc vào nền giáo dục và kêu gọi thay đổi hệ thống giáo dục cũng như sự kỳ vọng của xã hội.[335] Những trải nghiệm đời thực của họ với văn hóa của giới trẻ Hàn Quốc đã truyền cảm hứng cho các bài hát như "Dope" và "Silver Spoon" (Tiếng Triều Tiên: 뱁새; RomajaBaepsae) từ chuỗi album "chủ đề tuổi trẻ", đề cập đến khoảng cách thế hệ và những người thuộc thế hệ thiên niên kỷ buộc phải từ bỏ các mối quan hệ lãng mạn, hôn nhân, con cái, việc làm thích hợp, nhà cửa và đời sống xã hội trước những khó khăn kinh tế và tệ nạn xã hội trong khi phải đối mặt với sự lên án của giới truyền thông và thế hệ trước.[335]

Bài hát "Am I Wrong" từ album phòng thu Wings (2016) đặt câu hỏi về sự thờ ơ của xã hội hướng tới tình trạng của các sự kiện hiện nay; lời bài hát "Tất cả chúng ta đều là chó và lợn / chúng ta trở thành chó vì chúng ta tức giận" là một phép ẩn dụ về vụ việc của quan chức Bộ Giáo dục Hàn Quốc Na Hyang-wook, người đề xuất chế độ chủng tính và ví người dân như "chó và lợn"—và BTS cũng biểu diễn bài hát này trên sóng truyền hình giữa vụ bê bối chính trị năm 2016 của Hàn Quốc dẫn đến việc luận tội cựu Tổng thống Park Geun-hye.[335] Cuộc đấu tranh cá nhân của RM và Suga với sức khỏe tinh thần đã truyền cảm hứng cho các bài hát như "Tomorrow", "Intro: The Most Beautiful Moment in Life", "So Far Away", "The Last" và "Forever Rain".[314][336] "Not Today" từ album tái phát hành You Never Walk Alone (2017) là một bài hát anti-establishment[b], kêu gọi "tất cả những người yếu thế trên thế giới"[c] hãy tiếp tục chiến đấu,[337] trong khi bài hát "Spring Day" tưởng nhớ những nạn nhân xấu số trong thảm kịch chìm phà Sewol.[338] BTS nhận được lời khen ngợi của Jeff Benjamin từ tạp chí Fuse vì "[đang] chia sẻ một cách trung thực về các chủ đề mà họ cho là quan trọng, ngay cả trong một xã hội bảo thủ".[339] Cựu tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đã phát biểu: "Mỗi người trong số bảy thành viên đều cất lên tiếng hát theo cách riêng của mình, thể hiện chân thực con người và cuộc sống mà họ mong muốn. Giai điệu và ca từ của họ vượt qua mọi biên giới vùng miền, ngôn ngữ, văn hóa và thể chế."[340]

Tác động

[sửa | sửa mã nguồn]
BTS biểu diễn tại Korea-France Friendship Concert vào ngày 14 tháng 10 năm 2018 ở Paris, Pháp.

Ngày 29 tháng 4 năm 2019, tạp chí Time vinh danh BTS trong danh sách 100 nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất toàn cầu năm 2019, đồng thời phong tặng cho họ danh hiệu "Những chàng hoàng tử nhạc Pop".[341] Giám đốc điều hành Silvio Pietroluongo của Billboard so sánh tầm ảnh hưởng của nhóm với The Beatles.[342] Trong khi giám đốc điều hành Helena Kosinski của MRC Data nhận định "mặc dù BTS không phải là người đầu tiên mở đường cho K-pop trên toàn cầu, nhưng họ là những người đầu tiên nắm giữ vai trò chủ đạo. Họ không chỉ thu hút giới trẻ mà còn cả nhân khẩu học ở độ tuổi 50 và 60."[343] Với tư cách là nghệ sĩ không nói tiếng Anh đầu tiên ra mắt trên bảng xếp hạng Nghệ sĩ thu âm toàn cầu năm 2018, BTS là nghệ sĩ bán chạy thứ hai dựa trên nhiều nền tảng truyền thông chỉ sau Drake.[344][345][346] Năm 2020, BTS trở thành nghệ sĩ ngoài thị trường phương Tây và không nói tiếng Anh đầu tiên được IFPI vinh danh là Nghệ sĩ thu âm toàn cầu của năm.[244] Tại Hàn Quốc, BTS chiếm 41,9% doanh số album bán ra trong nửa đầu năm 2019, ghi nhận mức gia tăng so với thị phần 25,3% của năm trước.[347]

Năm 2022, Youna Kim ghi nhận BTS là người dẫn đầu làn sóng Hàn Quốc cũng như đại diện cho sự mở rộng của văn hóa Hàn Quốc trên toàn cầu một cách đầy hiệu quả như Psy từng làm trong thập kỷ trước đó cùng với sức ảnh hưởng mà bộ phim điện ảnh Hàn Quốc đoạt giải Oscar Ký sinh trùng mang lại vào năm 2020.[348] Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc chỉ ra vào năm 2021 rằng BTS góp phần tạo nên "hiệu ứng lan tỏa", bao gồm sự gia tăng của lượng du khách đến Hàn Quốc; sự hứng thú đối với nền văn hóa Hàn Quốc, phim ảnh và giáo dục tiếng Hàn; và đóng góp khoảng 5 tỷ USD mỗi năm cho nền kinh tế Hàn Quốc, tương đương mức tăng trưởng khoảng 0,5%.[349] Một nghiên cứu năm 2018 cho thấy, trung bình có khoảng 800.000 người nước ngoài đến Hàn Quốc mỗi năm trong 4 năm qua với những lý do liên quan đến BTS.[350]

Nhiều tác giả nhận định BTS là người dẫn đầu, thậm chí còn vượt trội hơn so với các nhóm nhạc K-pop đình đám khác như Girls' Generation, Super Junior, Exo, TwiceBlackpink,[351] đồng thời nhấn mạnh sự thành công của BTS cho thấy tầm quan trọng của một cộng đồng người hâm mộ hùng hậu và tích cực trong thời đại truyền thông xã hội, nơi mà các chiến dịch quảng bá của người hâm mộ có thể quan trọng không kém gì chất lượng âm nhạc đối với thành công của một bài hát.[352] Nhóm còn tạo được dấu ấn ở mảng kinh doanh trong ngành công nghiệp K-pop bằng cách khắc phục những mặt hạn chế trong hợp đồng với công ty chủ quản nhằm tối đa hóa sự sáng tạo và tư duy nghệ thuật của họ.[353][354] Với chiến lược đa dạng hóa đầy mới mẻ này, BTS đã tạo nên mối quan hệ gần gũi hơn với giới trẻ Hàn Quốc và khuyến khích sự độc lập cũng như chân thực của khán giả.[143]

Ngoại giao

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong bài tiểu luận Soft Power năm 1990, nhà khoa học chính trị Joseph Nye đã giới thiệu khái niệm về một loại quyền lực thứ hai khác biệt với chủ nghĩa chuyên chế truyền thống.[355] Nye viết, "Khía cạnh thứ hai của quyền lực – thể hiện qua việc một quốc gia khiến cho các quốc gia khác mong muốn những gì mà nó mong muốn – có thể được gọi là quyền lực mềm hoặc quyền lực đồng thuận, trái ngược với quyền lực cứng hoặc quyền lực mệnh lệnh, là việc ép buộc các quốc gia khác phải tuân theo ý mình."[356] Những nhà nghiên cứu như Maud Quessard đã áp dụng khái niệm quyền lực mềm vào BTS và tầm ảnh hưởng của họ đối với ngoại giao giải trí và quan hệ quốc tế.[357] Youna Kim và Maud Quessard đều cho rằng quyền lực mềm bao gồm văn hóa, giá trị chính trị và chính sách đối ngoại, điều này áp dụng vào khả năng của BTS trong việc tiếp cận và truyền tải thông điệp về sự hòa hợp, chấp nhận và vượt qua nghịch cảnh thông qua sức hút rộng rãi của họ trên trường quốc tế.[357]

BTS và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tại Nhà Trắng vào ngày 31 tháng 5 năm 2022.

BTS nhận được lời mời phát biểu trước Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc vào tháng 9 năm 2018[358][359] và biểu diễn trước 400 khán giả, bao gồm Tổng thống Moon Jae-in và các quan chức khác, tại buổi hòa nhạc Korea-France Friendship Concert ở Paris, một sự kiện nhằm kỷ niệm mối quan hệ hữu nghị giữa Pháp và Hàn Quốc.[360] Cùng năm, BTS trở thành những người trẻ tuổi nhất nhận được Huân chương Văn hóa. Mặc dù huân chương văn hóa của chính phủ Hàn Quốc theo truyền thống chỉ được trao cho những người có hơn 15 năm tuổi nghề với nhiều thành tựu nổi bật, nhưng Moon vẫn ghi nhận nhóm với 5 năm tuổi nghề nhờ những đóng góp của nhóm trong việc lan tỏa văn hóa và ngôn ngữ Hàn Quốc ra toàn thế giới.[361][362][363] Tháng 9 năm 2019, Moon đã đề cập đến BTS trong bài phát biểu của ông về việc công bố các chiến lược phát triển ngành công nghiệp nội dung, vì họ đã tiên phong trong việc xây dựng mô hình kinh doanh đầy sáng tạo thông qua hình thức giao lưu trực tiếp với người hâm mộ.[364] Năm 2020, BTS vinh dự đoạt giải James A. Van Fleet để ghi nhận những đóng góp xuất sắc của nhóm trong việc thúc đẩy mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc, trở thành những người trẻ tuổi nhất nhận được giải thưởng này.[365][366] Tháng 7 năm 2021, họ được Tổng thống Moon Jae-in bổ nhiệm làm Đặc phái viên của Tổng thống về Thế hệ Tương lai và Văn hóa. Với tư cách là đặc phái viên, họ có vai trò "nâng cao nhận thức về chương trình nghị sự toàn cầu, tăng trưởng bền vững và củng cố sức mạnh ngoại giao của các quốc gia trên toàn cầu"[367] cũng như đại diện cho Hàn Quốc tại Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc lần thứ 76.[368] Ngày 31 tháng 5 năm 2022, BTS gặp Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tại Nhà Trắng để thảo luận về vấn nạn phân biệt chủng tộc đối với người châu Á.[369]

Cộng đồng người hâm mộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Kyung Hyun Kim, thành công của BTS được thúc đẩy bởi sự gia tăng mạnh mẽ trong việc sản xuất và lan truyền video âm nhạc trên YouTube cùng với sự hình thành của đế chế thần tượng, bao gồm việc kinh doanh các mặt hàng hóa, trò chơi và tiểu thuyết giả tưởng, bên cạnh sự phát triển vượt bậc của của cộng đồng người hâm mộ âm nhạc trực tuyến.[370] Nhóm sở hữu một cộng đồng người hâm mộ trực tuyến đông đảo và có tổ chức chặt chẽ được gọi là ARMY (Adorable Representative M.C. for Youth), họ không chỉ dịch lời bài hát và các bài đăng trên mạng xã hội của nhóm sang ngôn ngữ khác mà còn đồng hành cùng những hoạt động thiện nguyện của các thành viên BTS. Tính đến năm 2020, có khoảng 40 triệu thành viên ARMY đã đăng ký kênh YouTube của nhóm, hơn 30 triệu người theo dõi tài khoản Twitter và Instagram chính thức của nhóm.[371] Người hâm mộ của BTS đóng vai trò quan trọng trong việc giúp BTS dẫn đầu các bảng xếp hạng thông qua những chiến dịch phối hợp trên nhiều nền tảng âm nhạc trực tuyến[372] cũng như quảng bá âm nhạc của BTS trên các đài phát thanh và truyền hình.[373] Một số thành viên ARMY thậm chí còn có tầm ảnh hưởng vượt qua cả nhóm trong cộng đồng người hâm mộ BTS.[374]

Những người hâm mộ của BTS tại buổi hòa nhạc Love Yourself ở Los Angeles vào ngày 6 tháng 9 năm 2018.

BTS giao tiếp và tương tác với những người theo dõi họ kể từ khi ra mắt thông qua mạng xã hội[375] cũng như thông qua BTS Universe, một cốt truyện vũ trụ song song xoay quanh các thành viên, được kể qua các video âm nhạc, trò chơi di động, sách, phim ngắn và tạo cơ hội cho người hâm mộ để đưa ra các giả thuyết.[376] Kim cho rằng ARMY bị thu hút bởi BTS vì các thành viên phải đối mặt với những định kiến trong xã hội khi họ xuất thân từ vùng nông thôn Hàn Quốc và ra mắt trong một công ty giải trí Hàn Quốc tương đối nhỏ, điều này cho phép những người hâm mộ trẻ tuổi thể hiện sự đồng cảm với họ.[377] Lời bài hát của BTS phản ánh những giá trị xã hội và người hâm mộ đáp lại bằng cách nỗ lực cải thiện thế giới. Chính vì vậy, người hâm mộ của họ cũng dần trở nên tích cực hơn trong việc ủng hộ các hoạt động từ thiện, vấn đề chính trị và xã hội như khủng hoảng tị nạn, phân biệt chủng tộc, quyền trẻ em, biến đổi khí hậu và đại dịch COVID-19.[378][379][380] Phản hồi của ARMY đối với BTS là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hành động và lời bài hát của nhóm; BTS đã loại bỏ một số từ tiếng Hàn có cách phát âm giống như những lời lẽ phân biệt chủng tộc của người Mỹ ra khỏi các bài hát của mình và chấm dứt việc hợp tác với một nhà sản xuất người Nhật Bản khi mà các thành viên ARMY Hàn Quốc cho rằng quan điểm của người này là cực đoan.[381]

Theo tác giả người Hàn Quốc Jiyoung Lee, mối quan hệ giữa BTS và ARMY là "một sự trao đổi lẫn nhau giữa nghệ sĩ và người hâm mộ của họ" không chỉ đơn thuần là "đảm bảo vị thế hàng đầu của nhóm" mà còn "truyền tải thông điệp tích cực của nhóm ra toàn cầu". Lee cho rằng BTS và ARMY là "một biểu tượng của sự thay đổi trong tinh thần thời đại, không chỉ đơn thuần là sự thay đổi thế hệ".[382] Bản thân các thành viên trong nhóm cũng đồng tình và sớm thừa nhận vai trò của người hâm mộ đối với thành công của họ.[383] Theo Sarah Keith, "BTS là hiện thân của thời khắc chuyển giao thế hệ. ARMY tượng trưng cho 'tuổi thành niên' của giới trẻ, trong đó việc sản xuất và sức ảnh hưởng văn hóa không chỉ mang tính toàn cầu mà còn có ý nghĩa, đồng thời là nơi giới trẻ có thể tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị và xã hội."[384]

Hoạt động khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Quảng cáo

[sửa | sửa mã nguồn]

BTS bắt đầu hợp tác với Puma kể từ năm 2015, ban đầu là đại sứ thương hiệu của Puma Hàn Quốc trước khi mở rộng hợp tác để trở thành đại sứ thương hiệu toàn cầu vào năm 2018 và quảng bá cho bản phối lại của dòng sản phẩm "Turin" và "Sportstyle" trên toàn cầu.[385][386][387] Năm 2019, BTS ký hợp đồng với Fila để quảng bá cho dòng trang phục thể thao của thương hiệu.[388] BTS còn từng là đại sứ thương hiệu toàn cầu cho dòng điện thoại của LG Electronics[389] và dòng xe SUV "Palisade" hàng đầu năm 2019 của Hyundai Motors[390] cũng như dòng xe SUV "Nexo"[391] chạy bằng pin nhiên liệu hydro.[392] BTS là đại sứ thương hiệu toàn cầu cho giải đua xe điện Formula E nhằm nâng cao nhận thức về việc xe điện có thể giúp giảm thiểu biến đổi khí hậu.[393] Năm 2020, BTS hợp tác với Samsung Electronics,[394] phát hành phiên bản giới hạn theo chủ đề BTS cho Galaxy S20+Galaxy Buds+.[395] Với tư cách là nhóm nhạc nam đầu tiên hợp tác với thương hiệu thời trang Dior, BTS đã diện những trang phục thuộc bộ sưu tập Xuân–Hè năm 2019 của nhà thiết kế Kim Jones trong buổi hòa nhạc của nhóm tại Stade de France.[396] Nhóm trở thành đại sứ thương hiệu toàn cầu cho Louis Vuitton vào tháng 4 năm 2021.[397]

Từ thiện

[sửa | sửa mã nguồn]

BTS được biết đến với những nỗ lực từ thiện. với nhiều thành viên là thành viên của các câu lạc bộ quyên góp có uy tín như UNICEF Honors Club và Green Noble Club, để ghi nhận quy mô và tần suất quyên góp của họ.[398][399][400] Họ cũng đã nhận được giải thưởng cho các khoản đóng góp của họ, với một thành viên nhận được giải thưởng từ Patron of the Arts Awards sau khi quyên góp cho lĩnh vực nghệ thuật,[401] và BTS nói chung nhận được giải thưởng từ UNICEF Inspire Awards cho chiến dịch Love Myself của họ. Họ thường quyên góp một cách riêng tư, với sự bảo trợ của họ sau đó được công khai bởi các tổ chức mà họ hỗ trợ và các phương tiện truyền thông.[398][402] Những nỗ lực của nhóm cũng thúc đẩy người hâm mộ của họ cũng tham gia vào các hoạt động từ thiện và nhân đạo khác nhau, và đôi khi thậm chí còn tương ứng với các khoản quyên góp của BTS.[403]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

BTS đã nhận được nhiều giải thưởng xuyên suốt sự nghiệp của họ. Họ liên tiếp đoạt giải Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu tại Billboard Music Awards kể từ năm 2017; là nhóm nhạc K-pop duy nhất đoạt giải Bộ đôi/Nhóm nhạc hàng đầu tại Billboard Music Awards năm 2019;[404] và là nhóm nhạc nhận được nhiều giải thưởng nhất trong lịch sử Billboard Music Awards tính đến năm 2022 với tổng cộng 12 giải thưởng.[405] BTS cũng là nhóm nhạc K-pop duy nhất đoạt giải Ban nhạc/Cặp đôi/Nhóm nhạc Pop/Rock được yêu thích nhất và Nghệ sĩ mạng xã hội được yêu thích nhất tại American Music Awards[406] và trở thành nghệ sĩ châu Á đầu tiên trong lịch sử chương trình đoạt giải Nghệ sĩ của năm vào năm 2021.[407] Họ là nghệ sĩ nhạc pop Hàn Quốc đầu tiên được đề cử giải Grammy Awards[408] và là nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên được đề cử giải Brit.[409] Với tổng cộng 30 giải thưởng, trong đó có kỷ lục đoạt giải Nghệ sĩ châu Á của năm trong 4 năm liên tiếp, BTS là nghệ sĩ nước ngoài nhận được nhiều giải thưởng nhất trong lịch sử Japan Gold Disc Awards. Họ cũng nhận được tổng cộng 50 giải thưởng tại MAMA Awards.[410]

Thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]

In đậm là trưởng nhóm

Hình ảnh Nghệ danh Tên khai sinh Ngày sinh Nơi sinh
Latinh Hangul Latinh Hangul Hanja
Jin Kim Seok-jin 김석진 金碩珍 4 tháng 12, 1992 (31 tuổi) Gwacheon, Gyeonggi-do, Hàn Quốc[411]
Suga 슈가 Min Yoon-gi 민윤기 閔玧其 9 tháng 3, 1993 (31 tuổi) Buk-gu, Daegu, Hàn Quốc[412]
J-Hope 제이홉 Jung Ho-seok 정호석 鄭號錫 18 tháng 2, 1994 (30 tuổi) Buk-gu, Gwangju, Hàn Quốc[413]
RM 알엠 Kim Nam-joon 김남준 金南俊 12 tháng 9, 1994 (30 tuổi) Dongjak-gu, Seoul, Hàn Quốc[414]
Jimin 지민 Park Ji-min 박지민 朴智閔 13 tháng 10, 1995 (29 tuổi) Geumjeong-gu, Busan, Hàn Quốc[415]
V Kim Tae-hyung 김태형 金泰亨 30 tháng 12, 1995 (28 tuổi) Seo-gu, Daegu, Hàn Quốc[416]
Jungkook 정국 Jeon Jung-kook 전정국 田柾國 1 tháng 9, 1997 (27 tuổi) Buk-gu, Busan, Hàn Quốc[417]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh

Chương trình trực tuyến

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ 15.000 người mỗi ngày
  2. ^ Anti-establishment là thuật ngữ dùng để mô tả quan điểm hoặc niềm tin đối lập với các nguyên tắc xã hội, chính trị và kinh tế thông thường của một xã hội. Để biết thêm chi tiết, xem Wikipedia tiếng Anh.
  3. ^ Tạm dịch: "All the underdogs in the world".

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ シングル「血、汗、涙」を5月10日にリリース! [Đĩa đơn "Blood, Sweat, Tears" sẽ được phát hành vào ngày 10 tháng 5!]. Universal Music Japan (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 3 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2017.
  2. ^ Kim, Hyun-shik (9 tháng 6 năm 2023). 빌보드 석권·매출 1조...'K팝 선봉장' BTS가 일군 기적들[BTS 10주년]① [Sweeping Billboard, 1 trillion won in sales... The miracles accomplished by BTS, the leader of K-pop [BTS 10th anniversary]①] (bằng tiếng Hàn). EDaily. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022.
  3. ^ Jin, Yu Young (12 tháng 12 năm 2023). “K-Pop in Uniform: All 7 BTS Members Are Doing Military Service”. The New York Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2023.
  4. ^ Kang, Hee-jung (22 tháng 6 năm 2015). 방탄소년단 "팀명 후보, 빅키즈 영네이션 있었다"(야만TV) [BTS "Team name candidates, Big Kids Young Nation" (Yaman TV)] (bằng tiếng Hàn). Newsen. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2018.
  5. ^ Lifson, Samantha (ngày 24 tháng 6 năm 2015). “BTS Members Dish About Pre-Debut Name Changes During 'Yaman TV' Appearance” [Các thành viên BTS bàn luận về tên nhóm trước khi ra mắt trong lần xuất hiện trên 'Yaman TV']. KpopStarz (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2020.
  6. ^ Trabasso, Giovanna (ngày 29 tháng 5 năm 2016). “BTS Is Tackling Problems That Are Taboo” [BTS đang giải quyết các vấn đề cấm kỵ]. Affinity Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2019.
  7. ^ BTSが初のドラマ主題歌!フジ坂口健太郎が刑事役 [Bài hát chủ đề đầu tiên của BTS cho phim truyền hình! Kentaro Sakaguchi vào vai thám tử]. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). 8 tháng 3 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2021.
  8. ^ Herman, Tamar (ngày 5 tháng 7 năm 2017). “BTS Extends Identity to Mean 'Beyond the Scene' [BTS mở rộng danh tính thành 'Beyond the Scene']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2021.
  9. ^ a b c “BTS Brand eXperience Design Renewal” [Đổi mới thiết kế trải nghiệm thương hiệu BTS] (bằng tiếng Anh). Behance. 26 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2018.
  10. ^ a b “The Mastermind Behind BTS Explains the K-Pop Group's Success”. Time (bằng tiếng Anh). 8 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  11. ^ Romano, Aja (26 tháng 9 năm 2018). “BTS, the band that changed K-pop, explained” (bằng tiếng Anh). Vox. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2019.
  12. ^ Sprinkel, tr. 40–43.
  13. ^ Park, Young-woong (2 tháng 9 năm 2010). 방시혁, 오디션 통해 힙합그룹 '방탄소년단' 제작 [Bang Si-hyuk thành lập nhóm nhạc hip hop "BTS" thông qua buổi thử giọng] (bằng tiếng Hàn). Star News. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2017.
  14. ^ Baek, Sol-mi (13 tháng 7 năm 2011). '나는 래퍼다' 방시혁, 13년만에 랩 도전 ["Tôi là một rapper" Bang Si-hyuk, thử tài rap sau 13 năm] (bằng tiếng Hàn). My Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2017.
  15. ^ Sprinkel, tr. 46–47.
  16. ^ Bruner, Raisa (ngày 10 tháng 10 năm 2018). “Backed by Passionate Fans, BTS Takes K-pop Worldwide” [Được hỗ trợ bởi những người hâm mộ cuồng nhiệt, BTS chinh phục K-pop trên toàn cầu]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2019.
  17. ^ Benjamin, Jeff (11 tháng 4 năm 2020). “BTS' Debut Album & Single Return to the Charts After Fan-Led April Fools' Day Joke” [Album đầu tay & đĩa đơn của BTS trở lại bảng xếp hạng sau trò đùa cá tháng tư do người hâm mộ dẫn dắt]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
  18. ^ Sprinkel, tr. 148.
  19. ^ 2013년 31주차 Album Chart [Album Chart tuần 31 năm 2013]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2014.
  20. ^ Kim 2019a, tr. 25–31, Review 01.
  21. ^ Sprinkel, tr. 135.
  22. ^ Park, Jeong-sun (13 tháng 6 năm 2013). '엠카' 방탄소년단, 데뷔 무대부터 압도적 '강렬 군무' [BTS ra mắt với vũ đạo nhóm mạnh mẽ trên M Countdown] (bằng tiếng Hàn). Osen. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2019.
  23. ^ Park, Hyun-min (15 tháng 6 năm 2013). 2AM 정진운, 방탄소년단과 '뮤뱅' 대기실 인증샷 '훈훈' [Jin-woon Jung của 2AM và BTS tại phòng chờ Music Bank] (bằng tiếng Hàn). Osen. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2019.
  24. ^ a b Khadija (2 tháng 5 năm 2022). “BTS Albums in Order: A Complete List with All Song Names” [Album của BTS theo thứ tự: Danh sách đầy đủ với tất cả tên bài hát] (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2022.
  25. ^ “Circle Chart” 2013년 38주차 Digital Chart [Digital Chart tuần 38 năm 2013]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2018.
  26. ^ Lee, Jung-hyuk (28 tháng 8 năm 2013). 방탄소년단, '신인왕 채널방탄'으로 리얼 버라이어티 도전 [BTS thử thách chương trình thực tế với Rookie King: Channel Bangtan]. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2018.
  27. ^ “2013 Melon Music Awards” (bằng tiếng Hàn). Melon. 14 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018.
  28. ^ “The 28th Golden Disc Awards Winners” [Những người đoạt giải tại Golden Disc Awards lần thứ 28]. JoongAng Ilbo (bằng tiếng Anh). Ilgan Sports. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2018.
  29. ^ “23rd Seoul Music Awards Winners” [Những người đoạt giải tại Seoul Music Awards lần thứ 23] (bằng tiếng Hàn). Seoul Music Awards. 23 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2018.
  30. ^ a b Herman, Tamar (14 tháng 5 năm 2018). “How BTS Took Over the World: A Timeline of The Group's Biggest Career Moments”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2018.
  31. ^ “Gaon Album Chart – 2014 (xem #14)”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2016.
  32. ^ “BTS Album & Song Chart History: World Albums”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2017.
  33. ^ a b c d e f g h i j Field, Sonya (16 tháng 7 năm 2021). “BTS songs, albums list: A complete guide to every single tune in order” [Danh sách bài hát, album của BTS: Hướng dẫn đầy đủ về mọi giai điệu theo thứ tự] (bằng tiếng Anh). Hypable. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2022.
  34. ^ Kwon, Ji-young. “BTS Holds First Fan Club Inauguration Ceremony with 3000 Fans” [BTS tổ chức buổi gặp gỡ người hâm mộ đầu tiên với 3000 người hâm mộ]. Naver (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  35. ^ Benjamin, Jeff (13 tháng 8 năm 2014). “BTS Announces Free, Surprise L.A. Concert” [BTS thông báo buổi hòa nhạc miễn phí, bất ngờ tại L.A.]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2019.
  36. ^ Brown, August (ngày 22 tháng 5 năm 2014). “K-pop stars Girls' Generation, Bangtan Boys headline KCON 2014” [Các ngôi sao K-pop Girls 'Generation, Bangtan Boys diễn chính tại KCON năm 2014]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  37. ^ “Gaon Album Chart – 2014 (xem #14)”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2016.
  38. ^ a b Lee, Jung-ah (31 tháng 8 năm 2015). “방탄소년단, 홍콩 콘서트로 11개월 간 월드투어 '성황리 마무리' 출처” [BTS kết thúc thành công chuyến lưu diễn với buổi hòa nhạc cuối cùng ở Hồng Kông] (bằng tiếng Hàn). SBS News. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2017.
  39. ^
  40. ^ “BTS Wraps Up Concert Tour in Japan Gathering 25,000 Fans” [BTS khép lại chuyến lưu diễn Nhật Bản với buổi hòa nhạc quy tụ 25.000 người hâm mộ]. Mwave (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2015.
  41. ^ Hong, Grace Danbi (9 tháng 2 năm 2015). “BTS to Hold Second Exclusive Concert in Seoul” [BTS tổ chức buổi hòa nhạc độc quyền thứ hai tại Seoul] (bằng tiếng Anh). Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2017.
  42. ^ Kim 2019a, tr. 109, Review 06.
  43. ^ Choi, Jin-sil (29 tháng 4 năm 2015). 방탄소년단이 말하는 '화양연화' [BTS nói về Hwayangyeonhwa]. Ten Asia (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  44. ^ Sprinkel, tr. 157, 169.
  45. ^ 2015년 19주차 Digital Chart [Digital Chart tuần 19 năm 2015]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2017.
  46. ^ Mark, Jae-min (13 tháng 5 năm 2015). 방탄소년단, '쇼챔피언' 1위..벌써 5개 트로피 [BTS đạt vị trí số 1 trên Show Champion với tổng cộng 5 giải thưởng]. Osen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2018.
  47. ^ “World Digital Song”. Billboard (bằng tiếng Anh). 11 tháng 7 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2017.
  48. ^ “BTS' 'Dope' music video hits over 100 million views” [Video âm nhạc 'Dope' của BTS đạt hơn 100 triệu lượt xem]. Thông tấn xã Yonhap (bằng tiếng Anh). 25 tháng 10 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2017.
  49. ^ デイリー CDシングルランキング 2015年06月18日付 (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2018.
  50. ^ Shapiro, tr. 39–40.
  51. ^ a b Kim 2019a, tr. 116–122, Review 07.
  52. ^ 2015년 50주차 Album Chart [Album Chart tuần 50 năm 2015]. Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  53. ^ Benjamin, Jeff (5 tháng 1 năm 2016). “BTS' 'Most Beautiful Moment in Life, Pt. 2' Returns to No. 1 on World Albums” ['Most Beautiful Moment in Life, Pt. 2' của BTS trở lại vị trí số 1 trên World Albums]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  54. ^ Benjamin, Jeff (7 tháng 12 năm 2015). “BTS Break Into Billboard 200 With 'The Most Beautiful Moment in Life, Pt. 2' [BTS công phá Billboard 200 với 'The Most Beautiful Moment in Life, Pt. 2']. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  55. ^ Sprinkel, tr. 186.
  56. ^ Choi, Ji-ye (28 tháng 10 năm 2015). 방탄소년단, 콘서트서 신곡 첫 공개...11월 30일 본격 컴백 [BTS phát hành bài hát mới lần đầu tiên tại một buổi hòa nhạc... Sự trở lại vào ngày 30 tháng 11]. My Daily (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  57. ^ a b Shapiro, tr. 41–42.
  58. ^ Hwang, Hye-jin (27 tháng 4 năm 2016). '컴백 D-5' 방탄소년단 트랙리스트 공개, 리믹스버전까지 무려 23곡 ["Sự trở lại D-5" BTS phát hành danh sách bài hát, 23 bài hát bao gồm cả phiên bản remix]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  59. ^ “Fire + Save Me + Epilogue: Young Forever”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2017.
  60. ^ 2016년 19주차 Album Chart [Album Chart tuần 19 năm 2016]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). 7 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  61. ^ 2016년 20주차 Album Chart [Album Chart tuần 20 năm 2016]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). 14 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  62. ^ “BTS Billboard Chart History”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2016.
  63. ^ Chung, Joo-won (19 tháng 11 năm 2016). “BTS, EXO, TWICE top 2016 Melon Music Awards” [BTS, EXO, TWICE dẫn đầu Melon Music Awards năm 2016]. Thông tấn xã Yonhap (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2017.
  64. ^ Lee, Eun-ji (25 tháng 6 năm 2016). 방탄소년단, 아시아투어 10개 도시 14회 전석 매진 [BTS, tất cả 14 buổi hòa nhạc tại 10 thành phố của chuyến lưu diễn châu Á đều cháy vé]. Herald Business (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022 – qua Naver.
  65. ^ 防弾少年団 日本2ndアルバム『YOUTH』リリースより新ビジュアル公開! [BTS phát hành hình ảnh mới cho album tiếng Nhật thứ hai 'Youth'!]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). 13 tháng 7 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  66. ^ “デイリー CDアルバムランキング 2016年09月06日付”. Oricon (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2016.
  67. ^ Jeon, Ah-ram. “방탄소년단 日 정규 2집, 오리콘·타워레코드 차트 1위 기염” [Album phòng thu tiếng Nhật thông thường thứ hai của BTS dẫn đầu Oricon Chart và Tower Records]. Naver (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2016.
  68. ^ Shapiro, tr. 48.
  69. ^ a b Kim 2019a, tr. 149–159, Review 10.
  70. ^ “Bangtan Boys second EP 'Wings' tops 8 music charts” [Mini album thứ hai 'Wings' của Bangtan Boys dẫn đầu 8 bảng xếp hạng âm nhạc] (bằng tiếng Anh). Thông tấn xã Yonhap. 11 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  71. ^ “Circle Chart” 2016년 42주차 Digital Chart [Digital Chart tuần 42 năm 2016]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  72. ^ Benjamin, Jeff (17 tháng 10 năm 2016). “BTS' 'Wings' Sets New U.S. Record for Highest-Charting, Best-Selling K-Pop Album”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2016.
  73. ^ Choi, Seung-hae (30 tháng 10 năm 2017). “BTS' 'Wings' Becomes Highest Selling Album on Gaon Chart” ['Wings' của BTS trở thành album bán chạy nhất trên bảng xếp hạng Gaon] (bằng tiếng Anh). Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  74. ^ Kyung, Sun-mi (10 tháng 2 năm 2017). 방탄소년단 '윙스 외전', 선주문 70만장 돌파..사상 최다 [BTS vượt hơn 700.000 bản album đặt trước cho phiên bản tái phát hành của 'Wings', cao nhất trong lịch sử] (bằng tiếng Hàn). Osen. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2017.
  75. ^ Choi, Na-young (9 tháng 3 năm 2017). 방탄소년단, '윙스' 시리즈 149만장 판매..사상 최고 [Chuỗi 'Wings' của BTS bán được 1,49 triệu bản, cao nhất trong lịch sử] (bằng tiếng Hàn). Osen. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  76. ^ Lee, Chae-yoon (3 tháng 12 năm 2017). 방탄소년단, 2017 MMA '올해의 베스트송' 수상...2년 연속 대상 [BTS đoạt giải Bài hát của năm trong 2 năm liên tiếp tại Melon Music Awards năm 2017] (bằng tiếng Hàn). Sports Today. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2017.
  77. ^ Seong, Ji-yeon (19 tháng 11 năm 2016). 방탄소년단, 서울→브라질→미국 횡단 월드투어 시작, 전세계 팬 공략 [BTS, bắt đầu chuyến lưu diễn thế giới ở Seoul→Braxin→Hoa Kỳ, nhắm mục tiêu đến người hâm mộ trên toàn cầu] (bằng tiếng Hàn). Osen. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2022 – qua Naver.
  78. ^ Liu, Marian (20 tháng 9 năm 2017). “K-pop group's record breaking album conquers three continents” [Album kỷ lục của nhóm nhạc K-pop chinh phục 3 châu lục] (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2019.
  79. ^ Herman, Tamar (16 tháng 12 năm 2016). “BTS Adds 2 New Shows to Sold-Out Wings Tour” [BTS bổ sung 2 buổi hòa nhạc mới cho chuyến lưu diễn cháy vé Wings]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2016.
  80. ^ Lipshutz, Jason (21 tháng 5 năm 2017). “BTS Thanks Fans For Top Social Artist Win at Billboard Music Awards 2017: Watch” [BTS cảm ơn người hâm mộ cho giải Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu tại Billboard Music Awards năm 2017: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2019.
  81. ^ a b Sun, Mi-kyung (24 tháng 8 năm 2017). “방탄소년단, 9월18일 컴백 확정..'Love Yourself' 발매” [BTS xác nhận trở lại vào ngày 18 tháng 9 với album Love Yourself] (bằng tiếng Hàn). Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2017.
  82. ^ Herman, Tamar (5 tháng 7 năm 2017). “BTS Remakes Iconic Seo Taiji & Boys' 'Come Back Home': Watch” [BTS tái hiện lại hình tượng 'Come Back Home' của Seo Taiji & Boys: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2019.
  83. ^ a b Kim 2019a, tr. 186–195, Review 11.
  84. ^ Kim, So-yeon (11 tháng 9 năm 2017). “The Chainsmokers collaborates with BTS for 'Love Yourself' [The Chainsmokers hợp tác với BTS cho 'Love Yourself']. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2017.
  85. ^ Herman, Tamar (18 tháng 9 năm 2017). “BTS Unveils 'Love Yourself: Her' Album & 'DNA' Video” [BTS tiết lộ album 'Love Yourself: Her' & video 'DNA']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
  86. ^ Benjamin, Jeff (20 tháng 9 năm 2017). “BTS Explain Concepts Behind 'Love Yourself: Her' Album: 'This Is the Beginning of Our Chapter Two' [BTS giải thích khái niệm đằng sau album 'Love Yourself: Her': 'Đây là sự khởi đầu trong chương thứ hai của chúng tôi']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  87. ^ Herman, Tamar (18 tháng 9 năm 2017). “BTS Unveils 'Love Yourself: Her' Album & 'DNA' Video” [BTS tiết lộ album 'Love Yourself: Her' và video 'DNA']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
  88. ^ Benjamin, Jeff; Caulfield, Keith (24 tháng 9 năm 2017). “BTS Score Top 10 Debut on Billboard 200 With 'Love Yourself: Her' Album” [BTS lần đầu tiên ra mắt trong top 10 trên Billboard 200 với album 'Love Yourself: Her']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  89. ^ Cho, Yoo-sun (8 tháng 6 năm 2018). “역시 방탄소년단!...14일 만에 166만장 돌파 '大기록' [Quả nhiên là BTS! thiết lập kỷ lục ấn tượng khi vượt 1,66 triệu bản trong 14 ngày]. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018.
  90. ^ '120만장 돌파' 방탄소년단, 이런 디지털 소비 시대에 던진 의미” [BTS vượt hơn 1,2 triệu bản album, ý nghĩa của thời đại kỹ thuật số]. SBS FunE (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  91. ^ Kim, Eun-ae (10 tháng 10 năm 2017). “방탄소년단, 16년만에 단일앨범 120만장 돌파 대기록..가요계 대역사” [BTS làm nên lịch sử trong ngành công nghiệp âm nhạc khi thiết lập kỷ lục 1,2 triệu bản album sau 16 năm]. Osen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2018.
  92. ^ Kelley, Caitlin (20 tháng 9 năm 2017). “BTS Smashes K-Pop Records With 'DNA' Music Video” [BTS phá vỡ kỷ lục K-Pop với video âm nhạc 'DNA']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2017.
  93. ^ Trust, Gary; Benjamin, Jeff (25 tháng 9 năm 2017). “BTS Earns First Billboard Hot 100 Hit With 'DNA' [BTS lần đầu tiên ra mắt trên Billboard Hot 100 với 'DNA']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2017.
  94. ^ Trust, Gary; Benjamin, Jeff (2 tháng 10 năm 2017). “BTS Scores Highest-Charting Billboard Hot 100 Hit for a K-Pop Group With 'DNA'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2017.
  95. ^ Gary, Trust (4 tháng 12 năm 2017). “BTS Mic Drop in Billboard Hot 100” [Mic Drop của BTS trong Billboard Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2017.
  96. ^ “BTS ranks 28th on Billboard Hot 100 with 'Mic Drop' [BTS đạt vị trí số 28 trên Billboard Hot 100 với 'Mic Drop'] (bằng tiếng Anh). Thông tấn xã Yonhap. 4 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2022.
  97. ^ Herman, Tamar (12 tháng 2 năm 2018). “BTS' 'DNA' & 'Mic Drop' Get Certified Gold by RIAA” ['DNA' & 'Mic Drop' của BTS được RIAA trao chứng nhận Vàng]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2018.
  98. ^ a b Herman, Tamar (21 tháng 11 năm 2018). “BTS Recognized by RIAA for First Platinum Single & First Gold Album” [BTS được RIAA công nhận cho đĩa đơn Bạch kim đầu tiên & album Vàng đầu tiên]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2018.
  99. ^ Ming, Cheang (29 tháng 12 năm 2017). “How K-pop made a breakthrough in the US in 2017” [K-pop tạo nên bước đột phá như thế nào ở Hoa Kỳ vào năm 2017] (bằng tiếng Anh). CNBC. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2018.
  100. ^ Steger, Isabella (20 tháng 11 năm 2017). “The Unlikely Meteoric Rise of BTS, the Biggest Name in K-pop Right Now” [Sự trỗi dậy khôn lường của BTS, cái tên đình đám nhất K-pop hiện nay] (bằng tiếng Anh). Quartz. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2018.
  101. ^ “BTS wins Artist of the Year at MAMA for second year” [BTS đoạt giải Nghệ sĩ của năm tại MAMA trong năm thứ hai] (bằng tiếng Anh). Thông tấn xã Yonhap. 1 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2017.
  102. ^ Herman, Tamar (6 tháng 12 năm 2017). “BTS Unveil Sentimental New Japanese Song 'Crystal Snow' [BTS tiết lộ bài hát tiếng Nhật mới đầy tình cảm 'Crystal Snow']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  103. ^ Kim, Young-rak (15 tháng 1 năm 2018). "해외 아티스트 유일"...방탄소년단 日싱글, '더블 플래티넘' 달성” ["Nghệ sĩ nước ngoài duy nhất", đĩa đơn tiếng Nhật của BTS nhận được chứng nhận Bạch kim kép]. Naver (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2018.
  104. ^ BTS(防弾少年団)、『Mステ』初登場!! 生放送で投げキス宣言. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). 18 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2022.
  105. ^ Herman, Tamar (12 tháng 12 năm 2017). “BTS performing in Dick Clark New Years Rockin Eve 2018” [BTS biểu diễn tại Dick Clark New Years Rockin Eve năm 2018]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2018.
  106. ^ Ferber, Taylor (31 tháng 12 năm 2017). “Twitter Has Questions About BTS' NYE Performance” [Twitter đặt câu hỏi về buổi biểu diễn của BTS tại NYE] (bằng tiếng Anh). Bustle.
  107. ^ “UNICEF and BTS celebrate success of 'groundbreaking' LOVE MYSELF campaign” (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Seoul và New York: UNICEF. 5 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2022.
  108. ^ Kim, Myung-shin (11 tháng 1 năm 2018). “방탄소년단, 2018 골든디스크 대상...'4연속 본상' [BTS nhận được 4 giải Bonsang liên tiếp tại Golden Disc Awards năm 2018] (bằng tiếng Hàn). Newsen. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2018.
  109. ^ Sungmyung, Kyungji (26 tháng 1 năm 2018). “방탄소년단, 대상 4관왕 달성.."인생의 황금빛 분기점" [BTS nhận được 4 giải Daesang, "Bước ngoặt vàng trong cuộc đời"] (bằng tiếng Anh). Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2018.
  110. ^ Lee, So-dam (13 tháng 2 năm 2018). “방탄소년단X유튜브 레드, 리얼 성장 다큐 28일 첫 선” [BTS phát hành phim tài liệu trên YouTube Premium vào ngày 28 tháng 3]. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2018.
  111. ^ Herman, Tamar (14 tháng 3 năm 2018). “BTS Documentary Series 'Burn The Stage' to Air on YouTube Premium” [Bộ phim tài liệu BTS 'Burn The Stage' sẽ được phát sóng trên YouTube Premium]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2018.
  112. ^ “全米で大ブレイク中!BTS (防弾少年団)、待望の日本オリジナルアルバム4月4日発売決定!世界中で大ヒットした楽曲に、日本制作楽曲含む新録4曲を収録!初回限定盤には来日ドキュメンタリーほか、映像も収録!” [Album tiếng Nhật thứ ba Face Yourself của BTS chính thức mở bán vào ngày 4 tháng 4]. BTS Japan Official (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 2 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2018.
  113. ^ Herman, Tamar (5 tháng 4 năm 2018). “BTS Tease Next Album In 'Love Yourself' Series With 'Euphoria' Theme Video” [BTS giới thiệu album tiếp theo trong chuỗi 'Love Yourself' với video chủ đề 'Euphoria']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2018.
  114. ^ Herman, Tamar (18 tháng 5 năm 2018). “BTS Releases Expressive 'Love Yourself: Tear' Album: Listen” [BTS phát hành album 'Love Yourself: Tear' đầy cảm xúc: Nghe]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2018.
  115. ^ “Global Sensation BTS to Perform World Television Premiere of New Single at the "2018 Billboard Music Awards" on NBC” [BTS sẽ ra mắt sóng truyền hình toàn cầu với đĩa đơn mới tại Billboard Music Awards năm 2018 trên NBC]. Billboard Music Awards (bằng tiếng Anh). 24 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2021.
  116. ^ Weatherby, Taylor (20 tháng 5 năm 2018). “BTS Put on Epic Performance of 'Fake Love' at the 2018 Billboard Music Awards: Watch” [BTS mang đến màn trình diễn hoành tráng của 'Fake Love' tại Billboard Music Awards năm 2018: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2021.
  117. ^ Martin, Annie (18 tháng 4 năm 2018). “BTS 'honored' by 2018 Billboard Music Awards nomination” [BTS 'vinh dự' được đề cử tại Billboard Music Awards năm 2018]. UPI (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2019.
  118. ^ “BTS Wins Top Social Artist Award at the 2018 Billboard Music Awards” [BTS đoạt giải Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu tại Billboard Music Awards năm 2018]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2018.
  119. ^ Kim 2019a, tr. 222–230, Review 13.
  120. ^ Kreps, Daniel (27 tháng 5 năm 2018). “On the Charts: BTS Become First K-pop Act To Reach Number One” [Trên bảng xếp hạng: BTS trở thành nghệ sĩ K-pop đầu tiên vươn tới vị trí quán quân]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2018.
  121. ^ “Official Albums Chart Top 100”. Official Charts Company (bằng tiếng Anh). 26 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  122. ^ Zellner, Xander (29 tháng 5 năm 2018). “BTS' 'Fake Love' Becomes 17th Primarily Non-English-Language Top 10 on Hot 100” ['Fake Love' của BTS trở thành bài hát không phải tiếng Anh thứ mười bảy ra mắt trong top 10 trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2018.
  123. ^ Herman, Tamar (16 tháng 7 năm 2018). “BTS to Release New Album 'Love Yourself: Answer' in August: Update” [BTS sẽ phát hành album mới 'Love Yourself: Answer' vào tháng 8: Cập nhật]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  124. ^ Viray, Patricia Lourdes (24 tháng 8 năm 2018). “WATCH: BTS drops 'IDOL' music video” [XEM: BTS phát hành video âm nhạc 'IDOL']. The Philippine Star (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2018.
  125. ^ Yam, Kimberly (24 tháng 8 năm 2018). “K-pop Band BTS Drops Song With Nicki Minaj, And The Internet Has No Chill” [Nhóm nhạc K-pop BTS phát hành bài hát với Nicki Minaj và mạng không thể thư giãn]. Huffington Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2018.
  126. ^ Lee, Jung-ho (6 tháng 9 năm 2018). “방탄소년단, 8월 가온차트서 193만장 앨범차트 1위” [BTS dẫn đầu bảng xếp hạng Gaon với 1,93 triệu bản album trong tháng 8] (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2018.
  127. ^ Caulfield, Keith (2 tháng 9 năm 2018). “BTS Scores Second No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Love Yourself: Answer' [BTS đạt album quán quân thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 'Love Yourself: Answer']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2018.
  128. ^ Herman, Tamar (23 tháng 1 năm 2020). “BTS' 'Love Yourself: Answer' Becomes First South Korean Album Certified Platinum by RIAA” [Love Yourself: Answer của BTS trở thành album tiếng Hàn đầu tiên được trao chứng nhận Bạch kim bởi RIAA]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2020.
  129. ^ Herman, Tamar (17 tháng 8 năm 2018). “BTS' Citi Field Show Sells Out Within Minutes” [Buổi hòa nhạc tại Citi Field của BTS bán cháy vé chỉ trong vòng vài phút]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2018.
  130. ^ “Bangtan Boys Kick off World Tour with Concerts in Seoul” [Bangtan Boys khởi động chuyến lưu diễn thế giới với buổi hòa nhạc ở Seoul]. Sports Chosun (bằng tiếng Anh). 27 tháng 8 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2018.
  131. ^ Shapiro, tr. 62–63.
  132. ^ Gemmill, Allie (19 tháng 11 năm 2018). “BTS Releases First English-Language Song "Waste It On Me" [BTS phát hành bài hát tiếng Anh đầu tiên "Waste It On Me"]. Teen Vogue (bằng tiếng Anh). Teen Vogue. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2018.
  133. ^ Yang, Rachel (19 tháng 11 năm 2018). “Steve Aoki Drops Music Video Starring BTS, Ken Jeong and All-Asian Cast (Watch)” [Steve Aoki phát hành video âm nhạc có sự tham gia của BTS, Ken Jeong và dàn diễn viên châu Á (Xem)]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2018.
  134. ^ Herman, Tamar (8 tháng 8 năm 2018). “BTS Add Date at NYC's Citi Field Become First-Ever K-pop Act to Play U.S. Stadium” [BTS bổ sung buổi hòa nhạc tại sân vận động Citi của NYC và trở thành nghệ sĩ K-pop đầu tiên biểu diễn tai một sân vận động của Hoa Kỳ]. MSN (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2018.
  135. ^ McDermott, Maeve (4 tháng 12 năm 2018). “2018's best-selling live artists are Ed Sheeran, Bruce Springsteen and BTS, per Stubhub” [Các nghệ sĩ bán chạy nhất năm 2018 là Ed Sheeran, Bruce Springsteen và BTS, theo Stubhub]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2018.
  136. ^ Herman, Tamar (17 tháng 10 năm 2018). “BTS Renews Contract With Big Hit Entertainment” [BTS gia hạn hợp đồng với Big Hit Entertainment]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2022.
  137. ^ Qin, Amy (9 tháng 11 năm 2018). “K-pop Band BTS Is Dropped From Japanese TV Show Over T-Shirt” [Nhóm nhạc K-pop BTS bị loại khỏi chương trình truyền hình Nhật Bản vì áo phông]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  138. ^ “Popular Korean Band Whose Japan Performance Was Cancelled For T-Shirt Mocking A-Bomb Victims, Once Posed With Nazi SS Death Head Symbols, Flew Nazi-Like Flags At Concert” [Buổi biểu diễn của nhóm nhạc nổi tiếng Hàn Quốc ở Nhật Bản đã bị hủy vì áo phông, biểu tượng Đức Quốc Xã và hình ảnh lá cờ tại buổi hòa nhạc] (bằng tiếng Anh). Simon Wiesenthal Center. 11 tháng 11 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  139. ^ Kim, Hyung-jin (13 tháng 11 năm 2018). “BTS' agency apologizes for boy-band members' atomic-bomb shirts, swastika hat” [Big Hit xin lỗi vì áo phông hình bom nguyên tử, mũ hình chữ vạn của các thành viên trong nhóm]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  140. ^ McCurry, Justin (14 tháng 11 năm 2018). “BTS: Korean band's managers apologise over Nazi photos”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2022.
  141. ^ “Wiesenthal Center Welcomes K-Pop Group's Apology For Incidents Offensive To Jewish And Japanese Victims Of WWII” [Wiesenthal Center hoan nghênh lời xin lỗi của nhóm nhạc K-Pop về sự cố tấn công các nạn nhân Do Thái và Nhật Bản trong thế chiến thứ hai] (bằng tiếng Anh). Simon Wiesenthal Center. 13 tháng 11 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  142. ^ Kim, Sun-kyung (16 tháng 11 năm 2018). “방탄소년단 소속사, 티셔츠 논란에 원폭 피해자 찾아 공식 사과” [Big Hit gửi lời xin lỗi chính thức tới các nạn nhân bom nguyên tử]. Naver (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  143. ^ a b Lie, tr. 126.
  144. ^ Bình An (3 tháng 11 năm 2018). “BTS và sức công phá không tưởng tại MAMA 2018”. Tuổi Trẻ Online (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2018.
  145. ^ Benjamin, Jeff (6 tháng 12 năm 2018). “The Year in K-pop on the Charts: BTS Breaks Genre Barriers While the Scene Expands Its Reach” [Năm của K-pop trên bảng xếp hạng: BTS phá vỡ mọi rào cản âm nhạc trong khi mở rộng phạm vi tiếp cận]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2018.
  146. ^ Kim, Sohee. “The Bloomberg 50”. Bloomberg (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2018.
  147. ^ Nickolai, Nate (10 tháng 2 năm 2019). “BTS Makes History at the Grammys as First K-pop Presenters” [BTS làm nên lịch sử tại giải Grammy với tư cách là nghệ sĩ K-pop đầu tiên]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  148. ^ Velez, Jennifer (20 tháng 11 năm 2019). “BTS' 2019 GRAMMY Suits On Display At GRAMMY Museum” [Trang phục GRAMMY năm 2019 của BTS được trưng bày tại bảo tàng GRAMMY]. Grammy (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2021.
  149. ^ Halsey (17 tháng 4 năm 2019). “BTS: The 100 Most Influential People of 2019” [BTS: 100 nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất năm 2019]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  150. ^ Herman, Tamar (12 tháng 4 năm 2019). “BTS Dance It Up with Halsey in Vibrant 'Boy With Luv' Music Video: Watch” [BTS nhảy cùng Halsey trong video âm nhạc sôi động 'Boy With Luv': Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2019.
  151. ^ Herman, Tamar (11 tháng 4 năm 2019). “BTS Gears Up to Perform on 'Saturday Night Live' in New Promo: Watch” [BTS chuẩn bị biểu diễn trên 'Saturday Night Live' trong chương trình quảng bá mới: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  152. ^ “BTS become first Korean artists to top UK chart” [BTS trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng của Vương quốc Anh]. BBC News. 19 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  153. ^ Brandle, Lars (22 tháng 4 năm 2019). “BTS Make Chart History as 'Map Of The Soul: Persona' Bows at No. 1 In Australia” [BTS làm nên lịch sử bảng xếp hạng với 'Map Of The Soul: Persona' ở vị trí số 1 tại Úc]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  154. ^ “BTS Meets the Beatles and the Monkees in Billboard Chart History With 'Map of the Soul: Persona' [BTS gia nhập hàng ngũ của The Beatles và The Monkees trong lịch sử bảng xếp hạng Billboard với 'Map of the Soul: Persona']. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 21 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2019.
  155. ^ Kim, Ha-jin (9 tháng 5 năm 2019). “방탄소년단, 가온차트 음반·다운로드 1위 '2관왕' [BTS dẫn đầu bảng xếp hạng album và lượt tải của Gaon]. Ten Asia (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019 – qua Naver.
  156. ^ Herman, Tamar (25 tháng 6 năm 2019). “BTS' 'Map of the Soul: Persona' Confirmed as Best-Selling Album in South Korean History: Guinness World Records”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2022.
  157. ^ Trust, Gary (23 tháng 4 năm 2019). “Lil Nas X's 'Old Town Road' Leads Billboard Hot 100 for Third Week; Sam Smith & Normani, BTS & Halsey Hit Top 10” ['Old Town Road' của Lil Nas X dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 cho tuần thứ ba; Sam Smith & Normani, BTS & Halsey đạt top 10]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  158. ^ Lynch, Joe (1 tháng 5 năm 2019). “2019 Billboard Music Awards Winners: The Complete List”. Billboard (bằng tiếng Anh).
  159. ^ Ginsberg, Gab (19 tháng 2 năm 2019). “BTS Add Additional 2019 Stadium Tour Stops: See the New Dates” [BTS bổ sung thêm các buổi diễn cho chuyến lưu diễn năm 2019: Xem các buổi hòa nhạc mới]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  160. ^ Herman, Tamar (1 tháng 3 năm 2019). “BTS Sell Out 'Love Yourself: Speak Yourself' Stadium Dates in England, France & U.S.” [BTS bán cháy vé các buổi hòa nhạc tại sân vận động 'Love Yourself: Speak Yourself' ở Anh, Pháp và Hoa Kỳ]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  161. ^ Herman, Tamar (7 tháng 6 năm 2019). “BTS & Charli XCX's 'Dream Glow': Watch” ['Dream Glow' của BTS & Charli XCX: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  162. ^ Herman, Tamar (14 tháng 6 năm 2019). “BTS' J-Hope & V Usher In 'A Brand New Day' In Collab with Zara Larsson: Stream It Now” [J-Hope & V của BTS trong 'A Brand New Day' hợp tác với Zara Larsson: Phát trực tiếp ngay]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  163. ^ Herman, Tamar (21 tháng 6 năm 2019). “BTS' RM and Suga Team Up With Juice WRLD For 'All Night': Listen” [RM và Suga của BTS hợp tác với Juice WRLD cho 'All Night': Nghe]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  164. ^ Herman, Tamar (28 tháng 7 năm 2019). “BTS Release 'BTS World' Soundtrack Album Including New Track 'Heartbeat': Listen” [BTS phát hành album nhạc phim 'BTS World' bao gồm bài hát mới 'Heartbeat': Nghe]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  165. ^ Kim, Soo-kyung (8 tháng 8 năm 2019). 백현 '시티 라이츠', 가온차트 솔로 앨범 월간 최다판매량 기록 [City Lights của Baekhyun đạt doanh số album solo hàng tháng cao nhất trên Gaon]. Ten Asia (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  166. ^ Haddad, Hanan (3 tháng 7 năm 2019). “BTS Top Charts With New Japanese Single and MV 'Lights': Watch” [BTS dẫn đầu bảng xếp hạng với đĩa đơn tiếng Nhật mới và video âm nhạc 'Lights': Xem]. E! Online (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  167. ^ Lee, Min-ji (3 tháng 7 năm 2019). 방탄소년단, 日 싱글 'Lights/Boy With Luv' 오리콘 데일리 차트 1위 [Đĩa đơn tiếng Nhật Lights/Boy With Luv của BTS dẫn đầu Oricon Daily Chart]. Osen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019 – qua Naver.
  168. ^ BTS新曲初100万枚出荷!欧米などから予約殺到 [Đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên của BTS đạt 1 triệu bản với hàng loạt đơn hàng đặt trước từ châu Âu và Hoa Kỳ]. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). 4 tháng 7 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  169. ^ “Billboard Japan Hot 100 2019/07/08”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2019.
  170. ^ “Billboard Japan Hot 100 2019/07/15”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2022.
  171. ^ “BTS becomes million seller in Japan with their single album” [BTS trở thành nghệ sĩ triệu bản tại Nhật Bản với album đĩa đơn của họ]. The Dong-a Ilbo (bằng tiếng Anh). 10 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2020.
  172. ^ Lee, Jae-eun (9 tháng 8 năm 2019). 한일 갈등에도 방탄소년단, 日서 싱글음반 100만장 돌파 [Bất chấp xung đột giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, BTS vượt hơn 1 triệu bản album tại Nhật Bản]. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2020 – qua Naver.
  173. ^ “BTS Single 'Lights/Boy With Luv' Gets 'Million' Certification in Japan”. Variety. 9 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2020.
  174. ^ Doanh số tích lũy của Love Yourself: Her & Love Yourself: Tear:
  175. ^
  176. ^ Benjamin, Jeff (31 tháng 10 năm 2019). “Here's What Went Down at BTS' 'The Final' World Tour Concert in Seoul” [Đây là những gì đã diễn ra trong chuyến lưu diễn thế giới 'The Final' tại buổi hòa nhạc ở Seoul]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2019.
  177. ^ Frankenburg, Eric (5 tháng 12 năm 2019). “The Year in Touring Charts 2019: Ed Sheeran Meets The Rolling Stones in Boxscore History” [Bảng xếp hạng lưu diễn năm 2019: Ed Sheeran gia nhập hàng ngũ của The Rolling Stones trong lịch sử Boxscore]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  178. ^ Herman, Tamar (18 tháng 10 năm 2019). “BTS' Epic Music Video for 'Make It Right' With Lauv Is a Homage to ARMY: Watch” [Video âm nhạc hoành tráng của BTS cho 'Make It Right' với Lauv là một sự kính trọng đối với ARMY: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2019.
  179. ^ Grein, Paul (15 tháng 11 năm 2019). “Taylor Swift, BTS & More Record-Setters at the 2019 American Music Awards” [Taylor Swift, BTS và nhiều kỷ lục khác tại American Music Awards năm 2019]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2019.
  180. ^ Lee, Ho-yeon (30 tháng 11 năm 2019). “[MMA 종합] 방탄소년단, 대상 4개 석권·총 8관왕 "아미 '보라'해". Hankook Ilbo (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2019.
  181. ^ Park, Yoon-jin (4 tháng 12 năm 2019). “[2019 마마] "올해의 가수는 방탄소년단!"...4개 대상 싹쓸이 '9관왕' [종합]”. My Daily (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2019.
  182. ^ “BTS Makes Historic Win At 2019 MAMA!” [BTS làm nên lịch sử với chiến thắng tại MAMA năm 2019!]. Myx (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2019.
  183. ^ Herman, Tamar (6 tháng 1 năm 2020). “Here's How BTS Won Big at South Korea's 34th Golden Disc Awards” [Đây là cách BTS thắng lớn tại Golden Disc Awards lần thứ 34 của Hàn Quốc]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  184. ^ “Nielsen Music-Year-end Music Report U.S. 2019” [Báo cáo âm nhạc cuối năm của Nielsen Music ở Hoa Kỳ năm 2019] (PDF). Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2020.
  185. ^ “Billboard 200 Artists - Duo/Group” [Billboard 200 Artists - Bộ đôi/Nhóm nhạc]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2021.
  186. ^ “Best Sellers and Global Artists of the Year–IFPI–Representing the recording industry worldwide” [Nghệ sĩ bán chạy nhất và nghệ sĩ toàn cầu của năm–IFPI–Đại diện cho ngành công nghiệp ghi âm toàn cầu]. IFPI (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  187. ^ Lee, Jaehyun (20 tháng 3 năm 2020). 방탄소년단, IFPI '글로벌 앨범차트' 3위...한국 최초 '2년연속 톱10' [BTS đạt vị trí số 3 trên Global Album Chart của IFPI]. Newsis (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020 – qua Naver.
  188. ^ Lee, Ho-yeon (20 tháng 3 năm 2020). 방탄소년단, 韓 가수 최초 2년 연속 IFPI '글로벌 앨범 차트' 톱 10 [BTS là nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên ra mắt trên Global Album Chart của IFPI trong 2 năm liên tiếp]. Hankook Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020 – qua Naver.
  189. ^ Lee, Jae-hoon (3 tháng 3 năm 2020). 방탄소년단, 국제음반산업협회 '톱10'...非영어권 최초 2년연속 [BTS là nghệ sĩ không nói tiếng Anh đầu tiên được IFPI vinh danh trong 2 năm liên tiếp]. Newsis (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020 – qua Naver.
  190. ^ Lee, Ho-yeon (3 tháng 3 năm 2020). "비영어권 최초" 방탄소년단, 2년 연속 IFPI 선정 '글로벌 아티스트' 톱 10 [BTS là nghệ sĩ không nói tiếng Anh đầu tiên được IFPI vinh danh là Nghệ sĩ thu âm toàn cầu của năm trong 2 năm liên tiếp]. Hankook Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020 – qua Naver.
  191. ^ Strauss, Matthew (17 tháng 1 năm 2020). “Listen to BTS' New Song "Black Swan" [Nghe bài hát mới "Black Swan" của BTS]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  192. ^ Zemler, Emily (17 tháng 1 năm 2020). “Watch BTS' Dance-Inspired Art Film For New Single 'Black Swan' [Xem đoạn phim nghệ thuật lấy cảm hứng từ vũ đạo của BTS cho đĩa đơn mới 'Black Swan']. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  193. ^ Kim, Hyun-rok (18 tháng 2 năm 2020). '컴백 D-3' 방탄소년단 새 역사 썼다...선주문 402만 돌파 '역대최다' [Map of the Soul: 7 của BTS đạt 4,02 triệu bản album đặt trước]. Sports TV News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2020 – qua Naver.
  194. ^ “2020 Grammys: Lil Nas X, BTS & More To Perform” [GRAMMY năm 2020: Lil Nas X, BTS và nhiều nghệ sĩ khác sẽ biểu diễn]. Grammy (bằng tiếng Anh). 23 tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2020.
  195. ^ Kim, Hyo-jeong (24 tháng 1 năm 2020). 방탄소년단, 그래미 어워즈서 공연...한국 가수 최초 [BTS, Grammy Awards Performance First Korean singer] (bằng tiếng Hàn). Yonhap News Agency. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2020.
  196. ^ “BTS to be First S. Korean Artist to Perform at Grammy Awards” [BTS trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên biểu diễn tại Grammy Awards]. KBS World (bằng tiếng Anh). 25 tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2020.
  197. ^ “Map of the Soul: 7 by BTS” [Map of the Soul: 7 bởi BTS]. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2020.
  198. ^ Cho, Na-young (24 tháng 2 năm 2020). "방탄소년단 좋아한 것이 최고의 선택임을 증명한 앨범"..美-英 해외 유력매체 '극찬' (bằng tiếng Hàn). OSEN. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2020.
  199. ^ Hugh, McIntyre (2 tháng 3 năm 2020). “BTS's New Album Has Now Hit No. 1 In The Five Largest Music Markets In The World” [Album mới của BTS hiện đã đạt vị trí số 1 tại 5 thị trường âm nhạc lớn nhất thế giới]. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020.
  200. ^ Herman, Tamar (21 tháng 2 năm 2020). “BTS Unveil Fierce Manifesto Music Video for 'Map of the Soul: 7' Single 'ON': Watch” [BTS tiết lộ video âm nhạc khốc liệt cho đĩa đơn 'ON' từ 'Map of the Soul: 7': Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2020.
  201. ^ Kim, Yeon-ji (12 tháng 3 năm 2020). 방탄소년단 'MAP OF THE SOUL : 7', 판매량 411만 장..韓 가수 신기록 [BTS 'Map of the Soul: 7', sales volume 4.11 million copies] (bằng tiếng Hàn). Daily Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2021 – qua Naver.
  202. ^ McIntyre, Hugh (6 tháng 2 năm 2020). “Presales Of BTS's New Album Have Now Reportedly Passed 4 Million” [Số lượng đặt trước của album mới của BTS được cho là vượt hơn 4 triệu bản]. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2020.
  203. ^ Caulfield, Keith (1 tháng 3 năm 2020). “BTS Achieves Fourth No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Map of the Soul: 7' [BTS đạt album quán quân thứ tư trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 'Map of the Soul: 7']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2020.
  204. ^ Trust, Gary (3 tháng 3 năm 2020). “BTS Sets New Career Best on Hot 100 as 'On' Blasts in at No. 4; Roddy Ricch's 'The Box' Rules For Eighth Week” [BTS lập thành tích mới xuất sắc nhất trong sự nghiệp trên Hot 100 với 'On' bùng nổ ở vị trí số 4; 'The Box' của Roddy Ricch dẫn đầu trong tuần thứ tám]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020.
  205. ^ Herman, Tamar (21 tháng 1 năm 2020). “BTS Announce 'Map of the Soul' Tour Dates” [BTS công bố lịch trình lưu diễn 'Map of the Soul']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020.
  206. ^ Dams, Tim (28 tháng 4 năm 2020). “BTS Postpone North American 'Map of the Soul' Tour Amid Coronavirus Pandemic” [BTS hoãn chuyến lưu diễn 'Map of the Soul' tại Bắc Mỹ giữa đại dịch coronavirus]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2020.
  207. ^ “BTS breaks 20 million album sales record in S. Korea” [BTS phá vỡ kỷ lục bán album với 20 triệu bản tại Hàn Quốc]. The Dong-a Ilbo. 10 tháng 4 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  208. ^ “BTS becomes bestselling K-pop singers” [BTS trở thành ca sĩ K-pop bán chạy nhất]. Thông tấn xã Yonhap (bằng tiếng Anh). 9 tháng 4 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  209. ^ Rolli, Bryan (9 tháng 4 năm 2020). “BTS's 'Map Of The Soul: 7' Makes Gaon Chart History With 4 Million Certified Sales” ['Map Of The Soul: 7' của BTS làm nên lịch sử trên bảng xếp hạng Gaon với doanh số 4 triệu được chứng nhận]. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  210. ^ Kim, Jae-ha (17 tháng 4 năm 2020). “BTS Gifts Fans With 24 Hours of Bang Bang Con: Five Moments to Look For” [Quà tặng của BTS dành cho người hâm mộ với 24 giờ trong Bang Bang Con: Năm khoảnh khắc cần tìm kiếm]. Variety (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2020.
  211. ^ William, Chris (7 tháng 6 năm 2020). “BTS Brings a Bounty of Hits to Close Out 'Dear Class of 2020' (Watch)”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2022.
  212. ^ “BTS's Speech At YouTube Dear Class Of 2020: Watch” [Bài phát biểu của BTS tại YouTube Dear Class Of 2020: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). 7 tháng 6 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2020.
  213. ^ Daly, Rhian (15 tháng 6 năm 2020). “BTS live in Seoul: more like a hang out with friends than a super-slick livestreamed gig” (bằng tiếng Anh). NME. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2022.
  214. ^ Jin, tr. 142.
  215. ^ Frater, Patrick (14 tháng 6 năm 2020). “BTS' 'Bang Bang Con: The Live' Claims Record Viewership for Online Concert” ['Bang Bang Con: The Live' BTS công bố lượng người xem kỷ lục cho buổi hòa nhạc trực tuyến]. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2020.
  216. ^ BTS、新曲「Stay Gold」を全世界同時に先行配信決定 [BTS phát hành trước đĩa đơn Stay Gold trên toàn cầu]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). 11 tháng 6 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2020.
  217. ^ Rowley, Glenn (14 tháng 7 năm 2020). “Get Ready For A 'Journey,' Because BTS' New Japanese Album Has Arrived: Stream it Now” [Hãy sẵn sàng cho một 'hành trình' vì album tiếng Nhật mới của BTS đã đến: Phát trực tiếp ngay]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021.
  218. ^ BTS、海外男性アーティストのアルバム初週売上歴代1位に 今年度最高初週&累積売上も [BTS dẫn đầu doanh số album tuần đầu tiên cao nhất cho nam nghệ sĩ nước ngoài, doanh số tuần đầu tiên và tổng doanh số cao nhất trong năm]. Oricon News (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 7 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2020.
  219. ^ Porterfield, Carlie (21 tháng 8 năm 2020). “BTS Breaks YouTube One-Day Record With 'Dynamite' Debut” [BTS phá vỡ kỷ lục ngày đầu trên YouTube với lần ra mắt 'Dynamite']. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2020.
  220. ^ Trust, Gary (31 tháng 8 năm 2020). “BTS' 'Dynamite' Blasts in at No. 1 on Billboard Hot 100, Becoming the Group's First Leader”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2022.
  221. ^ “BTS: K-pop stars become first all-South Korean act to top US singles charts”. The Guardian. 1 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2022.
  222. ^ Aniftos, Rania (31 tháng 8 năm 2020). “BTS' ARMY Are Celebrating 'Dynamite' at No. 1 on Billboard Hot 100: 'No Words Just Tears'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2020.
  223. ^ Trust, Gary (28 tháng 9 năm 2020). “BTS' 'Dynamite' Dominates Both of Billboard's New Global Charts” ['Dynamite' của BTS thống trị cả hai bảng xếp hạng toàn cầu mới của Billboard]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2020.
  224. ^ “Chart History BTS”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2020.
  225. ^ Trust, Gary (2 tháng 11 năm 2020). 'This One Has That Staying Power': BTS Achieve First Top 10 on a Billboard Radio Airplay Chart With 'Dynamite' ['Đây chính là sức mạnh duy trì': BTS đạt được top 10 đầu tiên trên Billboard Radio Airplay Chart với 'Dynamite']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2020.
  226. ^ Unterberger, Andrew (30 tháng 8 năm 2020). “BTS Make Explosive VMAs Debut With 'Dynamite' at 2020 MTV VMAs” [BTS khiến VMAs bùng nổ với màn ra mắt 'Dynamite' tại MTV VMAs năm 2020]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2021.
  227. ^ Yonhap (31 tháng 8 năm 2020). “BTS wins 4 awards at MTV VMAs, performs 'Dynamite'. The Korean Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
  228. ^ Morin, Natalie (31 tháng 8 năm 2020). “BTS Make History With This VMA Win—But What Does It All Really Mean?” [BTS làm nên lịch sử với giải VMA này—Nhưng tất cả thực sự có ý nghĩa gì?]. Refinery29 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2020.
  229. ^ Daw, Stephen (15 tháng 10 năm 2020). “BTS Blow the Crowd Away With 'Dynamite' Performance at the 2020 Billboard Music Awards” [BTS khoáy động đám đông với buổi biểu diễn 'Dynamite' tại Billboard Music Awards năm 2020]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2020.
  230. ^ “BTS wins fourth Top Social Artist prize at Billboard Music Awards”. The Korea Herald. 15 tháng 10 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2022.
  231. ^ Rowley, Glenn (2 tháng 10 năm 2020). “BTS Add Charm to Jason Derulo and Jawsh 685's 'Savage Love' Remix” [BTS thêm sự quyến rũ vào bản remix cho 'Savage Love' của Jason Derulo và Jawsh 685]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2020.
  232. ^ Trust, Gary (12 tháng 10 năm 2020). “Jawsh 685, Jason Derulo & BTS' 'Savage Love' Soars to No. 1 on Billboard Hot 100” [Jawsh 685, Jason Derulo và 'Savage Love' của BTS vươn lên vị trí số 1 trên Billboard Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2020.
  233. ^ Willman, Chris (12 tháng 10 năm 2020). “BTS' Weekend Virtual Concerts Sell 993,000 Tickets”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2020.
  234. ^ Son, Jin-ah (8 tháng 10 năm 2020). “방탄소년단 온라인 콘서트, 준비 기간만 1년...관전포인트 셋” [Thời gian chuẩn bị cho buổi hòa nhạc trực tuyến của BTS là 1 năm, 3 điểm cần lưu ý]. MK Sports (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2020.
  235. ^ Hwang, Hye-jin (25 tháng 9 năm 2020). 빅히트 측 "방탄소년단 10월 오프라인 콘서트 취소, 온라인만 진행"(공식) (bằng tiếng Hàn). Newsen. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2020.
  236. ^ Murphy, Eryn (25 tháng 9 năm 2020). “BTS' 'Map of the Soul ON:E' Offline Concert Is Cancelled and Will Only Be Online Going Forward” [Buổi hòa nhạc ngoại tuyến 'Map of the Soul ON: E' của BTS bị hủy bỏ và sẽ chỉ được phát trực tuyến]. Showbiz Cheat Sheet (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2020.
  237. ^ Peters, Mitchell (30 tháng 10 năm 2020). “BTS Announces the Title For Lead Single on New Album 'BE (Deluxe Edition)' [BTS công bố tên gọi cho bài hát chủ đề trong album mới 'BE (Deluxe Edition)']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2020.
  238. ^ a b Trust, Gary (30 tháng 11 năm 2020). “BTS' 'Life Goes On' Launches as Historic No. 1 on Billboard Hot 100” ['Life Goes On' của BTS làm nên lịch sử với vị trí số 1 trên Billboard Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  239. ^ Cruz, Lenika (30 tháng 11 năm 2020). “BTS's 'Life Goes On' Did the Impossible” ['Life Goes On' của BTS tạo nên điều bất khả thi]. The Atlantic (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2020.
  240. ^ Ban, D.K. (25 tháng 11 năm 2020). “BTS wins Grammy nomination for best pop duo/group performance”. Thông tấn xã Yonhap. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  241. ^ “BTS wins special award at Japan Record Awards” [BTS đoạt giải đặc biệt tại Japan Record Awards] (bằng tiếng Anh). Thông tấn xã Yonhap. 31 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022 – qua The Korea Herald.
  242. ^ Kyung Hyun Kim 2021, tr. xi.
  243. ^ Lee, Cydney (22 tháng 11 năm 2021). “BTS Delivers Smooth Performance of 'Butter' to Cap Off 2021 AMAs”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2022.
  244. ^ a b Brandle, Lars (4 tháng 3 năm 2021). “BTS Crowned IFPI Global Recording Artist of 2020” [BTS được IFPI vinh danh là Nghệ sĩ thu âm toàn cầu của năm 2020]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2021.
  245. ^ Brandle, Lars (11 tháng 3 năm 2021). “BTS Bag 'Unprecedented' 1-2 on IFPI's Global Album Sales Chart For 2020” [BTS đạt vị trí số 1-2 'chưa từng có' trên Global Album Sales Chart năm 2020 của IFPI]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2021.
  246. ^ “BTS' Map of the Soul: 7 announced as first ever winner of IFPI's newly-launched Global Album All Format Chart” ['Map of the Soul: 7' của BTS được công bố là quán quân trên Global Album All Format Chart của IFPI]. IFPI (bằng tiếng Anh). 10 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2021.
  247. ^ Lee, Minji (15 tháng 3 năm 2021). “(LEAD) BTS lights up Grammys with stellar performance of 'Dynamite' [BTS thắp sáng Grammy với màn trình diễn xuất sắc của 'Dynamite']. Thông tấn xã Yonhap (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2021.
  248. ^ Mulenga, Natasha (2 tháng 4 năm 2021). “BTS's "Film Out" Music Video Sparks BU Fan Theories” [Video âm nhạc cho "Film Out" của BTS chỉ dẫn người hâm mộ về lý thuyết BU]. Teen Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2021.
  249. ^ “BTS' Bang Bang Con 21: K-pop group kicks off third concert amid pandemic on BangtanTV” ['Bang Bang Con 21' của BTS: Nhóm nhạc K-pop khởi động buổi hòa nhạc thứ ba giữa đại dịch trên BangtanTV]. Firstpost (bằng tiếng Anh). 17 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  250. ^ Kaufman, Gil (26 tháng 4 năm 2021). “BTS Announce Second English-Language Single 'Butter': See When It's Dropping” [BTS công bố đĩa đơn tiếng Anh thứ hai 'Butter': Xem thời gian phát hành]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  251. ^ Trust, Gary (1 tháng 6 năm 2021). “Smooth Start: BTS' 'Butter' Blasts In at No. 1 on Billboard Hot 100” [Khởi đầu suôn sẻ: 'Butter' của BTS bùng nổ ở vị trí số 1 trên Billboard Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2021.
  252. ^ Mamo, Heran (9 tháng 7 năm 2021). “BTS Releases 'Permission to Dance' From 'Butter' CD Single: Stream It Now” [BTS phát hành đĩa đơn 'Permission to Dance' từ CD 'Butter': Phát trực tiếp ngay]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2021.
  253. ^ Trust, Gary (19 tháng 7 năm 2021). “BTS Blasts Onto Hot 100 at No. 1 With 'Permission to Dance,' The Kid LAROI & Justin Bieber Bow at No. 3 With 'Stay' [BTS bùng nổ ở vị trí số 1 với 'Permission to Dance', The Kid LAROI và Justin Bieber ở vị trí số 3 với 'Stay']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  254. ^ Jones, Damian (13 tháng 9 năm 2021). “Coldplay and BTS announce new single 'My Universe' [Coldplay và BTS công bố đĩa đơn mới 'My Universe']. NME (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2021.
  255. ^ Trust, Gary (4 tháng 10 năm 2021). “Coldplay & BTS' 'My Universe' Blasts Off at No. 1 on Billboard Hot 100” ['My Universe' của Coldplay & BTS bùng nổ ở vị trí số 1 trên Billboard Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2021.
  256. ^ “BTS to hold online concert next month” [BTS sẽ tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến vào tháng tới]. The Korea Times (bằng tiếng Anh). 15 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2021.
  257. ^ Shim, Sun-ah (24 tháng 11 năm 2021). “BTS nominated for Grammy award for best pop group performance” [BTS được đề cử giải Grammy cho Trình diễn Song tấu/Nhóm nhạc Pop xuất sắc nhất]. Thông tấn xã Yonhap (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021.
  258. ^ a b Bowenbank, Star (3 tháng 4 năm 2022). “BTS Channels James Bond for Undercover 'Butter' Performance at the 2022 Grammys”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2022.
  259. ^ Murphy, Eryn (7 tháng 12 năm 2021). “Review: BTS Reclaim Their Future With Permission to Dance On Stage – LA Show”. Showbiz Cheat Sheet. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2022.
  260. ^ Perry, Kevin (30 tháng 11 năm 2021). “BTS review, Los Angeles: They came, they sang, they conquered” [Bài đánh giá BTS, Los Angeles: Họ đến, họ hát, họ chinh phục]. Independent (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2021.
  261. ^ Frankenberg, Eric (3 tháng 12 năm 2021). “BTS Scores the Biggest Boxscore in Almost a Decade, Thanks to Four Nights at SoFi Stadium”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2021.
  262. ^ Baek, Jae-hwan (4 tháng 11 năm 2021). "슈퍼캐스팅, 방탄소년단" 네이버웹툰, 하이브 오리지널 콘텐츠 라인업 공개 ["Supercasting, BTS" Naver Webtoon, đội hình cho nội dung gốc của Hybe được tiết lộ] (bằng tiếng Hàn). KBS Media. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2022 – qua Naver.
  263. ^ Ramanchandran, Naman (19 tháng 1 năm 2022). "BTS Online Comic '7Fates: CHAKHO' Hits 15 Million Views – Global Bulletin" ["Bộ truyện tranh trực tuyến '7Fates: CHAKHO' của BTS đạt 15 triệu lượt xem – Bản tin toàn cầu"] (bằng tiếng Anh). Variety. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2022.
  264. ^ Yoon, John (10 tháng 3 năm 2022). “BTS performs live in Seoul for the first time in over two years”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2022.
  265. ^ Yoon, Dasl (16 tháng 2 năm 2022). “BTS Returns From Break With First South Korean Concerts Since 2019”. The Wall Street Journal. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2022.
  266. ^ Horton, Adrian (4 tháng 4 năm 2022). “Grammy awards 2022: Olivia Rodrigo wins big and Ukraine's Zelenskiy makes cameo”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2022.
  267. ^ Lee, Jian (10 tháng 4 năm 2022). “BTS receives seven nominations for Billboard Music Awards” (bằng tiếng Anh). Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2022.
  268. ^ Gilmore, Kelly (15 tháng 5 năm 2022). “BTS Makes History at 2022 Billboard Music Awards With Smooth Like Butter Wins” (bằng tiếng Anh). E! News. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2022.
  269. ^ Sachdeva, Maanya (16 tháng 5 năm 2022). “BTS break Destiny's Child record for winning most Billboard Music Awards ever”. The Independent (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2022.
  270. ^ Morin, Natalie (10 tháng 6 năm 2022). “BTS Celebrate Their Brilliant Past and Look Toward a Bright Future on 'Proof'. Rolling Stone (bằng tiếng Anh).
  271. ^ Rhian, Daly (6 tháng 5 năm 2022). “BTS announce new single 'Yet To Come (The Most Beautiful Moment)' (bằng tiếng Anh). NME. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2022.
  272. ^ Carras, Christi (17 tháng 4 năm 2022). “BTS ends Las Vegas concert series with a major announcement”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  273. ^ Hwang, Hye-jin (14 tháng 6 năm 2022). 방탄소년단, 단체활동 잠정중단 선언 "팬들에게 죄짓는 기분" 눈물 [BTS thông báo tạm ngừng hoạt động nhóm, "Tôi cảm thấy có lỗi với người hâm mộ"]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022 – qua Naver.
  274. ^ Kaufman, Gil (14 tháng 6 năm 2022). “BTS Announce They're 'Going on Hiatus': 'We Have to Accept That We've Changed'. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022.
  275. ^ a b Lee, Minji (21 tháng 5 năm 2021). “BTS company Hybe unveils music museum dedicated to fans, artists” (bằng tiếng Anh). Thông tấn xã Yonhap. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2022.
  276. ^ “Label says BTS plan for solo projects plan is not a hiatus” (bằng tiếng Anh). AP. 14 tháng 6 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022.
  277. ^ Hwang, Hye-jin (15 tháng 6 năm 2022). 방탄소년단 제이홉, 솔로앨범 첫 주자 확정 '개별활동 본격화'[공식]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022 – qua Daum.
  278. ^ Lee, Youkyung (15 tháng 6 năm 2022). “BTS Pop Band Triggers $1.7 Billion Stock Rout on Shift to Solos” (bằng tiếng Anh). Bloomberg News. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2022.
  279. ^ a b Choi, Soo-Hyang (17 tháng 10 năm 2022). “K-pop stars BTS to serve military duty”. Reuters (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2022.
  280. ^ Brandle, Lars (24 tháng 8 năm 2022). “BTS Unveils Date and Venue for Concert In Busan”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2022.
  281. ^ Aveek Bhowmik (28 tháng 9 năm 2022). “BTS Managing Agency Hybe's Stock Slumps Below IPO Price For 1st Time — Loses $10B In Market Value Since Peak” (bằng tiếng Anh). Benzinga.
  282. ^ Kim, Sohee (15 tháng 10 năm 2022). “K-Pop Sensation BTS Gives What Could Be Last Concert for Years” (bằng tiếng Anh). Bloomberg News. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2022.
  283. ^ Krol, Charlotte (16 tháng 10 năm 2022). “BTS' Jin announces solo album, says new single "will come out soon". NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2022.
  284. ^ Kim, Soo-young (17 tháng 10 năm 2022). 방탄소년단 맏형 진, 군대 간다...입영 연기 철회 [Jin, the eldest of BTS, to enter military following withdrawal of enlistment postponement]. Hankyung (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2022.
  285. ^ “Pop stars BTS to take time out for military duty”. BBC News (bằng tiếng Anh). 17 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2022.
  286. ^ Bowenbank, Starr (23 tháng 10 năm 2022). “BTS, J-Hope, BLACKPINK & More Nominated for 2022 MAMA Awards”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2022.
  287. ^ Grein, Paul (15 tháng 11 năm 2022). “BTS Scores Three 2023 Grammy Nominations”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2022.
  288. ^ Anderson, Daniel (25 tháng 11 năm 2022). “Military enlistment date for BTS's Jin revealed”. NextShank (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2022.
  289. ^ Hwang, Mi-hyun (26 tháng 2 năm 2023). “방탄소년단 제이홉, 진 이어 BTS 멤버 중 두번째 군복무...입영 연기 취소 신청” [BTS J-Hope, the second member of BTS after Jin... Application for cancellation of postponement of enlistment] (bằng tiếng Hàn). News1. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2023 – qua Naver.
  290. ^ Borah, Prabalika (31 tháng 1 năm 2023). “Yet to come; in cinemas on February 1 BTS concert film to hit cinemas for a limited time in many Indian cities”. NextShank (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2023.
  291. ^ Diaz, Rosa (7 tháng 3 năm 2023). “BTS leader isn't thinking about future, but would like to work with Rosalía”. EFE (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2023.
  292. ^ Paul, Larisha (8 tháng 3 năm 2023). “BTS' Contract Renewal and Proposed 2025 Comeback Are Both Currently Uncertain, HYBE Says”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2023.
  293. ^ Park Sang-hoo (18 tháng 4 năm 2023). “방탄소년단 제이홉, 오늘(18일) 육군 현역 입대 "잘 다녀올게요" [BTS J-Hope, enlisted in the army today (18th) "I'll be back"] (bằng tiếng Hàn). JTBC. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2023 – qua Naver.
  294. ^ Kim, Eun-jeong (12 tháng 5 năm 2023). “BTS to release animation OST 'The Planet' with full lineup”. Thông tấn xã Yonhap (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  295. ^ Hicap, Jonathan (10 tháng 6 năm 2023). “BTS releases song 'Take Two' to celebrate 10th anniversary”. Manila Bulletin (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2023.
  296. ^ Legaspi, Althea (20 tháng 9 năm 2023). “BTS Renew Contract with HYBE and BIGHIT Music”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2023.
  297. ^ Lee, Tae-soo; Kim, Ye-na (20 tháng 9 năm 2023). BTS, 하이브와 두 번째 재계약...2025년 이후도 함께한다 [BTS renews contract with Hybe for the second time...We will be together after 2025] (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2023.
  298. ^ Blistien, Jon (22 tháng 9 năm 2023). “BTS' Suga Begins Mandatory Service in South Korea, But He Won't Be Joining the Military”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  299. ^ Kang, Da-yoon (16 tháng 1 năm 2024). 방탄소년단 RM·뷔, 최정예 훈련병 됐다...신병교육 수료 [MD★스타] [BTS RM and V become elite trainees... Completion of new recruit training [MD★Star]]. MyDaily (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  300. ^ McCurry, Justin (12 tháng 6 năm 2024). “Jin from BTS wraps up military service to the strains of K-pop hit Dynamite”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2024.
  301. ^ Oh, Ji-won (ngày 24 tháng 9 năm 2017). '아는 형님' 방탄소년단 뷔 "서태지 선배님 아버지라고 부른다" [V trên Knowing Bros, "Tiền bối Seo Taiji bảo chúng tôi gọi anh ấy là cha"]. TV Daily (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020 – qua Daum.
  302. ^ McRady, Rachel (25 tháng 6 năm 2018). “BTS Names Their Musical Inspiration and Their Most Unexpected Celebrity Fan” [BTS nói về nguồn cảm hứng âm nhạc và người hâm mộ nổi tiếng bất ngờ nhất của họ]. Entertainment Tonight (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  303. ^ a b Savage, Mark (2 tháng 6 năm 2019). “BTS are the first Korean band to headline Wembley Stadium” [BTS là nhóm nhạc Hàn Quốc đầu tiên biểu diễn tại sân vận động Wembley]. BBC (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  304. ^ Morin, Charles Aaron,Riddhi Chakraborty,Divyansha Dongre,Kristine Kwak,Althea Legaspi,Natalie; Aaron, Charles; Chakraborty, Riddhi; Dongre, Divyansha; Kwak, Kristine; Legaspi, Althea; Morin, Natalie (18 tháng 3 năm 2022). “The 100 Best BTS Songs”. Rolling Stone. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.
  305. ^ Shim, Yeon-hee (17 tháng 10 năm 2016). 외신 주목한 '제 2의 싸이', 방탄소년단 [BTS thu hút sự chú ý của giới truyền thông nước ngoài]. KBS News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  306. ^ “Chapter 5. Blood, Sweat & Tears”. Wings Concept Book [Sách ảnh khái niệm của Wings] (bằng tiếng Hàn). Hàn Quốc: Big Hit Entertainment. 29 tháng 6 năm 2017. tr. 114. 0728303093672.
  307. ^ Glasby, Taylor (11 tháng 10 năm 2018). “How BTS became the world's biggest boyband” [BTS trở thành nhóm nhạc đình đám nhất thế giới như thế nào]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  308. ^ Hwang, Hye-jin (12 tháng 3 năm 2019). 4월12일 컴백 방탄, 新메시지 #영혼의 지도 #페르소나 뭐길래[뮤직와치] [[Music Watch] BTS Comeback April 12, New Message #Soul Map #Persona What Is It] (bằng tiếng Hàn). Osen. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  309. ^ Cafolla, Anna (8 tháng 6 năm 2018). “The book that inspired a BTS song is now a bestseller in Korea” [Cuốn sách truyền cảm hứng cho một bài hát của BTS hiện là cuốn sách bán chạy nhất ở Hàn Quốc]. Dazed (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  310. ^ Song, Myeong-seon (2016). 힙합하다: 한국, 힙합 그리고 삶 [Đây là hip hop: Hàn Quốc, hip hop và cuộc sống] (bằng tiếng Hàn). ISBN 9791186559116.
  311. ^ Anderson, tr. ix.
  312. ^ Anderson, tr. 26.
  313. ^ Anderson, tr. xxii.
  314. ^ a b c Park, T.K.; Kim, Young-dae (19 tháng 4 năm 2019). “Your Guide to BTS and Their Musical Universe in 25 Songs” [Chỉ dẫn của bạn về BTS và vũ trụ âm nhạc của họ trong 25 bài hát]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  315. ^ Herman, Tamar (24 tháng 11 năm 2017). “BTS and Steve Aoki Drop 'Mic Drop' Remix Feat. Desiigner: Watch”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2023.
  316. ^ 'All hail the kings!': BTS begins new chapter with 'Map of the Soul: Persona'. Kpop Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2023.
  317. ^ Yoo, Noah (9 tháng 10 năm 2018). “BTS: How the Biggest Boy Band in the World Stays Radically Korean”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2023.
  318. ^ Daly, Rhian (29 tháng 4 năm 2020). “Every BTS song ranked in order of greatness” [Mọi bài hát của BTS đều được xếp theo trình tự của sự vĩ đại]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2020.
  319. ^ Kim 2019a, tr. 60–61, Review 04.
  320. ^ a b Bruner, Raisa (17 tháng 11 năm 2020). “A Comprehensive Look Back at BTS' Seven-Year Journey to the Top”. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.
  321. ^ Kim, Seon-geun (10 tháng 10 năm 2016). V앱 방탄소년단, 피 땀 눈물 "날아오를 준비 됐다"...지민, 솔로곡 '라이(LIE)' "거짓말과 유혹에서 빠져 나가기 위해서 노력하는 곡" [BTS trên V App, "sẵn sàng bay cao" cùng Blood Sweat & Tears, Lie của Jimin là "một bài hát về nỗ lực thoát khỏi sự dối trá và cám dỗ"]. Global Economic (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  322. ^ Sheffield, Rob (24 tháng 2 năm 2020). “BTS Ambitiously Show off Their Pop Mastery On 'Map of the Soul: 7'. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  323. ^ Daly, Rhian (21 tháng 2 năm 2020). “BTS–'Map Of The Soul: 7': Korea's global heavyweights come of age and survey their already enormous legacy”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  324. ^ Herman, Tamar (21 tháng 2 năm 2020). “BTS' New Album 'Map of the Soul: 7' Shines Light On Shadows and the Act's Career” [Album mới 'Map of the Soul: 7' của BTS chiếu sáng vào cái bóng và sự nghiệp của nghệ sĩ]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  325. ^ Dodson, P. Claire (21 tháng 8 năm 2020). “BTS's Disco Dream "Dynamite" Reminds Us Things Can Still Be Fun” [Giấc mơ Disco "Dynamite" của BTS nhắc nhở chúng ta rằng mọi thứ vẫn còn có thể thú vị]. Teen Vogue (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2021.
  326. ^ Singh, Surej (7 tháng 7 năm 2021). “BTS share teaser for 'Permission To Dance' music video” [BTS chia sẻ đoạn giới thiệu cho video âm nhạc 'Permission To Dance']. NME (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2021.
  327. ^ Hwang, Hyo-jin (1 tháng 4 năm 2019). “BTS pledges to "tell the story of our generation with our lyrics" [BTS cam kết "kể câu chuyện của thế hệ chúng ta bằng lời bài hát"]. IZE (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2019.
  328. ^ Bennett, Colette (12 tháng 5 năm 2016). “How BTS is changing K-pop for the better” [Cách BTS đang thay đổi K-pop để trở nên tốt đẹp hơn]. The Daily Dot (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  329. ^ “Kpop group BTS gaining global recognition” [Nhóm nhạc Kpop BTS được toàn cầu công nhận]. Manila Bulletin (bằng tiếng Anh). 26 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  330. ^ Greenblatt, Leah (ngày 29 tháng 3 năm 2019). “BTS' RM and Suga talk mental health, depression, and connecting with fans” [RM và Suga của BTS nói về sức khỏe tinh thần, trầm cảm và sự kết nối với người hâm mộ]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  331. ^ Greenblatt, Leah (28 tháng 3 năm 2019). “The Greatest Showmen: An exclusive look inside the world of BTS” [The Greatest Showmen: Một cái nhìn độc quyền bên trong thế giới của BTS]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  332. ^ a b c Herman, Tamar (17 tháng 8 năm 2017). “What To Know About BTS' 'Love Yourself' Series” [Những điều cần biết về chuỗi 'Love Yourself' của BTS]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  333. ^ Benjamin, Jeff (21 tháng 10 năm 2016). “How Korean Boy Band BTS Broke a U.S. K-pop Chart Record–Without Any Songs in English” [Cách nhóm nhạc nam Hàn Quốc BTS phá vỡ kỷ lục bảng xếp hạng K-pop của Hoa Kỳ–Không có bất kỳ bài hát nào bằng tiếng Anh]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2016.
  334. ^ Kim 2019a, tr. 258, Review 14.
  335. ^ a b c Herman, Tamar (13 tháng 2 năm 2018). “BTS' Most Political Lyrics: A Guide to Their Social Commentary on South Korean Society” [Lời bài hát mang đậm tính chính trị nhất của BTS: Chỉ dẫn về lời bình luận xã hội của họ cho xã hội Hàn Quốc]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  336. ^ Greenblatt, Leah (29 tháng 3 năm 2019). “BTS' RM and Suga talk mental health, depression, and connecting with fans” [RM và Suga của BTS nói về sức khỏe tinh thần, trầm cảm và sự kết nối với người hâm mộ]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  337. ^ Herman, Tamar (20 tháng 2 năm 2017). “BTS Aims to Survive in 'Not Today' Music Video” [BTS hướng đến sự tồn tại trong video âm nhạc 'Not Today']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2019.
  338. ^ Choi, Ji-ye (18 tháng 2 năm 2017). '월드투어' 방탄소년단이 밝힌 #빌보드 핫100 #세월호 #유리천장 [BTS tiết lộ về #Billboard Hot 100 #Phà Sewol #Rào cản vô hình]. My Daily (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020 – qua Naver.
  339. ^ Benjamin, Jeff (4 tháng 12 năm 2015). “BTS: Kpop's social conscience” [BTS: Ý thức xã hội của Kpop]. Fuse (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  340. ^ Peters, Mitchell (28 tháng 5 năm 2018). “South Korean President Moon Jae-in Congratulates BTS on First No. 1 Album” [Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in chúc mừng BTS đạt album quán quân đầu tiên]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  341. ^ Halsey (2019). “The 100 Most Influential People”. Time (xuất bản 29 tháng 4 năm 2019): 60. ISSN 0040-781X.
  342. ^ Park, Se-yeon (26 tháng 9 năm 2019). "BTS, 비틀즈만큼 영향력 있는 팀" (bằng tiếng Hàn). Star Today. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2019.
  343. ^ Park, Se-yeon (26 tháng 9 năm 2019). "BTS, 글로벌 시장에 K팝 주류화 시켰다" ["BTS đưa K-pop trở nên phổ biến trên thị trường toàn cầu"] (bằng tiếng Hàn). Sports Today. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2019.
  344. ^ Hwang, Hye-jin (27 tháng 2 năm 2019). 방탄소년단, 2018년 드레이크 다음으로 많이 팔았다 '국제음반산업협회 차트 2위' [BTS là nghệ sĩ bán chạy nhất năm 2018 chỉ sau Drake và đạt vị trí số 2 trên IFPI] (bằng tiếng Hàn). Newsen. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2019 – qua Naver.
  345. ^ “BTS ranks second in 2018 artist chart by intl recording federation” [BTS đạt vị trí số 2 trên bảng xếp hạng Nghệ sĩ thu âm toàn cầu của năm 2018 theo IFPI] (bằng tiếng Anh). Thông tấn xã Yonhap. 27 tháng 2 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2019 – qua The Korea Herald.
  346. ^ “The Greatest Showman soundtrack named best-selling album of 2018” [Nhạc phim The Greatest Showman được vinh danh là album bán chạy nhất năm 2018] (bằng tiếng Anh). IFPI. 13 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2021.
  347. ^ Park, Seung-won (15 tháng 7 năm 2019). 상반기 앨범 1290만장 판매...BTS 나홀로 '열일' 했다 [BTS đạt tổng doanh số 12,9 triệu bản album trong nửa đầu năm] (bằng tiếng Hàn). Herald Economics. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2019.
  348. ^ Youna Kim, tr. 1–2.
  349. ^ Vanek Smith, Stacey (6 tháng 8 năm 2021). “How BTS Is Adding An Estimated $5 Billion To The South Korean Economy A Year” (bằng tiếng Anh). National Public Radio. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2022.
  350. ^ Kyung Hyun Kim 2021, tr. 247.
  351. ^ Youna Kim, tr. 13.
  352. ^ Kyung Hyun Kim 2021, tr. 83.
  353. ^ Elberse, Anita; Woodham, Lizzy (8 tháng 6 năm 2020). “Big Hit Entertainment and Blockbuster Band BTS: K-Pop Goes Global”. Harvard Business Review (bằng tiếng Anh).
  354. ^ Kyung Hyun Kim 2022, tr. 114–117.
  355. ^ “K-pop legends and kings of 'soft power': South Korea's BTS”. France24. 15 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2022.
  356. ^ Nye, Joseph S. Jr. (Autumn 1990). “Soft Power”. Foreign Policy. JSTOR 1148580. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
  357. ^ a b Quessard, tr. 279–296.
  358. ^ Allaire, Christian (24 tháng 9 năm 2018). “Watch BTS Address the United Nations With an Emotional Speech About Self-Acceptance” [Xem BTS phát biểu trước Liên Hợp Quốc với bài phát biểu đầy cảm xúc về sự chấp nhận bản thân]. Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2018.
  359. ^ Chakraborty, Riddhi (24 tháng 9 năm 2018). “BTS at the UN: 'Our Fans' Stories Constantly Remind Us of Our Responsibility' [BTS tại LHQ: 'Câu chuyện về người hâm mộ của chúng tôi' không ngừng nhắc nhở chúng tôi về trách nhiệm của bản thân']. Rolling Stone India (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
  360. ^ Herman, Tamar (14 tháng 10 năm 2018). “BTS Performs at Korea-France Friendship Concert in Paris with South Korean President in Attendance” [BTS biểu diễn tại Korea-France Friendship Concert với sự tham dự của Tổng thống Hàn Quốc]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  361. ^ Yoon, Min-sik (8 tháng 10 năm 2018). “BTS to get medal for spreading Korean culture: presidential office” [BTS nhận huân chương vì truyền bá văn hóa Hàn Quốc: văn phòng tổng thống]. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2018.
  362. ^ Herman, Tamar (25 tháng 10 năm 2018). “BTS Awarded Order of Cultural Merit by South Korean Government” [BTS được chính phủ Hàn Quốc trao tặng Huân chương Văn hóa]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2021.
  363. ^ Kim, Yeon-ji (18 tháng 10 năm 2018). BTS '최연소' 문화훈장, 유재석·김남주 등 대통령표창...어떻게 선정됐나. Daily Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2019.
  364. ^ Choi, Kyung-min (17 tháng 9 năm 2019). [전문]文, 콘텐츠산업 3대 혁신전략.."마음껏 상상하고 도전" [3 chiến lược đổi mới trong ngành công nghiệp nội dung, "Hãy tưởng tượng và thử thách bản thân"]. Money Today (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
  365. ^ “2020 Annual Gala - Van Fleet Award Honorees” (bằng tiếng Anh). The Korea Society. 7 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2020.
  366. ^ Im, Rara (10 tháng 8 năm 2020). "음악으로 이끈 유대"...방탄소년단 '밴플리트 상' 수상에 주한미국대사관도 나섰다. Top Star News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2022.
  367. ^ Chin, Carmen (21 tháng 7 năm 2021). “BTS appointed special presidential envoy for culture by Moon Jae-in” [BTS được Moon Jae-in bổ nhiệm làm Đặc phái viên của Tổng thống về Thế hệ Tương lai và Văn hóa] (bằng tiếng Anh). NME. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  368. ^ Maresca, Thomas (21 tháng 7 năm 2021). “BTS named special presidential envoy by South Korea” [BTS được Hàn Quốc bổ nhiệm làm Đặc phái viên của Tổng thống] (bằng tiếng Anh). UPI. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  369. ^ Blair, Elizabeth (31 tháng 5 năm 2022). “K-pop stars BTS went to the White House to talk about anti-Asian hate crimes” [Các ngôi sao K-pop BTS đến Nhà Trắng để thảo luận về vấn nạn phân biệt chủng tộc đối với người châu Á] (bằng tiếng Anh). NPR. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.
  370. ^ Kyung Hyun Kim 2021, tr. 56–57.
  371. ^ Moon, Kat (18 tháng 11 năm 2020). “Inside the BTS ARMY, the Devoted Fandom With an Unrivaled Level of Organization”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2022.
  372. ^ Hunt & McKelvey, tr. 325.
  373. ^ Ju, tr. 26.
  374. ^ Kyung Hyun Kim 2021, tr. 60.
  375. ^ Kyung Hyun Kim 2022, tr. 115.
  376. ^ Ohandjanian, Sevana. “Welcome to BTS' Universe: Join us for a deep-dive into the BTS Bantan Universe”. Acclaim. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
  377. ^ Kyung Hyun Kim 2021, tr. 61–62.
  378. ^ Chang, WoongJo; Park, Shin-Eui (10 tháng 12 năm 2018). “The Fandom of Hallyu, A Tribe in the Digital Network Era: The Case of ARMY of BTS”. Kritika Kultura. Quezon City (32): 260–287. doi:10.13185/KK2019.03213. S2CID 226946079.
  379. ^ Lee, Wonseok; Kao, Grace (15 tháng 10 năm 2021). "Make It Right": Why #BlackLivesMatter(s) to K-pop, BTS, and BTS ARMYs”. IASPM Journal. 11 (1): 70–87. doi:10.5429/2079-3871(2021)v11i1.7en. S2CID 244593575.
  380. ^ Jin, tr. 143.
  381. ^ Ju, tr. 25–27.
  382. ^ Sprinkel, tr. 140–141.
  383. ^ Sprinkel, tr. 144.
  384. ^ Keith, tr. 164.
  385. ^ Ejiofor, Annette (1 tháng 3 năm 2018). “BTS Are Puma's New Ambassadors And We Will Buy All The Athletic Gear” [BTS là đại sứ mới nhất của Puma và chúng ta sẽ mua mọi thiết bị thể thao]. HuffPost Canada (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  386. ^ Lee, Eun-ho (19 tháng 10 năm 2015). 방탄소년단, 푸마 새 모델 발탁...시크한 겨울 화보 공개텐아시아 | 텐아시아 [BTS trở thành đại sứ thương hiệu của Puma] (bằng tiếng Hàn). Ten Asia. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  387. ^ Oh, Myung-joo (27 tháng 2 năm 2018). "우리가 바로, 앰배서더"...BTS, '푸마' 글로벌 모델 발탁 [BTS được chọn làm đại sứ thương hiệu toàn cầu cho Puma] (bằng tiếng Hàn). Dispatch. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019 – qua Naver.
  388. ^ Pace, Lily (1 tháng 10 năm 2019). “BTS Are Now Global Brand Ambassadors For Fila” [BTS hiện là đại sứ thương hiệu toàn cầu cho Fila]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2019.
  389. ^ “BTS becomes new models for LG Electronics' smartphones” [BTS trở thành người mẫu mới cho dòng điện thoại của LG Electronics] (bằng tiếng Anh). Thông tấn xã Yonhap. 3 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  390. ^ Unger, Emerson (26 tháng 11 năm 2018). “Hyundai Motor Appoints BTS as Global Brand Ambassadors of the All-New Flagship SUV 'Palisade' [Hyundai Motor bổ nhiệm BTS làm đại sứ thương hiệu toàn cầu cho dòng xe SUV hoàn toàn mới 'Palisade'] (bằng tiếng Anh). MUSE. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  391. ^ '넥쏘' 탄 BTS...현대차 글로벌 홍보대사로 ['Nexo' Tan BTS... As a Global Ambassador for Hyundai]. Herald Corporation (bằng tiếng Hàn). 27 tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2020.
  392. ^ Ahrens, Frank (1 tháng 9 năm 2020). “Hyundai Motor Hitches A Ride On K-Pop Superstars BTS To Launch Ioniq Sub-Brand” [Huyndai Motor hợp tác với siêu sao K-Pop BTS để ra mắt thương hiệu phụ Ioniq]. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2020.
  393. ^ Herman, Tamar (18 tháng 12 năm 2019). “BTS Teams Up With Formula E to Combat Climate Change” [BTS hợp tác với Formula E để chống biến đổi khí hậu]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2019.
  394. ^ “Samsung signs partnership with BTS to boost marketing” [Samsung ký kết thỏa thuận hợp tác với BTS để đẩy mạnh hoạt động tiếp thị]. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). 19 tháng 2 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2020.
  395. ^ Kaufman, Gil (15 tháng 6 năm 2020). “Samsung Rolling Out BTS-Themed Phones & Earbuds” [Samsung phát hành điện thoại & tai nghe theo chủ đề BTS]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2020.
  396. ^ Suen, Zoe; Guilbault, Laure (9 tháng 6 năm 2019). “What Dior's BTS Stage Looks Mean for Luxury” [Ý nghĩa về sự sang trọng trong trang phục biểu diễn Dior của BTS] (bằng tiếng Anh). Imran Amed. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2019.
  397. ^ Chan, Tim (23 tháng 4 năm 2021). “Fashion Kings BTS Announced as the Newest Louis Vuitton Ambassadors” [Những ông hoàng thời trang BTS được công bố là đại sứ mới nhất của Louis Vuitton]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.
  398. ^ a b Lee, Min-ji (31 tháng 5 năm 2019). 방탄소년단 진, 기부금 1억원 돌파...유니세프 아너스클럽 회원(공식) [BTS Jin, over 100 million won in donations...Membership of UNICEF Honors Club (Official)]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021 – qua Naver.
  399. ^ Hong, Seong-young (18 tháng 2 năm 2019). 방탄소년단 제이홉, 오늘 생일 맞아 1억 기부...총 2억5천만원 [공식입장] [BTS J-Hope Donates 100 Million for his birthday...Total 250 million won [Official]]. Sports Donga (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2019 – qua Naver.
  400. ^ Yeon, Hwi-seon (13 tháng 10 năm 2021). BTS 지민·청하·김소연♥이상우, 1억원 고액기부자 그린노블클럽 가입 [공식] [BTS Jimin, Chung Ha, Kim So Yeon ♥ Lee Sang Woo, 100 million won donors joined the Green Noble Club. [Official]]. Osen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2021 – qua Naver.
  401. ^ Hwang, Hye-Jin (21 tháng 12 năm 2020). '미술관 1억 기부' 방탄소년단 RM, 2020 올해의 예술후원인대상 수상 ['100 Million Won Art Museum Donation, BTS RM awarded 2020 Patron of the Arts Award]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2020 – qua Naver.
  402. ^ Park, Dae-sung (24 tháng 8 năm 2020). BTS 지민, 전남교육청에 장학기금 1억 몰래 기부 [BTS Jimin secretly donated 100 million won scholarships to Jeonnam Office of Education]. Herald Economic News (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2021 – qua Naver.
  403. ^ Tubiera, Alecsandra (11 tháng 12 năm 2020). “When BTS members donate to charity they inspire fans to do the same – the 'Army' raised US$1 million for Black Lives Matter and US$83,000 for Typhoon Vamco victims”. South China Morning Post. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  404. ^ Herman, Tamar (10 tháng 2 năm 2019). “BTS Make First Appearance On Grammys Stage, Present H.E.R With R&B Album Of the Year Award”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.
  405. ^ Goggins, Joe (16 tháng 5 năm 2022). “BTS set new record at 2022 Billboard Music Awards”. Rolling Stone UK (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2022.
  406. ^ Grein, Paul (15 tháng 11 năm 2019). “Taylor Swift, BTS & More Record-Setters at the 2019 American Music Awards”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2020.
  407. ^ Dongre, Divyansha (22 tháng 11 năm 2021). “BTS Becomes The First Asian Act In AMAs History To Win Artist Of Year”. Rolling Stone India. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2021.
  408. ^ B, D.K. (25 tháng 11 năm 2020). “(LEAD) BTS wins Grammy nomination for best pop duo/group performance”. Yonhap News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  409. ^ Lee, M (1 tháng 4 năm 2021). “BTS becomes 1st Korean artist to be nominated for Brit Awards”. Yonhap News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  410. ^ “BTS creates HISTORY at MAMA Awards: Clinches 50 trophies and secures 6th consecutive 'Worldwide Icon of the Year' win”. The Times of India (bằng tiếng Anh). 29 tháng 11 năm 2023. ISSN 0971-8257. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2023.
  411. ^ Herman, Tamar (30 tháng 6 năm 2017). “Get To Know BTS: Jin” [Tìm hiểu về BTS: Jin]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2021.
  412. ^ Herman, Tamar (30 tháng 6 năm 2017). “Get To Know BTS: Suga” [Tìm hiểu về BTS: Suga]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2021.
  413. ^ Herman, Tamar (30 tháng 6 năm 2017). “Get To Know BTS: J-Hope” [Tìm hiểu về BTS: J-Hope]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2021.
  414. ^ Herman, Tamar (30 tháng 6 năm 2017). “Get To Know BTS: Rap Monster” [Tìm hiểu về BTS: Rap Monster]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2021.
  415. ^ Herman, Tamar (30 tháng 6 năm 2017). “Get To Know BTS: Jimin” [Tìm hiểu về BTS: Jimin]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2021.
  416. ^ Herman, Tamar (30 tháng 6 năm 2017). “Get to Know BTS: V” [Tìm hiểu về BTS: V]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2021.
  417. ^ Herman, Tamar (30 tháng 6 năm 2017). “Get To Know BTS: Jungkook” [Tìm hiểu về BTS: Jungkook]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2021.
  418. ^ 방탄소년단 첫 단독콘서트, 2분 만에 전석 매진...1회 추가 공연. TV Report (bằng tiếng Hàn). 11 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  419. ^ =방탄소년단, 첫 콘서트 성황리 마쳐...후속 활동 돌입. Maeil Business (bằng tiếng Hàn). 20 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  420. ^ 방탄소년단, 일본 투어 콘서트 성황리에 종료.. '한국 콘서트도 곧'. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015.
  421. ^ 방탄소년단, 日 4개 도시 투어 성황리 마쳐. 23 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015.
  422. ^ 防弾少年団1st Japan Tour 2015「Wake Up: Open Your Eyes」ライブ・ビューイング実施決定!! | プレスリリース | BARKS. www.barks.jp. 19 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015.
  423. ^ 방탄소년단, 11월 콘서트 포스터 공개..가을 분위기 물씬. Ten Asia (bằng tiếng Hàn). 14 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  424. ^ Hong, Dam-young (11 tháng 12 năm 2017). “BTS presents tearful, beautiful finale of 'Wings' tour in Seoul”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2022.
  425. ^ Herman, Tamar (26 tháng 4 năm 2018). “BTS Announces World Tour With Stops In Six North American Cities”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2018.
  426. ^ “BTS Finish Love Yourself: Speak Yourself Tour With $116 Million”. Billboard. 14 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Lỗi Lua trong Mô_đun:Liên_kết_ngoài tại dòng 45: assign to undeclared variable 'link'.

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Hướng dẫn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma - Genshin Impact
Hướng dẫn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma - Genshin Impact
trong bài viết dưới đây mình sẽ hướng các bạn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma
Những điều thú vị về người anh em Lào
Những điều thú vị về người anh em Lào
Họ không hề vội vã trên đường, ít thấy người Lào cạnh tranh nhau trong kinh doanh, họ cũng không hề đặt nặng mục tiêu phải làm giàu
Đọc sách như thế nào?
Đọc sách như thế nào?
Chắc chắn là bạn đã biết đọc sách là như thế nào rồi. Bất cứ ai với trình độ học vấn tốt nghiệp cấp 1 đều biết thế nào là đọc sách.
Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
[RADIO NHUỴ HY] Tôi thích bản thân nỗ lực như thế