Chim Moa[4][5] là tên gọi để chỉ 11 loàichim không biết bay đã tuyệt chủng thuộc 6 chi[6], vốn là những loài đặc hữu của Tân Tây Lan. Hai loài lớn nhất, Dinornis giganteus và Dinornis novaezelandiae, có chiều cao lên tới 3,7 m (12 ft) nếu cổ kéo dài ra, và nặng khoảng 230 kg (510 lb).[7]
Chim Moa là thành viên của nhóm chim không bay thuộc bộDinornithiformes.[6] 11 loài chim moa[6] là những chim không có cánh, nói cách khác cánh của chúng tiêu giảm tới mức gần như không còn dấu vết gì chứ không như những loài chim chạy khác vẫn còn duy trì cặp cánh yếu không bay được. Trước đây chúng từng là loài động vật ăn cỏ thống trị suốt hàng nghìn năm trên các cánh rừng, thảo nguyên, vùng cây bụi và phụ núi cao thuộc Tân Tây Lan; và loài thiên địch duy nhất của chúng chỉ là Đại bàng Haast. Tuy nhiên khi những người dân bản địa Māori xuất hiện thì chúng bị săn bắt đến mức tuyệt chủng trong một thời gian ngắn. Phần lớn giới khoa học đều cho rằng, hầu hết các loài chim Moa đã bị tuyệt diệt do săn bắn và do mất môi trường sống trước khi người châu Âu tìm thấy Tân Tây Lan.
Mặc dù được thừa nhận rộng rãi là đã tuyệt chủng, nhưng ít nhất từ cuối thế kỷ 19 và gần đây là năm 1993 có nhiều người cho rằng vẫn còn những cá thể chim Moa sống sót[8][9][10][11][12] và năm 2008[13], nhất là ở những vùng hoang vu hiểm trở tại Nam Westland và Fiordland. Những nhà ẩn động vật học và nhiều nhà khoa học vẫn tiếp tục công cuộc tìm kiếm những cá thể còn sống sót,[14] tuy nhiên những luận điểm và bằng chứng của họ (ví dụ dấu chân [13] hay những bức ảnh mờ) không gây được nhiều chú ý từ giới khoa học chính thống, thậm chí chúng còn được xem là giả khoa học.[15]
Trên thực tế, một số loài bị coi là tuyệt chủng đã được tìm thấy còn sống sót, tỉ như loài chim Takahē được tìm thấy trở lại vào năm 1948 khi mà chúng đã được cho là tuyệt chủng từ năm 1898. Tuy nhiên takahē là loài chim có kích thước khá nhỏ (tức là khó tìm, trong khi moa có kích thước rất lớn) và chúng chỉ được tìm thấy khi dấu vết của chúng được nhận diện - trong khi đó chưa có dấu vết nào đáng tin cậy của các chim moa còn sống được tìm thấy cả. Những chuyên gia trong lĩnh vực này vẫn cho rằng khả năng còn sống sót của chim moa là cực kì hiếm, vì điều kiện cho việc sống sót này chính là chúng phải ẩn trốn thành công suốt 500 năm trong một vùng đất thường xuyên bị các tay thợ săn cũng như những người leo núi "viếng thăm", một điều thật sự cực kì khó.[13]
Buller, W.L. (1888). A history of the birds of New Zealand. London: Buller.
Bunce, Michael (2003). Worthy, Trevor H.; Ford, Tom; Hoppitt, Will; Willerslev, Eske; Drummond, Alexei and Cooper, Alan. “Extreme reversed sexual size dimorphism in the extinct New Zealand moa Dinornis”. Nature. 425 (6954): 172–174. doi:10.1038/nature01871. PMID12968178.
Burrows, C. (1981). et al. “The diet of moas based on gizzard contents samples from Pyramid Valley, North Canterbury, and Scaifes Lagoon, Lake Wanaka, Otago”. Records of the Canterbury Museum. 9: 309–336.
Davies, S.J.J.F. (2003). “Moas”. Trong Hutchins, Michael (biên tập). Grzimek's Animal Life Encyclopedia. 8 Birds I Tinamous and Ratites to Hoatzins (ấn bản thứ 2). Farmington Hills, MI: Gale Group. tr. 95–98. ISBN0 7876 5784 0.
Dawkins, Richard (2004). A Pilgrimage to the Dawn of Life, The Ancestor's Tale. Boston: Houghton Mifflin. tr. 292. ISBN0618005838.
Dieffenbach, E. (1843). Travels in New Zealand. II. London: John Murray. tr. 195. ISBN1113508434.
Dutton, Dennis (1994). “Skeptics Meet Moa Spotters”. New Zealand Skeptics Online. New Zealand: New Zealand Committee for the Scientific Investigation of Claims of the Paranormal. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
Forrest, R.M. (1987). “A partially mummified skeleton of Anomalopteryx didiformis from Southland”. Journal of the Royal Society of New Zealand. 17: 399–408.
Fuller, Errol (1987). Bunney, Sarah (biên tập). Extinct Birds. London, England: The Rainbird Publishing Group. ISBN0-8160-1833-2. Chú thích có tham số trống không rõ: |separator= (trợ giúp)
Gill, BJ. (2007). “Eggshell characteristics of moa eggs (Aves: Dinornithiformes)”. Journal of the Royal Society of New Zealand. 37 (4): 139–150. doi:10.1080/03014220709510542.
Hamilton, A. (1894). “On the feathers of a small species of moa (Megalapteryx didinus) found in a cave at the head of the Waikaia River, with a notice of a moa-hunters camping place on the Old Man Range”. Transactions and Proceedings of the New Zealand Institute. 27: 232–238.
Hartree, WH. (1999). “A preliminary report on the nesting habits of moas in the East bờ biển của the North Island”. Notornis. 46: 457–460.
Holdaway, R.N. (1997). Worthy, T.H. “A reappraisal of the late Quaternary fossil vertebrates of Pyramid Valley Swamp, North Canterbury”. New Zealand Journal of Zoology. 24: 69–121. doi:10.1080/03014223.1997.9518107.
Horrocks, M. (2004). et al. “Plant remains in coprolites: diet of a subalpine moa (Dinornithiformes) from southern New Zealand”. Emu. 104 (2): 149–156. doi:10.1071/MU03019.
Hutton, F.W. (1875). Coughtrey, M. “Notice of the Earnscleugh Cave”. Transactions and Proceedings of the New Zealand Institute. 7: 138–144.
Huynen, Leon; Gill, Brian J.; Millar, Craig D.; Lambert, David M. (30 tháng 8 năm 2010). “Ancient DNA Reveals Extreme Egg Morphology and Nesting Behavior in New Zealand's Extinct Moa”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 107 (30): 16201. doi:10.1073/pnas.0914096107.
Huynen, Leon J. (2003). Millar, Craig D.; Scofield, R. P. and Lambert, David M. “Nuclear DNA sequences detect species limits in ancient moa”. Nature. 425 (6954): 175–178. doi:10.1038/nature01838. PMID12968179.
Laing, Doug (5 tháng 1 năm 2008). “Birdman says moa surviving in the Bay”. Hawkes Bay Today. APN News & Media Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
Polack, J. S. (1838). New Zealand: Being a Narrative of Travels and Adventures During a Residence in that Country Between the Years 1831 and 1837. I. London: Richard Bentley. tr. 303, 307.
Turvey, Samuel T. (2005). Green, Owen R. and Holdaway, Richard N. “Cortical growth marks reveal extended juvenile development in New Zealand moa”. Nature. 435 (7044): 940–943. doi:10.1038/nature03635. PMID15959513.
Vickers-Rich, P. (1995). et al. . “Morphology, myology, collagen and DNA of a mummified moa, Megalapteryx didinus (Aves: Dinornithiformes) from New Zealand”. Tuhinga: Records of the Museum of New Zealand Te Papa Tongarewa. 4: 1–26.
Wood, JR. (2007). “Moa gizzard content analyses: further information on the diet of Dinornis robustus and Emeus crassus, and the first evidence for the diet of Pachyornis elephantopus (Aves: Dinornithiformes)”. Records of the Canterbury Museum. 21: 27–39.
Wood, JR. (2008). “Moa (Aves: Dinornithiformes) nesting material from rockshelters in the semi-arid interior of South Island, New Zealand”. Journal of the Royal Society of New Zealand. 38 (3): 115–129. doi:10.1080/03014220809510550.
Wood, J.R. (2008). Worthy, T.H., Rawlence, N.J., Jones, S.M., Read, S.E. “A deposition mechanism for Holocene miring bone deposits, South Island, New Zealand”. Journal of Taphonomy. 6: 1–20.
Worthy, T.H. (1998a). “Quaternary fossil faunas of Otago, South Island, New Zealand”. Journal of the Royal Society of New Zealand. 28 (3): 421–521. doi:10.1080/03014223.1998.9517573.
Worthy, T.H. (1998b). “The Quaternary fossil avifauna of Southland, South Island, New Zealand”. Journal of the Royal Society of New Zealand. 28 (4): 537–589. doi:10.1080/03014223.1998.9517575.
Worthy, T.H. (1993). Holdaway, R.N. “Quaternary fossil faunas from caves in the Punakaiki area, West Coast, South Island, New Zealand”. Journal of the Royal Society of New Zealand. 23: 147–254.
Worthy, T.H. (1994). Holdaway, R.N. “Quaternary fossil faunas from caves in Takaka Valley and on Takaka Hill, northwest Nelson, South Island, New Zealand”. Journal of the Royal Society of New Zealand. 24 (3): 297–391. doi:10.1080/03014223.1994.9517474.
Worthy, T.H. (1995). Holdaway, R.N. “Quaternary fossil faunas from caves on Mt. Cookson, North Canterbury, South Island, New Zealand”. Journal of the Royal Society of New Zealand. 25 (3): 333–370. doi:10.1080/03014223.1995.9517494.
Worthy, T.H. (1996). Holdaway, R.N. “Quaternary fossil faunas, overlapping taphonomies, and paleofaunal reconstructions in North Canterbury, South Island, New Zealand”. Journal of the Royal Society of New Zealand. 26 (3): 275–361. doi:10.1080/03014223.1996.9517514.
Worthy, Trevor H. (2009). “A moa sighting?”. Te Ara - the Encyclopedia of New Zealand. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
Ông chính là người đã để lại một báu vật tại hòn đảo cuối cùng của Grand Line, sau này báu vật ấy được gọi là One Piece, và hòn đảo đó được Roger đặt tên Laugh Tale
Sự hiểu biết của mỗi người là khác nhau, theo như góc nhìn của tôi, hôn nhân có rất nhiều kiểu, thế nhưng một cuộc hôn nhân làm cho người trong cuộc cảm thấy thoải mái, nhất định cần phải có tình yêu.