Ở Việt Nam hiện nay, họ Nghiêm có ở nhiều địa phương. Lịch sử họ Nghiêm xuất hiện từ khá lâu tại kinh thành Thăng Long vào cuối thời Tiền Lê đầu thời Lý. Hậu duệ định cư tại thôn Đỗ Xá, xã Lan Đình, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn[1] trấn Kinh Bắc (nay là thôn Quan Độ, xã Văn Môn, Yên Phong, Bắc Ninh). Trong suốt lịch sử triều Lý, vào giai đoạn đầu dòng họ đều làm quan sinh sống tại kinh thành Thăng Long, về sau, con cháu có di cư đến nơi khác nhưng phần lớn vẫn sinh sống tại quê nhà. Thời Lý là giai đoạn họ Nghiêm có nhiều hiền tài nhất, làm quan chức cao, làm việc thường trực trong triều và đương thời rất được thiên hạ ngợi ca.
Ở Trung Quốc, họ Nghiêm xuất phát từ họ Trang, bắt ngồn từ dòng tộc của Sở Trang Vương (Hùng Lữ (熊旅)) nước Sở. Theo Nguyên Hà Tính Toản, khi Sở Trang Vương mất(năm 591 TCN), con cháu đã nhận tên Trang làm tên họ. Theo Tính Thị Khảo Lược, vì tránh tên húy của Hán Minh Đế (57-75) nên ông Trang Quang đã đổi sang họ Nghiêm. Từ đó nảy sinh dòng họ Nghiêm tại Trung Quốc. [cần dẫn nguồn]
Nghiêm Quang - phó sứ Thanh hình hiến sát sứ ty các xứ Yên Bang thời Lê Thánh Tông.
Nghiêm Lâm - Thái thường tự khanh, làm quan dưới triều Lê Hiến Tông
Nghiêm Bá Ký ? - 1530. Là văn thần đời Lê Chiêu Tông (黎昭宗; 1506 – 1526). Ông là người có tài đức, từng giữ chức vụ cao trong triều, tước Bình Minh Bá.
Nghiêm Xuân Quảng (1869 - 1941), đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Thành Thái 7 (1895) năm 26 tuổi, là một trong những người sáng lập ra Đông Kinh Nghĩa Thục
Không ai có thể chọn được hàng xóm, và Việt Nam đã mang trên mình số phận của 1 quốc gia nhỏ yếu kề tường sát vách bên cạnh 1 nước lớn và hùng mạnh là Trung Quốc