Có thể nói rằng có rất ít tài liệu nào cho thấy gốc tích của dòng họ Đào ở Việt Nam, kể các trong các gia phả của các chi họ Đào lớn như ở Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hải Dương, Phú Thọ, Hà Tĩnh, Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa... Theo một số tài liệu thì họ Đào được phát tích từ thời Hùng vương thứ 6, hiện nay thần phả, thần tích cũng như bia đá tại đền Thượng khu di tích đền Hùng vẫn còn ghi công tổ tiên họ Đào đã từng là Đại tướng quân đánh giặc Ân, Đức thánh Bạch Hạc Tam Giang - Đào Xuân Trường, Đào Thạch Khanh thời Hùng Vương, Thời Hai Bà Trưng có Bắc Bình Vương Đào Kỳ, nhà Ngô có Đào Nhuận cắm cọc dẫn quân đánh giặc trên sông Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938, triều Lý có Thái Sư, Á Vương Đào Cam Mộc.... Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dòng họ Đào sinh ra những danh nhân, tướng sĩ có nhiều công lớn và được người dân tôn thờ là Thành hoàng trong các làng quê Việt Nam.
Ngoài ra một nhánh khác vốn gốc danh tướng Trần Nguyên Hãn. Trần Nguyên Hãn có người con trai thứ hai là Trần Đăng Huy. Khi có con, ông cho người con lớn lên vùng Tam Nông, nay phát triển thành 3 chi nhánh họ Đào ở Hùng Đô, Quang Húc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ và ở Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc là những nơi gần sông, tiện đường về Sơn Đông. Người con nhỏ ở lại Minh Nông một thời gian, gia đình lại rời đi lên vùng Yên Bái, sau đó sang vùng Bắc Sơn Tây, rồi phân chia, một nhánh sang Lào, một nhánh trở về vùng Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây cũ. Mỗi lần di chuyển là một lần thay họ, đổi tên. Cuối thế kỷ 18, chi trưởng về lại xóm Giải làng ven sông Hồng thuộc làng Minh Nông, tổng Minh Nông, huyện Hạc Trì, tỉnh Phú Thọ định cư đến ngày nay.
Năm Anh Em họ Đào giúp Hai Bà Trưng chống giặc giữ nước là Đào Công Dung, Đào Công Tùng, Đào Công Mai, Đào Công Cúc, Đào Công Chúc được tôn thờ làm Thành hoàng làng tại nghè Đồn, xã Nam Hồng, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
Đại vương Đào Công Tuấn (11/2/524-15/10/548) quê Ý Yên, Nam Định, Đền thờ Đền Lang Khê, xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
Đào Nương, quê xã Đông Cao, Mê Linh, Vĩnh Phúc, nữ tướng của Hai Bà Trưng
Đào Lang[1] là người trang Cương Nha (thuộc xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Ông là tướng của Hai Bà Trưng dấy quân đánh đuổi Tô Định.
Đào Lang, người Yên Phú, Yên Định, Thanh Hóa, có công tạo dựng lập làng Trịnh Lộc, dẹp loạn 12 sứ quân và chống Tống, sau được Vua Lê Đại Hành giao việc đào kênh Nhà Lê.
Đào Đình Quế, người Bình Giang - Hải Dương, tướng của vua Đinh Tiên Hoàng, có công dựng lên làng Bình An rồi mất ở làng.
Đào Trực, người Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội, là bộ tướng của Đinh Bộ Lĩnh, có công giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống.
Đào Cam Mộc, là người có công trong việc tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua và có những đóng góp trong việc dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long
Đào Tiêu hay còn có tên Đào Thúc, Đào Dương Bật đỗ trạng nguyên khoa Ất Hợi, niên hiệu Bảo Phù thứ 3 (1275), đời Trần Thánh Tông phụng thờ tại nhà thờ họ Đào xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Đào Sư Tích, trạng nguyên đời Trần Duệ Tông, làm quan Tả tư lang trung, Nhập nội Hà khiển Hành khiển
Đào Công Soạn, danh thần, nhà ngoại giao, nhà thơ đời Lê
Đào Bạt, hoàng giáp năm 1463, làm quan đến chức thượng thư.[3]
Đào Quang Nhiêu, danh tướng của thời Trịnh, đã tham gia trong cuộc chiến tranh giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn giữa thế kỷ XVII
Đào Duy Từ, quân sư Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, một kiệt tướng, một chính trị gia, một chiến lược gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, một học giả, là người góp phần quan trọng định hình nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong và là tổ nghệ thuật tuồng.
Đào Công Chính, bảng nhãn, Phủ doãn phụng thiên thời Lê thờ tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Đào Vũ Thường, đỗ Hương cống năm 1723, bổ chức Huấn đạo thanh lan
Đào Tấn người có công phát triển nghệ thuật tuồng, đã để lại hơn 1000 bài thơ, từ, 40 vở tuồng kinh điển,̀ tập sách lý luận sân khấu mang tên Hý trường tùy bút cùng nhiều tác phẩm nghệ thuật khác. Đào Tấn là hậu duệ Đào Duy Từ.
Đào Phúc Lộc bút danh Hoàng Minh Đạo, một tình báo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời chiến tranh Việt Nam, phụ trách phòng Tình báo Quân ủy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đào Văn Tiến, giáo sư, nhà giáo nhân dân người Việt Nam
Đào Mộng Long, một diễn viên, đạo diễn và soạn giả sân khấu cải lương và kịch nói Việt Nam, được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân
Đào Ngọc Thọ, Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận trước năm 1967 VNCH, Dân biểu Quốc Hội 1967-71 VNCH
Đào Trọng Lịch, trung tướng và Tổng Tham mưu trưởng thứ 8 của Quân đội Nhân dân Việt Nam; nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Đào Văn Tập, GS., nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam; nguyên Ủy viên thường vụ Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam; nguyên Phó chủ tịch hội Các nhà kinh tế thế giới.
Dòng họ Đào ở Trung Quốc là một dòng họ lớn. Nhiều nhà văn, nhà viết kịch, nhà sáng tác đã đưa dòng họ này vào tác phẩm của mình là một điều minh chứng ảnh hưởng của dòng họ Đào trong đời sống xã hội Trung Quốc. Có một chi tiết thú vị trong lịch sử thời Chiến Quốc là: sau khi giúp Việt vương Câu Tiễn đánh bại nước Ngô, giết chết Phù Sai, quân sư Phạm Lãi đã treo ấn từ quan, để không rơi vào cảnh: "chim đã hết thì cung bỏ xó, thỏ đã hết thì chó săn cũng không còn chỗ dung thân". Phạm Lãi vượt biển, đến vùng nước Tề sống ẩn dật đổi tên thành Đào Chu Công. Sau khi lập gia thất, ông sinh được 03 người con trai đều đặt tên cho con theo họ Đào. Gia đình ông kinh doanh và sau này trở thành một phú thương. Hiện tại còn lưu trữ nhiều câu chuyện của Đào Chu Công trong đối nhân xử thế.
Khi hai thành phố song sinh Piltover và Zaun ở thế mâu thuẫn gay gắt, hai chị em chiến đấu ở hai bên chiến tuyến cùng các công nghệ ma thuật và những niềm tin trái chiều.