Ki-10 | |
---|---|
Kiểu | Tiêm kích hai tầng cánh |
Hãng sản xuất | Tập đoàn Kawasaki |
Thiết kế | Takeo Doi |
Chuyến bay đầu tiên | Tháng 3 năm 1935 |
Được giới thiệu | 1935 |
Ngừng hoạt động | 1942 |
Khách hàng chính | Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản |
Số lượng sản xuất | 588 |
Kawasaki Ki-10 (九五式戦闘機 Kyūgo-shiki sentōki?) là kiểu máy bay tiêm kích hai tầng cánh cuối cùng của Không lực Lục quân đế quốc Nhật Bản, đưa vào hoạt động từ 1935. Kiểu máy bay này là sản phẩm của tập đoàn Kawasaki và từng có mặt tại Mãn Châu và miền Bắc Trung Quốc trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Trung-Nhật. Tên mã của Đồng Minh cho kiểu máy bay này là Perry.
Ki-10 được thiết kế bởi kỹ sư hàng không Takeo Doi[1], người đã thay thế Richart Vogt trong cương vị trưởng thiết kế của tập đoàn Kawasaki. Mẫu thiết kế này là nhằm đáp ứng nhu cầu cho Quân đội Đế quốc Nhật Bản về một kiểu máy bay tiêm kích mới và đã thắng trong cuộc đấu thầu với kiểu Nakajima Ki-11 của công ty Nakajima. Mặc dù kiểu máy bay cánh đơn của Nakajima hiện đại và nhanh hơn nhưng Lục quân lại ưa chuộng kiểu máy bay hai tầng cánh của Kawasaki vì nó dễ điều khiển hơn.
Trong thiết kế của Kawasaki, hai cánh có kích cỡ khác nhau (cánh trên nhỏ hơn), nối với nhau bằng thanh chống.[1] Toàn bộ cấu trúc máy bay đều được làm bằng kim loại và có vải bao bọc bên ngoài. Hỏa lực của máy bay được tạo bởi 2 súng máy 7,7 mm Kiểu 89 và bắn xuyên cánh quạt. Những phiên bản sản xuất đầu tiên được trang bị động cơ làm mát bằng nước 633 kW (850 hp) Kawasaki Ha-9-Iia.
Ki-10 tham gia hoạt động tại Mãn Châu và miền Bắc Trung Quốc trong một số chiến dịch mở màn của Chiến tranh Trung-Nhật. Kiểu máy bay này tỏ ra xuất sắc trong các trận không chiến với các máy bay của không quân Trung Quốc, trong đó có trận Vũ Hán. Tuy nhiên, đến khi tham gia Chiến dịch Khalkhyn Gol chống lại Liên Xô, nó đã trở nên quá lỗi thời.
Khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Ki-10 chỉ còn đóng vai trò là một máy bay phục vụ huấn luyện và tham gia các phi vụ không quan trọng. Tuy nhiên sau đó kiểu máy bay này lại trở lại hoạt động với nhiệm vụ tuần tra tầm ngắn và trinh sát tại Nhật Bản và Trung Quốc tháng 1- tháng 2 1942.
Dữ liệu từ Japanese Aircraft of the Pacific War[2]
Tổng số sản xuất: 588 chiếc