Đại dịch COVID-19 đã có tác động đáng kể đến ngành hàng không do những hạn chế đi lại cũng như sự sụt giảm nhu cầu của khách du lịch. Việc giảm đáng kể số lượng hành khách đã dẫn đến việc các máy bay không có hành khách vẫn bay giữa các sân bay và việc hủy các chuyến bay.
Vào ngày 5 tháng 3 năm 2020, Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế ước tính rằng ngành hàng không có thể mất từ 63 đến 113 tỷ đô la Mỹ doanh thu do số lượng hành khách giảm.[1][2] IATA trước đây đã ước tính khoản lỗ doanh thu là khoảng 30 tỷ đô la Mỹ, hai tuần trước khi thực hiện ước tính mơi vào ngày 5 tháng 3.[3] Đến ngày 17 tháng 3, IATA đã tuyên bố rằng ước tính ngày 5 tháng 3 của nó là "lỗi thời" và các hãng hàng không sẽ cần đến 200 tỷ đô la tiền cứu trợ để có thể sống sót qua cuộc khủng hoảng.[4] Oliver Wyman báo cáo rằng các hãng hàng không châu Á đã giảm 23% số ghế ngồi x dặm bay vào tháng 3 năm 2020.[5] Tại châu Âu, tác động của đợt bùng phát dự kiến sẽ đẩy nhanh quá trình hợp nhất doanh nghiệp trong ngành hàng không.[6] Theo tư vấn của Trung tâm hàng không CAPA, hầu hết các hãng hàng không sẽ bị phá sản vào cuối tháng 5 năm 2020.[7]
Nhu cầu đi lại bằng đường hàng không tăng 2,4% so với cùng kỳ vào tháng 1 năm 2020, mức thấp nhất kể từ vụ phun trào Eyjafjallajökull tháng 4 năm 2010, mặc dù sự gián đoạn du lịch do coronavirus chỉ bắt đầu vào cuối tháng 1.[8] Mặc dù thiếu hành khách, các quy định liên quan đến các chuyến bay ban đầu đã buộc các hãng hàng không Anh bay các máy bay không có khách đến các sân bay châu Âu để tránh mất chỗ của họ.[9] Mặc dù giá nhiên liệu giảm (do cuộc chiến giá dầu giữa Nga và Ả Rập Xê Út) khoảng 25%, nhưng nó không thể bù đắp cho sự giảm nhu cầu bay.[10] Google Trends chỉ ra rằng các bộ phận dịch vụ khách hàng của hãng hàng không đã nhận được sự gia tăng lớn nhất trong các tìm kiếm trực tuyến trong khoảng từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2020 so với bất kỳ bộ phận dịch vụ khách hàng nào khác trong khoảng thời gian đó.[11]