Binh chủng Pháo binh | |
---|---|
Quân đội Nhân dân Việt Nam | |
Quốc gia | Việt Nam |
Thành lập | 29 tháng 6 năm 1946 |
Quân chủng | Lục quân |
Phân cấp | Binh chủng (Nhóm 4) |
Nhiệm vụ | Binh chủng chiến đấu |
Quy mô | 10.000 người |
Bộ phận của | Bộ Quốc phòng |
Bộ chỉ huy | Ba Đình, Hà Nội |
Khẩu hiệu | Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng |
Hành khúc | Hò kéo pháo |
Vinh danh | Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Huân chương Sao Vàng Huân chương Hồ Chí Minh Huân chương Độc lập hạng Nhất |
Chỉ huy | |
Tư lệnh | |
Chính ủy | |
Tham mưu trưởng | |
Chỉ huy nổi bật | Trần Đại Nghĩa Lê Thiết Hùng Lê Quang Hòa |
Binh chủng Pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam là binh chủng hỏa lực chủ yếu của Quân chủng Lục quân và đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ Quốc phòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng binh chủng Pháo binh 8 chữ "Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng" ngày 13 tháng 4 năm 1967.
Ngày 29 tháng 6 năm 1946 là ngày thành lập Binh chủng Pháo binh. Vào ngày này, tại sân Vệ quốc đoàn Trung ương (40 Hàng Bài, Hà Nội), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam Hoàng Văn Thái đọc Quyết định thành lập Đoàn Pháo binh Thủ đô, gồm 3 trung đội: Pháo đài Láng (4 pháo phòng không 75mm), Pháo đài Xuân Tảo (2 pháo phòng không 75mm), Pháo đài Xuân Canh (1 pháo phòng không 75mm).
Năm 1948, lực lượng pháo binh phát triển tới cấp tiểu đoàn: tiểu đoàn pháo binh 410 (Liên khu 10), tiểu đoàn pháo binh chủ lực đầu tiên, được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1948.
Năm 1950 pháo binh phát triển tới cấp trung đoàn. Ngày 20 tháng 11 năm 1950 thành lập trung đoàn 675, Trung đoàn pháo cơ giới 45 được thành lập với trang bị gồm 20 khẩu lựu pháo 105 mm và 40 ô tô các loại.
Ngày 31 tháng 7 năm 1949, Cục Pháo binh được thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo, sửa chữa các loại pháo, đạn và mở lớp đào tạo cán bộ chỉ huy pháo binh và thợ pháo, do Trần Đại Nghĩa làm Cục trưởng.
Năm 1951, đại đoàn công pháo (công binh–pháo binh) 351 được thành lập, gồm 3 trung đoàn: trung đoàn pháo 675, trung đoàn pháo 45 và trung đoàn công binh 151.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, bộ đội pháo binh có 2 trung đoàn pháo, 4 tiểu đoàn pháo phản lực và súng cối, gồm: 24 khẩu 105 mm có xe kéo, 16 khẩu cối 120 mm, 30 khẩu sơn pháo 75 mm và ĐKZ, 12 dàn phản lực 102 mm, 36 khẩu cối 82 mm. Ngoài ra còn có 6 tiểu đoàn pháo trong biên chế các đại đoàn bộ binh.
Ngày 7 tháng 9 năm 1954, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Pháo binh, đến ngày 28 tháng 5 năm 1956 Binh chủng Pháo binh chính thức được thành lập với cơ quan đầu não là Bộ Tư lệnh Pháo binh.
Ngày 16 tháng 9 năm 1954, thành lập 2 đại đoàn pháo 675 và 349.
Ngày 21 tháng 9 năm 1954, thành lập đại đoàn pháo phòng không 367, đến năm 1958 tách khỏi Bộ Tư lệnh Pháo binh để đặt dưới quyền Bộ Tư lệnh Phòng không mới được thành lập.
Ngày 15 tháng 10 năm 1965, thành lập Đoàn pháo binh 69 (còn gọi là Đoàn pháo binh Biên Hòa), thuộc Bộ Tư lệnh Miền (chiến trường B2). Tháng 1 năm 1972, Đoàn pháo binh 69 chuyển thành Sư đoàn pháo binh 75 thuộc Bộ Tư lệnh Miền.
Trung đội pháo đài Láng thành lập ngày 29 tháng 6 năm 1946, gồm 44 người, chia làm 3 khẩu đội, do Nguyễn Ưng Gia làm trung đội trưởng, Nguyễn Văn Khoát làm chính trị viên.. Pháo đài Láng vốn do Pháp lập ra sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ để bắn máy bay Nhật. Ở đây có 4 khẩu pháo cao xạ 75 mm mua của Đức là loại súng tối tân lúc bấy giờ được gắn cố định vào bệ bê tông. Năm 1940, Nhật đã buộc Pháp phải dùng pháo đài Láng để bắn máy bay Mỹ đến ném bom Hà Nội. Bộ đội Việt Nam dùng 2 khẩu cao xạ còn lại với 400–500 viên đạn làm pháo bắn mục tiêu mặt đất.
Ngày Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, Pháo đài Láng đã nổ súng bắn vào thành Hà Nội, yểm trợ cho bộ đội Việt Nam. Ba ngày sau, pháo đài Láng bắn rơi một máy bay trinh sát của Pháp. Nửa tháng sau thì pháo đài hết đạn, nhưng được điều thêm 1 khẩu sơn pháo 75 mm có bánh xe do ô tô kéo về. Ngày 10 tháng 1 năm 1947, trung đội pháo đài Láng rút khỏi Hà Nội, kết thúc đợt chiến đấu đầu tiên của pháo binh Việt Nam.
Năm 1966 Liên Xô chi viện cho Quân đội nhân dân Việt Nam pháo hỏa tiễn 24 nòng đặt trên xe, sử dụng phương tiện hiện đại để phóng cùng một lúc 24 viên đạn, nhưng như thế chưa phù hợp với điều kiện tác chiến của Việt Nam. Phía Việt Nam yêu cầu Liên Xô cải tiến loại pháo hỏa tiễn đó bằng cách tháo rời giàn pháo ra từng nòng để bộ đội Việt Nam mang vác cơ động và chiến đấu được thuận lợi. Loại pháo cải tiến này được đặt tên mới là ĐKZB, và gọn hơn là ĐKB. Pháo hỏa tiễn ĐKB cỡ 122 mm, tầm bắn 11.200 m, đạn nặng gần 60 kg. Trung đoàn pháo hỏa tiễn 724 được thành lập tháng 2 năm 1966 và được đưa vào miền Đông Nam Bộ (chiến trường B2). Trung đoàn 724 trực thuộc Đoàn 69 (tương đương cấp sư đoàn) pháo binh Miền (tên gọi tắt của chiến trường B2). Trung đoàn trưởng Trần Đáo và Chính ủy Đinh Lại hy sinh trên đường vào miền Nam nên Tô Đê làm Trung đoàn trưởng và Lê Bình làm Chính ủy trung đoàn. Trung đoàn đã pháo kích sân bay Biên Hòa ngày 11 tháng 5 năm 1967, phá hủy và phá hỏng 150 máy bay các loại và nhiều phương tiện kỹ thuật, đốt cháy nhiều kho nhiên liệu, tiêu diệt và làm bị thương hơn 800 phi công và nhân viên kỹ thuật đối phương.
Binh chủng Pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam là binh chủng chiến đấu, là hỏa lực chủ yếu của lục quân; có thể tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng hoặc độc lập tác chiến.
Ảnh | Chủng loại | Nguồn gốc | Loại | Số lượng hoạt động | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Pháo | |||||
Liên Xô | Súng cối 60mm (nhiều phiên bản) | Chưa rõ | |||
Súng cối 82mm (nhiều phiên bản) | |||||
120-PM-38M | Súng cối hạng nặng 120 mm cải tiến | ||||
120-PM-43 | Súng cối hạng nặng 120mm | ||||
2B11 | Súng cối hạng nặng 120 mm | ||||
BS-3 | Lựu pháo nòng dài 100mm | ||||
B-10 | Pháo không giật 82mm | ||||
B-11 | Pháo không giật 107 mm | Vũ khí dự bị | |||
D-20 | Lựu pháo 152mm | 350 | |||
D-30 | Lựu pháo 122mm | 450 | |||
D-44 | Pháo bắn thẳng 85mm | ||||
D-74 | Lựu pháo nòng dài122 mm | ||||
M-1943 | Súng cối hạng nặng 160mm | ||||
M-46 | Lựu pháo nòng dài 130mm | 250 | |||
M-160 | Súng cối 160 mm | ||||
SPG-9 | Pháo không giật 73mm | ||||
M1938 | Súng cối 107 mm | ||||
ML-20 | Lựu pháo 152 mm | 100 | |||
T-12 | Nga | Pháo chống tăng 100 mm | |||
Trung Quốc | Súng cối 100mm | Chưa rõ | |||
M101 | Hoa Kỳ | Lựu pháo 105 mm | |||
M114 | Lựu pháo 155mm | 100 | |||
M2A1 | Lựu pháo 105mm | ||||
[[M40 recoilless rifle|M-40] | Pháo không giật 105 mm. | Vũ khí dự bị | |||
Súng cối giảm âm 50mm | Chưa rõ | ||||
Việt Nam | Súng cối 100 mm | ||||
SPG-9T2 | Pháo không giật 73 mm | ||||
Xe kéo pháo | |||||
AT-L | Liên Xô | Xe kéo pháo bánh xích. | [4] | ||
ATS-59G | Liên Xô | Xe kéo pháo bánh xích. | [5][6] | ||
M548 | Hoa Kỳ | Xe kéo pháo bánh xích. |
Ảnh | Chủng loại | Nguồn gốc | Loại | Số lượng hoạt động | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
BM-13 | Liên Xô | Pháo phản lực phóng loạt 132 mm 16 ống. | Vũ khí dự bị | ||
BM-14 | Pháo phản lực 140 mm 16 ống | 400 | thực địa trong Chiến tranh Việt Nam từ năm 1967[7] | ||
BM-21 | Pháo phản lực 122 mm 40 ống | 350 tính đến năm 2016[8] | |||
DKB | Pháo phản lực mang vác 122 mm (1 ống phóng đơn phóng đạn BM-21) | Không rõ | 955 đơn vị 9P132 hay DKB được Liên Xô chuyển giao (400 đơn vị được chuyển giao vào năm 1966, 400 - 1970, 155 - năm 1972). Hiện nay đã tự chế tạo trong nước nhưng không rõ số lượng | ||
Type63 | Liên Xô / Trung Quốc | Pháo phản lực 106,7 mm 12 ống | 306[9] |
Ảnh | Xe | Nguồn gốc | Loại | Phiên bản | Số lượng | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|---|
Pháo mặt đất tự hành | ||||||
ASU-57 | Liên Xô | Pháo đổ bộ đường không/pháo chống tăng | ASU-57 | không rõ | [10]đã loại biên | |
ASU-85 | Pháo tự hành đổ bộ đường không | ASU-85 | Không rõ | [11] | ||
2S1 Gvozdika | Pháo mặt đất tự hành | 2S1 Gvozdika | 150 | [12] | ||
2S3 Akatsiya | Pháo mặt đất tự hành | 2S3 Akatsiya | 30[13] | [14] | ||
Pháo tự hành M101 | Việt Nam | Pháo mặt đất tự hành | M1: Tích hợp lựu pháo xe kéo M101 với khung gầm xe tải Ural-375D.
M3: Tích hợp lựu pháo xe kéo M101 và súng máy hạng nặng 12,7 mm lên khung gầm xe tải Ural-4320. |
Chưa rõ | [15] | |
M548-XX | Pháo mặt đất tự hành | M548-23: Trang bị 1 pháo phòng không 23mm-2 trên cơ sở xe M548.
M548-76: Trang bị một pháo 76,2mm Zis-3 trên cơ sở xe M548. M548-85mm:: Trang bị pháo 85mm D44 trên cơ sở xe M548. M548-105: Trang bị một pháo105mm M102 trên cơ sở xe M548, ngoài ra còn trang bị súng máy 7.62mm PKT. |
[16] | |||
M113 | Hoa Kỳ / Việt Nam | Cối tự hành | M106A1: Biến thể của M113 trang bị súng cối M30 106,7mm.
M125A1: Biến thể của M113 trang bị súng cối M29 81mm. M106-100: Biến thể của M106 trang bị súng cối 100 mm và súng 12,7 mm DShK/K-54 do Viêt Nam tự sản xuất. M125-100: Biến thể của M125 trang bị súng cối 100 mm và súng 12,7 mm DShK/K-54 do Viêt Nam tự sản xuất. |
Không rõ | [17][18] | |
M107 | Hoa Kỳ | Pháo tự hành 175mm | Chưa rõ |
Chiến lợi phẩm sau năm 1975, hiện nằm trong kho dự trữ. |
Ảnh | Chủng loại | Nguồn gốc | Loại | Số lượng | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
3M11 Falanga | Liên Xô | Tên lửa chống tăng (sử dụng trên trực thăng Mi-24) | |||
9M113 Konkurs | [19] | ||||
9M14 Malyutks | Tên lửa chống tăng | [20] | |||
9K11 Fagot | |||||
SS-1 Scud B/C/D | Tên lửa đạn đạo chiến thuật | 24[21] | |||
9K114 Shturm | Nga | Tên lửa chống tăng (sử dụng phiên bản hải quân SHTURM-Ataka trang bị cho các Tàu tuần tra cao tốc Mirage mua của Nga) | |||
Hwasong-6 (Scud-C) | CHDCND Triều Tiên | Tên lửa đạn đạo tầm ngắn | [22] |
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
|tên=
thiếu |tên=
(trợ giúp); |url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
|tên=
thiếu |tên=
(trợ giúp); |url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
|tên=
thiếu |tên=
(trợ giúp)
|tên=
thiếu |tên=
(trợ giúp); Liên kết ngoài trong |website=
(trợ giúp)
|title=
(trợ giúp)
|tên=
thiếu |tên=
(trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày=
(trợ giúp); Liên kết ngoài trong |website=
(trợ giúp)