Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-275 |
Đặt hàng | 10 tháng 4, 1941 |
Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft, Bremen |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 40 |
Đặt lườn | 18 tháng 1, 1942 |
Hạ thủy | 8 tháng 10, 1942 |
Nhập biên chế | 25 tháng 11, 1942 |
Tình trạng | Bị đánh chìm do trúng thủy lôi trong eo biển Manche, 10 tháng 3, 1945[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 50 344 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
|
U-275 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện tổng cộng được chín chuyến tuần tra và đánh chìm được một tàu buôn tải trọng 4.934 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 1.090 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Đại Tây Dương, U-275 đắm do trúng thủy lôi trong eo biển Manche vào ngày 10 tháng 3, 1945.
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-270 được đặt hàng vào ngày 10 tháng 4, 1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bremer-Vulkan-Vegesacker Werft ở Bremen vào ngày 18 tháng 2, 1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 10, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 25 tháng 11, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Helmut Bork.[1]
Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 8, U-275 được điều sang Chi hạm đội U-boat 3 từ ngày 1 tháng 6, 1943.[1]
Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel đến cảng Bergen, Na Uy, rồi qua lại đến Trondheim, Na Uy trong tháng 8, U-275 khởi hành từ Bergen vào ngày 4 tháng 9 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng qua khe GIUK giữa quần đảo Faroe và Iceland để hoạt động trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland. Tại đây chiếc tàu ngầm bị một máy bay ném bom Lockheed Hudson tấn công vào ngày 1 tháng 10, nhưng U-275 thoát được mà không bị hư hại gì.[5] Nó kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng La Pallice tại La Rochelle, bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 28 tháng 10.[3]
Xuất phát từ cảng St. Nazaire vào ngày 25 tháng 2 cho chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, U-275 một lần nữa hoạt động tại khu vực eo biển Manche.[6] Vào ngày 8 tháng 3, nó tấn công và đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Lornaston (GRT|4943|link=off}} thuộc Đoàn tàu ONA 289, ở vị trí về phía Tây Bắc Fécamp, tại tọa độ 50°35′B 0°30′T / 50,583°B 0,5°T.[7] Tuy nhiên chỉ hai ngày sau đó 10 tháng 3, U-275 trúng thủy lôi ở vị trí ngoài khơi Beachy Head và đắm tại tọa độ 50°36′B 00°04′Đ / 50,6°B 0,067°Đ.[1] Toàn bộ 48 thành viên thủy thủ đoàn của U-275 đều tử trận.[1]
U-275 từng tham gia bốn bầy sói:
U-275 đã đánh chìm được một tàu buôn tải trọng 4.934 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 1.090 tấn:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[8] |
---|---|---|---|---|
24 tháng 12, 1943 | USS Leary | Hải quân Hoa Kỳ | 1.090 | Bị đánh chìm |
8 tháng 3, 1945 | Lornaston | United Kingdom | 4.934 | Bị đánh chìm |