U-211 (tàu ngầm Đức)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-211
Đặt hàng 16 tháng 10, 1939
Xưởng đóng tàu Germaniawerft, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 640
Đặt lườn 29 tháng 3, 1941
Hạ thủy 15 tháng 1, 1942
Nhập biên chế 7 tháng 3, 1942
Tình trạng Bị máy bay Anh đánh chìm tại Đại Tây Dương, 19 tháng 11, 1943[1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [2]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 44 194
Chỉ huy:
  • Thiếu tá Karl Hause
  • 7 tháng 3, 1942 – 19 tháng 11, 1943
Chiến dịch:
  • 5 chuyến tuần tra:
  • 1: 26 tháng 8 – 7 tháng 10, 1942
  • 2: 11 tháng 11 – 29 tháng 12, 1942
  • 3: 13 – 25 tháng 2, 1943
  • 4: 10 tháng 5–16 tháng 7 & 23–24 tháng 9, 1943
  • 5: 11 tháng 10 – 19 tháng 11, 1943
Chiến thắng:
  • 1 tàu chiến bị đánh chìm
    (1.350 tấn)
  • 3 tàu buôn bị hư hại
    (31.883 GRT)

U-211 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được năm chuyến tuần tra, đánh chìm được một tàu chiến tải trọng 1.350 tấn, đồng thời gây hư hại cho ba tàu buôn khác tổng tải trọng 31.883 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại Đại Tây Dương, U-211 bị một máy bay ném bom Vickers Wellington Không quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm về phía Đông quần đảo Azores vào ngày 19 tháng 11, 1943.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-211 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 29 tháng 3, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 1, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 7 tháng 3, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Karl Hause.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi chuyển căn cứ từ Kiel đến Bergen ngang qua Arendal, Na Uy trong tháng 8, 1942, U-211 xuất phát từ cảng Na Uy này vào ngày 26 tháng 8 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh.[3] Nó băng qua khe GIUK giữa quần đảo FaroeIceland để đi đến hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương. Vào ngày 12 tháng 9, nó tấn công Đoàn tàu ON 127 và đã gây hư hại cho các tàu buôn Anh Empire Moonbeam 6.849 GRTHektoria 13.797 GRT ở vị trí về phía Tây Nam Cape Clear, Ireland.[5] Đến ngày 23 tháng 9, nó tiếp tục tấn công và gây hư hại cho tàu chở dầu Hoa Kỳ Esso Williamsburg 11.237 GRT ở vị trí khoảng 500 nmi (930 km) về phía Nam mũi Farewell, Greenland; Esso Williamsburg cuối cùng bị tàu ngầm U-254 đánh chìm vào ngày 3 tháng 10.[6] U-211 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng Brest bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp bị Đức chiếm đóng vào ngày 7 tháng 10.[7][1]

Chuyến tuần tra thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

U-211 khởi hành từ Brest vào ngày 11 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ hai để tiếp tục hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương.[3] Vào ngày 17 tháng 12, trong thành phần bầy sói Raufbold, nó tấn công Đoàn tàu ON 153 ở vị trí giữa Đại Tây Dương, và đã phóng ngư lôi nhắm vào tàu khu trục Anh HMS Firedrake. Firedrake bị vỡ làm đôi, phần mũi đắm ngay lập tức và phần đuôi nổi thêm được vài giờ; chỉ có 26 người trong tổng số 196 thành viên thủy thủ đoàn của Firedrake sống sót.[8] Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và đi đến Brest vào ngày 29 tháng 12.[9][1]

Chuyến tuần tra thứ ba và thứ tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ ba vốn chỉ kéo dài từ ngày 13 đến ngày 25 tháng 2,[3] U-211 hoạt động tại Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Nam Ireland. Vào ngày 20 tháng 2, nó bị một máy bay ném bom B-24 Liberator tấn công ở vị trí về phía Tây vịnh Biscay. Sáu quả mìn sâu thả xuống đã gây hư hại đáng kể cho chiếc tàu ngầm, buộc nó phải cắt ngắn chuyến tuần tra và rút lui về căn cứ Brest.[10][1]

Khởi hành từ Brest vào ngày 10 tháng 5 cho chuyến tuần tra tiếp theo, U-211 chuyển sang hoạt động xa hơn về phía Nam đến khu vực Trung tâm Đại Tây Dương.[3] Vào ngày 15 tháng 5, nó lại bị một máy bay ném bom Armstrong Whitworth Whitley thuộc Liên đội 10 Không quân Hoàng gia Anh thả ba quả mìn sâu tấn công ở vị trí về phía Bắc Finisterre, Tây Ban Nha. Thiệt hại không đáng kể, chiếc tàu ngầm tiếp tục chuyến tuần tra cho đến khi quay về Brest vào ngày 16 tháng 7.[11][1]

Chuyến tuần tra thứ năm - Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi chuyển căn cứ từ Brest sang cảng Lorient cùng thuộc nước Pháp trong tháng 9, U-211 khởi hành từ đây vào ngày 11 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ năm, cũng là chuyến cuối cùng, tại khu vực Trung tâm Đại Tây Dương.[3] Vào ngày 19 tháng 11, 1943, nó bị một máy bay ném bom Vickers Wellington thuộc Liên đội 179 Không quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu tấn công và đánh chìm về phía Đông quần đảo Azores, tại tọa độ 40°15′B 19°18′T / 40,25°B 19,3°T / 40.250; -19.300; toàn bộ 54 thành viên thủy thủ đoàn của U-211 đều tử trận.[1]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-211 từng tham gia tám bầy sói:

  • Vorwärts (3 – 26 tháng 9, 1942)
  • Panzer (27 tháng 11 – 11 tháng 12, 1942)
  • Raufbold (11 – 21 tháng 12, 1942)
  • Trutz (1 – 16 tháng 6, 1943)
  • Trutz 3 (16 – 29 tháng 6, 1943)
  • Geier 2 (30 tháng 6 – 10 tháng 7, 1943)
  • Schill (25 tháng 10 – 16 tháng 11, 1943)
  • Schill 1 (16 – 19 tháng 11, 1943)

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-211 đã đánh chìm được một tàu chiến tải trọng 1.350 tấn, đồng thời gây hư hại cho ba tàu buôn khác tổng tải trọng 31.883 GRT:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[12]
12 tháng 9, 1942 Empire Moonbeam  United Kingdom 6.849 Bị hư hại
12 tháng 9, 1942 Hektoria  United Kingdom 13.797 Bị hư hại
23 tháng 9, 1942 Esso Williamsburg  United States 11.237 Bị hư hại
17 tháng 12, 1942 HMS Firedrake  Hải quân Hoàng gia Anh 1.350 Bị đánh chìm

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-211”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-211”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  4. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  5. ^ Helgason, Guðmundur. “Empire Moonbeam - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Esso Williamsburg - American Motor tanker”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-211 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “HMS Firedrake (H 79) - British destroyer”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-211 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-211 (third patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-211 (fourth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  12. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-211”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Edwards, Bernard (1996). Dönitz and the Wolf Packs – The U-boats at War. Cassell Military Classics. tr. 105, 108. ISBN 0-304-35203-9.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-211”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 211”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan