Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-221 |
Đặt hàng | 15 tháng 8, 1940 |
Xưởng đóng tàu | Germaniawerft, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 651 |
Đặt lườn | 16 tháng 6, 1941 |
Hạ thủy | 14 tháng 3, 1942 |
Nhập biên chế | 9 tháng 5, 1942 |
Tình trạng | Bị máy bay ném bom Không quân Hoàng gia Anh đánh chìm tại Đại Tây Dương, 27 tháng 9, 1943[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 45 566 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
U-221 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được năm chuyến tuần tra, đánh chìm được mười một tàu buôn tổng tải trọng 69.589 GRT cùng mười tàu chiến tổng tải trọng 759 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng 7.197 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại Bắc Đại Tây Dương, U-221 bị một máy bay ném bom Handley Page Halifax của Không quân Hoàng gia Anh đánh chìm về phía Tây Nam Ireland vào ngày 27 tháng 9, 1943.
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-221 được đặt hàng vào ngày 15 tháng 8, 1940,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 16 tháng 6, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 3, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 9 tháng 5, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Hans-Hartwig Trojer.[1]
U-221 xuất phát từ cảng St. Nazaire vào ngày 20 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ năm, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Nam Ireland.[3] Vào ngày 27 tháng 9, nó bị một máy bay ném bom Handley Page Halifax thuộc Liên đội 58 Không quân Hoàng gia Anh phát hiện và tấn công với tám quả mìn sâu được thả xuống, khiến U-221 bị đánh chìm tại tọa độ 47°0′B 18°0′T / 47°B 18°T; toàn bộ 50 thành viên thủy thủ đoàn của U-221 đều tử trận.[5][6][1] Bản thân chiếc Halifax cũng trúng hỏa lực phòng không của U-221 và buộc phải hạ cánh cách chiếc tàu ngầm khoảng 3 mi (4,8 km), và hai xạ thủ trên chiếc máy bay đã thiệt mạng.[5][6]
U-221 từng tham gia mười hai bầy sói:
U-221 đã đánh chìm được mười một tàu buôn tổng tải trọng 69.589 GRT cùng mười tàu chiến tổng tải trọng 759 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng 7.197 GRT:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[7] |
---|---|---|---|---|
13 tháng 10, 1942 | Ashworth | United Kingdom | 5.227 | Bị đánh chìm |
13 tháng 10, 1942 | Fagersten | Norway | 2.342 | Bị đánh chìm |
13 tháng 10, 1942 | Senta | Norway | 3.785 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | Southern Empress | United Kingdom | 12.398 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCM-508[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 52 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCM-509[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 52 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCM-519[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 52 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCM-522[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 52 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCM-523[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 52 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCM-532[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 52 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCM-537[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 52 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCM-547[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 52 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCM-620[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 52 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | HMS LCT-2006[Ghi chú 2] | Hải quân Hoàng gia Anh | 291 | Bị đánh chìm |
14 tháng 10, 1942 | Susana | United States | 5.929 | Bị đánh chìm |
7 tháng 3, 1943 | Jamaica | Norway | 3.015 | Bị đánh chìm |
10 tháng 3, 1943 | Andrea F. Luckenbach | United States | 6.565 | Bị đánh chìm |
10 tháng 3, 1943 | Lawton B. Evans | United States | 7.197 | Bị hư hại |
10 tháng 3, 1943 | Tucurinca | United Kingdom | 5.412 | Bị đánh chìm |
18 tháng 3, 1943 | Canadian Star | United Kingdom | 8.293 | Bị đánh chìm |
18 tháng 3, 1943 | Walter Q. Gresham | United States | 7.191 | Bị đánh chìm |
18 tháng 3, 1943 | Sandanger | Norway | 9.432 | Bị đánh chìm |