Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-202 |
Đặt hàng | 23 tháng 9, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Germaniawerft, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 631 |
Đặt lườn | 18 tháng 3, 1940 |
Hạ thủy | 10 tháng 2, 1941 |
Nhập biên chế | 22 tháng 3, 1941 |
Tình trạng | Bị các tàu chiến Anh đánh chìm tại Bắc Đại Tây Dương, 2 tháng 6, 1943[1][2] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [3] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [3] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[2][4] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 38 859 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
U-202 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tổng cộng chín chuyến tuần tra, đánh chìm được chín tàu buôn tổng tải trọng 34.615 GRT đồng thời gây hư hại cho bốn tàu buôn khác tổng tải trọng 35.427 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại Bắc Đại Tây Dương, U-202 bị đánh chìm bởi mìn sâu và hỏa lực hải pháo từ các tàu chiến Anh về phía Đông Nam Greenland vào ngày 2 tháng 6, 1943.[1]
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-202 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 9, 1939,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 18 tháng 3, 1940.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 2, 1941,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 22 tháng 3, 1941[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Hans-Heinz Linder.[2]
U-202 xuất phát từ Brest vào ngày 29 tháng 4, 1943 cho chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, hướng sang khu vực Bắc Đại Tây Dương ngoài khơi Canada.[4] Khi chiếc tàu ngầm gửi một báo cáo vô tuyến về căn cứ lúc 09 giờ 30 phút ngày 1 tháng 6, vị trí của nó đã bị các tàu chiến Hải quân Hoàng gia Anh trang bị máy định vị cao tần (HF/DF: High-frequency direction finding) phát hiện. Sáu tàu chiến thuộc Đội Hộ tống 2, do Đại tá Hải quân Frederick J. Walker chỉ huy trên tàu sà lúp HMS Starling, bắt đầu truy tìm chiếc tàu ngầm, và dò được tín hiệu sonar của mục tiêu nên bắt đầu tấn công bằng mìn sâu. U-202 cố gắng lặn sâu và cơ động né tránh cũng như thả mồi bẫy để tìm cách thoát khỏi những kẻ truy đuổi, nhưng không thành công.[6][1]
Các tàu chiến Anh áp dụng chiến thuật buộc tàu ngầm đối phương phải di chuyển ngầm liên tục để làm cạn kiệt ắc-quy. U-202 cuối cùng buộc phải trồi lên mặt nước lúc sau nữa đêm, lập tức phải chịu đựng hỏa lực hải pháo từ các tàu đối phương. Starling dự định húc để đánh chìm U-202, nhưng nhận ra đối thủ đã bị hư hại nặng nên chuyển hướng vào phút cuối để chạy song song và tiếp tục nả pháo. U-202 đắm 40 phút sau khi trồi lên mặt nước, ở vị trí về phía Đông Nam Greenland, tại tọa độ 56°12′B 39°52′T / 56,2°B 39,867°T;[6][1] 18 thành viên thủy thủ đoàn của U-202 đã tử trận, và 30 người sống sót bị bắt làm tù binh chiến tranh.[2]
U-202 từng tham gia mười bầy sói:
U-202 đã đánh chìm được chín tàu buôn tổng tải trọng 34.615 GRT đồng thời gây hư hại cho bốn tàu buôn khác tổng tải trọng 35.427 GRT:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[7] |
---|---|---|---|---|
27 tháng 8, 1941 | Ladylove | United Kingdom | 230 | Bị đánh chìm |
11 tháng 9, 1941 | Scania | Sweden | 1.999 | Bị đánh chìm |
3 tháng 11, 1941 | Flynderborg | United Kingdom | 2.022 | Bị đánh chìm |
3 tháng 11, 1941 | Gretavale | United Kingdom | 4.586 | Bị đánh chìm |
22 tháng 3, 1942 | Athelviscount | United Kingdom | 8.882 | Bị hư hại |
1 tháng 4, 1942 | Loch Don | United Kingdom | 5.249 | Bị đánh chìm |
22 tháng 6, 1942 | Rio Tercero | Argentina | 4.864 | Bị đánh chìm |
1 tháng 7, 1942 | City of Birmingham | United States | 5.861 | Bị đánh chìm |
1 tháng 10, 1942 | Achilles | Netherlands | 1.815 | Bị đánh chìm |
23 tháng 2, 1943 | British Fortitude | United Kingdom | 8.482 | Bị hư hại |
23 tháng 2, 1943 | Empire Norseman | United Kingdom | 9.811 | Bị hư hại |
23 tháng 2, 1943 | Esso Baton Rouge | United States | 7.989 | Bị đánh chìm |
23 tháng 2, 1943 | Murena | Netherlands | 8.252 | Bị hư hại |