Tàu ngầm U-132 đang quay trở về cảng La Pallice
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-132 |
Đặt hàng | 7 tháng 8, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft GmbH, Bremen-Vegesack |
Kinh phí | 4.760.000 Reichsmark |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 11 |
Đặt lườn | 10 tháng 8, 1940 |
Hạ thủy | 10 tháng 4, 1941 |
Nhập biên chế | 29 tháng 5, 1941 |
Tình trạng | Bị đánh chìm tại Đại Tây Dương, 4 tháng 11, 1942[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 41 284 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
U-132 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được bốn chuyến tuần tra, phá hủy được tám tàu buôn tổng tải trọng 37.280 GRT và hai tàu chiến tổng tải trọng 2.773 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại Đại Tây Dương, U-132 bị đánh chìm vào ngày 4 tháng 11, 1942, có thể do trúng mảnh vỡ từ một tàu chở đạn bị nổ tung.
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 6 V 40/46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Brown, Boveri & Cie GG UB 720/8 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-132 được đặt hàng vào ngày 7 tháng 8, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Vegesacker Werft tại Bremen-Vegesack vào ngày 10 tháng 8, 1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 4, 1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 29 tháng 5, 1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Ernst Vogelsang.[1]
U-132 xuất phát từ càng La Pallice vào ngày 6 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ tư, cũng là chuyến cuối cùng, tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Canada.[3] Vào ngày 4 tháng 11, ở vị trí khoảng 500 mi (800 km) về phía Đông Nam mũi Farewell Greenland, nó đã tấn công Đoàn tàu SC 107 lúc 00 giờ 15 phút, đánh chìm tàu buôn Hà Lan Hobbema 5.507 GRT và tàu buôn Anh Empire Lynx 6.379 GRT, đồng thời gây hư hại cho tàu buôn Anh Hatimura 6.690 GRT đang chở hàng hóa đạn dược.[5]
Trong khi Hatimura bốc cháy và đang chìm dần, nó tiếp tục bị tàu ngầm U-442 từ phía sau đoàn tàu vận tải phóng ngư lôi tấn công lúc 03 giờ 22 phút. Hatimura nổ tung và đắm, nhưng đã phát tán mảnh vỡ trên một khu vực rộng.[5] Nhiều khả năng U-132 đã không rút ra khoảng cách đủ an toàn, nên trúng mảnh vỡ của Hatimura và đắm ngay lập tức tại tọa độ 55°38′B 39°52′T / 55,633°B 39,867°T;[1] toàn bộ 47 thành viên thủy thủ đoàn của U-132 đều tử trận.[1]
U-132 từng tham gia ba bầy sói:
U-132 đã đánh chìm được tám tàu buôn tổng tải trọng 37.280 GRT và hai tàu chiến tổng tải trọng 2.773 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[6] |
---|---|---|---|---|
18 tháng 10, 1941 | Argun | Liên Xô | 3.487 | Bị đánh chìm |
18 tháng 10, 1941 | SKR-11 Ural | Hải quân Liên Xô | 557 | Bị đánh chìm |
29 tháng 1, 1942 | USCGC Alexander Hamilton | Tuần duyên Hoa Kỳ | 2.216 | Bị đánh chìm |
6 tháng 7, 1942 | Anastassios Pateras | Hy Lạp | 3.382 | Bị đánh chìm |
6 tháng 7, 1942 | Dinaric | Liên hiệp Anh | 2.555 | Bị đánh chìm |
6 tháng 7, 1942 | Hainaut | Bỉ | 4.312 | Bị đánh chìm |
20 tháng 7, 1942 | Frederika Lensen | Liên hiệp Anh | 4.367 | Tổn thất toàn bộ |
30 tháng 7, 1942 | Pacific Pioneer | Liên hiệp Anh | 6.734 | Bị đánh chìm |
4 tháng 11, 1942 | Empire Lynx | Liên hiệp Anh | 6.379 | Bị đánh chìm |
4 tháng 11, 1942 | Hatimura | Liên hiệp Anh | 6.690 | Bị hư hại |
4 tháng 11, 1942 | Hobbema | Hà Lan | 5.507 | Bị đánh chìm |